Vì sao các giám đốc tài chính quan tâm đến các quyền chọn:
- Thứ nhất: Các công tu thường xuyên dùng quyền chọn đối với hàng hóa, tiền và 
lãi suất để giảm thiểu rủi ro.
Ví dụ: Một công ty đóng hộp thịt muốn đặt một mức trần cho chi phí thịt bò, có thể 
sử dụng một quyền chọn để mua gia súc sống.
- Thứ hai: Nhiều dự án đầu tư vốn bao gồm sẵn một quyền chọn để mở rộng hoạt 
động trong tương lai.
Ví dụ: Một công ty đầu tư vào một bản quy ền cho phép công ty khai thác một công 
nghệ mới hay có thể mua một miếng đất kế cận để có quyền chọn gia tăng công suất 
trong tương lai. 
Trong mỗi trường hợp, công ty đang chi tiền ngày nay cho cơ hội đầu tư 
thêm sau này. Nói cách khác, công ty đang mua các cơ hội tăng trưởng.
Lý do khác để các giám đốc tài chính cần hiểu rõ các quyền chọn là các quyền chọn 
này thường được kèm thêm vào một phát hành chứng khoán doanh nghiệp và, vì 
vậy, cung cấp cho nhà đầu tư hay công ty sự linh hoạt trong việc thay đổi các điều 
khoản của phát hành.
Trên thực tế, chúng ta thấy rằng bất cứ khi nào một công ty vay tiền, công ty tạo ra 
một quyền chọn. Lý do là người vay không bị bắt buộc phải trả nợ khi đáo hạn. N ếu 
giá trị tài sản của công ty thấp hơn số nợ, công ty sẽ chọn giải pháp không thực hiện 
nghĩa vụ thanh toán nợ và các trái chủ sẽ thu giữ tài sản công ty. Như vậy, khi công 
ty vay tiền, nhà cho vay trên thực tế đã thụ đắc công ty và các cổ đông được quy ền 
chọn để mua lại công ty bằng cách thanh toán hết nợ.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 20 trang
20 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1839 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Nhận diện và đánh giá các quyền chọn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUYÊN ĐỀ: 
NHẬN DIỆN VÀ ĐÁNH GIÁ CÁC 
QUYỀN CHỌN 
Giới thiệu: 
Vì sao các giám đốc tài chính quan tâm đến các quyền chọn: 
- Thứ nhất: Các công tu thường xuyên dùng quyền chọn đối với hàng hóa, tiền và 
lãi suất để giảm thiểu rủi ro. 
Ví dụ: Một công ty đóng hộp thịt muốn đặt một mức trần cho chi phí thịt bò, có thể 
sử dụng một quyền chọn để mua gia súc sống. 
- Thứ hai: Nhiều dự án đầu tư vốn bao gồm sẵn một quyền chọn để mở rộng hoạt 
động trong tương lai. 
Ví dụ: Một công ty đầu tư vào một bản quyền cho phép công ty khai thác một công 
nghệ mới hay có thể mua một miếng đất kế cận để có quyền chọn gia tăng công suất 
trong tương lai. 
Trong mỗi trường hợp, công ty đang chi tiền ngày nay cho cơ hội đầu tư 
thêm sau này. Nói cách khác, công ty đang mua các cơ hội tăng trưởng. 
Lý do khác để các giám đốc tài chính cần hiểu rõ các quyền chọn là các quyền chọn 
này thường được kèm thêm vào một phát hành chứng khoán doanh nghiệp và, vì 
vậy, cung cấp cho nhà đầu tư hay công ty sự linh hoạt trong việc thay đổi các điều 
khoản của phát hành. 
Trên thực tế, chúng ta thấy rằng bất cứ khi nào một công ty vay tiền, công ty tạo ra 
một quyền chọn. Lý do là người vay không bị bắt buộc phải trả nợ khi đáo hạn. Nếu 
giá trị tài sản của công ty thấp hơn số nợ, công ty sẽ chọn giải pháp không thực hiện 
nghĩa vụ thanh toán nợ và các trái chủ sẽ thu giữ tài sản công ty. Như vậy, khi công 
ty vay tiền, nhà cho vay trên thực tế đã thụ đắc công ty và các cổ đông được quyền 
chọn để mua lại công ty bằng cách thanh toán hết nợ. 
I. QUYỀN CHỌN MUA, QUYỀN CHỌN BÁN VÀ CỔ PHẦN: 
Thị trường các quyền chọn Chicago – CBOE (Chicago Board Options Exchange) 
được thành lập năm 1973 cho phép các nhà đầu tư mua và bán các quyền chọn đối 
với cổ phần. Thị trường này thành công ngay lập tức và được một số các thị trường 
khác sao chép. 
Ngoài các quyền chọn đối với cổ phần thường của cá nhân, hiện nay các nhà đầu tư 
có thể giao dịch các quyền chọn đối với chỉ số chứng khoán, trái phiếu, hàng hóa và 
tiền tệ. 
 QUYỀN CHỌN MUA: 
Một quyền chọn mua cho chủ sở hữu của nó quyền để mua cổ phần với một giá 
thực hiện được ấn định cụ thể vào ngày hay trước ngày thực hiện đã được ấn 
định trước. 
Quyền chọn chỉ có thể được thực hiện vào một ngày cụ thể được gọi là quyền chọn 
mua theo kiểu Châu Âu. 
Hoặc quyền chọn có thể được thực hiện vào ngày hay bất kỳ thời điểm nào trước 
ngày đáo hạn, được gọi là quyền chọn mua theo kiểu Mỹ. 
Ngày thực hiện Giá thực hiện 
(USD) 
Giá quyền chọn mua 
(USD) 
Giá quyền chọn bán 
(USD) 
Tháng 10/1998 80 8,875 3,25 
Tháng 01/1999 80 11,375 4,75 
Tháng 01/1999 85 8,625 6,875 
Bảng 23.1: Giá của các quyền chọn mua và quyền chọn bán cổ phần Intel trong 
tháng 7/1998. 
Xem xét cột thứ 3 của bảng, dòng đầu tiên cho thấy rằng với 8,875$ bạn có thể mua 
một quyền chọn để mua một cổ phần của chứng khoán Intel với giá 80$ vào tháng 
10 hay trước tháng 10/1998. Ở dòng kế tiếp, với giá 11,375$ bạn có thể gia hạn 
quyền chọn mua cổ phần Intel đến tháng 1/1999. Dòng cuối cùng cho thấy giá 
quyền chọn mua một cổ phần Intel với giá 85$ vào hay trước tháng 1/1999. 
Thành quả của việc đầu tư vào quyền chọn mua cổ phần Intel tùy thuộc vào điều gì 
xảy ra cho giá cổ phần. Nếu giá cổ phần vào cuối kỳ sáu tháng này thấp hơn giá 
thực hiện 85$, quyền chọn mua của bạn không có giá trị. Ngược lại, nếu giá cổ phần 
lớn 85$, bạn sẽ có lợi khi thực hiện quyền chọn mua của mình để mua cổ phần. 
Ví dụ: Giá cổ phần Intel tăng lên 100$, lúc đó giá trị quyền chọn mua có giá trị là: 
100$ - 85$ = 15$ 
 QUYỀN CHỌN BÁN: 
Một quyền chọn bán cho chủ sở hữu của nó quyền để bán cổ phần với một giá 
thực hiện được ấn định cụ thể vào ngày hay trước ngày thực hiện đã được ấn 
định trước. 
Xem xét cột cuối cùng của bảng, dòng cuối cùng cho thấy rằng với 6,875$ bạn có 
thể mua một quyền chọn để bán một cổ phần của chứng khoán Intel với giá 85$ vào 
bất kỳ thời điểm nào trong vòng 6 tháng tới. 
Quyền chọn bán sinh lợi trong các trường hợp ngược lại với trường hợp mà 
quyền chọn mua sinh lợi. 
Thành quả của việc đầu tư vào quyền chọn bán cổ phần Intel cũng tùy thuộc vào 
điều gì xãy ra cho giá cổ phần. Nếu giá cổ phần trước kỳ đáo hạn lớn hơn giá thực 
hiện 85$, bạn sẽ có lợi hơn khi bán cổ phần trên thị trường và lúc này quyền chọn 
bán của bạn không có giá trị. N gược lại, nếu giá cổ phần trước kỳ đáo hạn nhỏ hơn 
85$, bạn sẽ có lợi khi mua cổ phần với giá t hấp và thực hiện quyền chọn bán của 
mình để bán cổ phần mà bạn đã mua trên thị trường. Trong trường hợp này, giá trị 
quyền chọn bán vào ngày thực hiện là phần chênh lệch giữa 85$ và giá thị trường. 
Ví dụ: Giá cổ phần Intel là 65$, lúc đó giá trị quyền chọn bán có giá trị là: 
85$ - 65$ = 20$ 
 BÁN QUYỀN CHỌN MUA, QUYỀN CHỌN BÁN VÀ CỔ PHẦN: 
1.3.1. Bán quyền chọn mua: 
Nếu bạn bán một quyền chọn mua, điều này có nghĩa là bạn hứa sẽ giao số cổ phần 
của bạn nếu người mua quyền chọn yêu cầu bạn. 
Tài sản của người mua là nợ của người bán. Chính người mua mới luôn luôn 
có quyền chọn để thực hiện hay không, người bán chỉ đơn thuần làm điều mà 
người mua yêu cầu. 
Nếu vào ngày thực hiện, giá cổ phần thấp hơn giá thực hiện, người mua sẽ không 
thực hiện quyền chọn mua và nợ của người bán sẽ bằng 0. 
Nếu giá thị trường cao hơn giá thực hiện 85$, người mua sẽ thực hiện quyền chọn 
mua và người bán sẽ phải giao số cổ phần cho người mua với giá 85$. Lúc này, 
người bán bị thiệt phần chênh lệch giữa giá cổ phần và giá thực hiện nhận được từ 
người mua. 
Ví dụ: Giá thực hiện quyền chọn là 85$ 
Giá thị trường là 100$ 
Người mua thực hiện quyền chọn: 
- Người bán bị thiệt: 100$ - 85$ = 15$ 
- Lãi của người mua: 100$ - 85$ = 15$ 
Vậy: phần thua thiệt của người bán chính là lãi của người mua và cứ mỗi đôla 
người mua kiếm được, người bán thiệt mất một đôla. 
Thành quả của 
bạn 
Thành quả của 
bạn 
Thành quả của 
bạn 
Giá cổ phần 
tương lai 
85$ 85$ 85$ 
 (a) (b) (c) 
Hình 23.1: Vị thế của người bán 
(a): Giá trị của vị thế người bán quyền chọn mua 
(b): Giá trị của vị thế người bán quyền chọn bán 
(c): Giá trị của vị thế người bán cổ phần 
1.3.2. Bán quyền chọn bán: 
Cũng bằng cách tương tự như trên, ta thấy rằng người bán quyền chọn bán đã đồng 
ý chi trả giá thực hiện cho cổ phần khi người mua quyền chọn bán yêu cầu. 
Trong ví dụ trên, người bán sẽ an toàn trong trường hợp giá thị trường của cổ phần 
vẫn ở mức cao hơn 85$ nhưng sẽ mất tiền nếu giá cổ phần sụt thấp hơn giá này. 
 II . THUẬT GIẢ KIM TÀI CHÍNH VỚ I CÁC QUYỀN CHỌN 
2.1. Chiến lược dành cho những người thích đùa (chiến lược 1) 
Hình 2.1: Chiến lược dành cho người thích đùa 
- 85$ 
85$ Giá cổ phần 
- 85$ 
85$ Giá cổ phần 
- 85$ 
85$ Giá cổ phần 
Bán quyền chọn 
mua 
+ = 
Mua cổ phần 
Không hướng lên 
Giá cổ phần 
tương lai 
Giá cổ phần 
tương lai 
85$ 
85$ 85$ 
Giá cổ phần 
tương lai 
Giá cổ phần 
tương lai 
Giá cổ phần 
tương lai 
Thành quả của bạn Thành quả của bạn Thành quả của bạn 
Thành quả của việc mua một cổ phần chứng khoán Intel thể hiện ở sơ đồ thứ 
nhất, trong khi đó sơ đồ t hứ hai cho thấy thành quả của việc bán một quyền chọn mua 
với giá thực hiện 85$. Sơ đồ thứ 3 cho thấy kết quả của việc kết hợp hai vị thế này. 
Thành quả là chiến lược không thắng: Nếu giá cổ phần sụt thấp hơn 85$, bạn 
thua lỗ; Nếu giá cổ phần cao hơn 85$, người mua quyền chọn mua của bạn sẽ thực hiện 
quyền chọn, bạn phải giao cổ phần của mình cho họ với giá thực hiện 85$. Vì vậy, bạn 
thua lỗ ở phần hướng xuống và từ bỏ cơ hội hưởng lợi. Tuy nhiên bạn cũng được an ủi 
bằng việc đã nhận một khoản tiền khi bạn bán quyền chọn mua với giá 8,625$ trong 
tháng 7/1998. 
2.2. Chiến lược kết hợp một cổ phiếu và một quyền chọn bán (chiến lược 2) 
Hình 2.2: Chiến lược kết hợp mua một cổ phiếu và mua một quyền chọn bán 
Trong hình 2.2, sơ đồ thứ nhất cho thấy thành quả của việc mua một cổ phần 
Intel; sơ đồ thứ hai cho thấy thành quả của việc mua một quyền chọn bán cổ phần Intel 
với giá thực hiện là 85$; và sơ đồ thứ ba là kết quả của việc kết hợp hai vị thế này. 
Kết quả của việc kết hợp mua một cổ phần Intel và mua một quyền chọn bán cổ 
phần Intel với giá thực hiện 85$: Nếu giá cổ phần Intel tăng cao hơn 85$, dĩ nhiên bạn 
sẽ không thực hiện quyền chọn bán của mình, giá trị quyền chọn của bạn bằng zero; và 
phần bạn nhận được đó chính là phần lãi từ đầu tư của bạn vào cổ phần. Tuy nhiên, nếu 
như giá cổ phần sụt thấp hơn 85$, bạn sẽ thực hiện quyền chọn bán của mình và bán cổ 
phần với giá 85$. 
Như vậy, bằng cách cộng thêm một quyền chọn bán vào đầu tư của bạn vào cổ 
phần, bạn đã tự bảo vệ mình khỏi thua lỗ. Việc kết hợp một cổ phần và một quyền chọn 
bán còn được gọi là một quyền chọn bán có tính bảo vệ. Tất nhiên cái gì cũng có cái giá 
của nó, và chi phí mà bạn phải trả để tự bảo vệ mình khỏi thua lỗ đó chính là phí quyền 
chọn mà bạn đã trả hồi tháng 7/2008 là 6,875$, đây chính là mức giá hiện hành cho các 
nhà giả kim tài chính. 
2.3. Chiến lược mua một quyền chọn mua và để riêng một số tiền đủ để chi 
trả giá thực hiện (chiến lược 3) 
Mua cổ phần 
 + = 
Mua quyền chọn 
bán 
Bảo vệ phần 
hướng xuống 
Thành quả của bạn Thành quả của bạn Thành quả của bạn 
85$ 85$ 85$ Giá cổ phần 
tương lai 
Giá cổ phần 
tương lai 
Giá cổ phần 
tương lai 
Ở chiến lược 2, chúng ta đã thấy được các quyền chọn bán có thể được sử dụng 
để bảo vệ phần hướng xuống như thế nào. Bây giờ chúng ta sẽ xem xét cách các quyền 
chọn mua có thể được sử dụng để đạt được thành quả tương tự. 
Hình 2.3: Chiến lược mua một quyền chọn mua và để riêng một số tiền đủ để chi trả giá thực 
hiện 
 Quan sát hình 2.3, sơ đồ thứ nhất cho thấy thành quả từ việc ký thác hiện giá của 85$ 
vào ngân hàng, bất cứ điều gì xảy ra cho giá cổ phần Intel thì ngân hàng cũng thanh 
toán đủ 85$; sơ đồ thứ hai cho thấy thành quả của một quyền chọn mua cổ phần Intel 
với giá thực hiện 85$; sơ đồ thứ ba cho thấy điều gì xảy ra nếu kết hợp hai vị thế này. 
 Kết quả của việc kết hợp mua một quyền chọn mua và để riêng một số 
tiền đủ để chi trả giá thực hiện: 
 Khi giá cổ phần Intel sụt thấp hơn 85$, bạn không thực hiện quyền chọn 
mua của mình và như vậy quyền chọn mua của bạn không có giá trị, tuy nhiên 
bạn vẫn còn đủ 85$ trong ngân hàng. 
 Khi giá cổ phần Intel tăng cao hơn 85$, bạn sẽ thực hiện quyền chọn mua 
của mình. Với mỗi đô la mà giá cổ phần Intel tăng cao hơn 85$, đầu tư của bạn 
vào quyền chọn mua sẽ đem lại cho bạn thêm một đô la. Chẳng hạn, giá cổ phần 
Intel tăng lên 100$, bạn sẽ có 85$ trong ngân hàng và một quyền chọn mua trị 
giá 15$. 
 Như vậy, bạn đã được bảo vệ hoàn toàn trước bất kỳ sự sụt giá nào và 
tham gia đầy đủ vào bất ký sự gia tăng nào trong giá cổ phần; tất nhiên cái giá 
của bạn phải trả đó chính là phí quyền chọn mua mà bạn đã mua vào tháng 
7/1998 là 8,625$. 
 Mối liên hệ giữa chiến lược 2 và chiến lược 3: 
Không kể đến giá cổ phần tương lai, cả hai chiến lược đầu tư 1&2 đều cung cấp 
các thành quả tương tự: Nếu bạn mua một cổ phần và một quyền chọn bán để sáu tháng 
Ký thác ngân 
hàng chi trả 85$ 
Mua quyền chọn 
mua 
+ = 
Bảo vệ phần 
hướng xuống 
sau bạn bán cổ phần này lại với giá 85$ thì bạn cũng nhận được thành quả tương tự như 
trường hợp mua một quyền chọn mua và để riêng một số tiền đủ để chi trả 85$ giá thực 
hiện. 
Vì vậy, nếu bạn cam kết giữ cả hai gói cho đến cuối kỳ hạn 6 tháng, cả hai gói sẽ 
bán với cùng giá ngày hôm nay. Điều này cho ta một mối tương quan cơ bản giữa các 
quyền chọn theo kiểu Châu Âu: 
Giá trị quyền chọn mua + Hiện giá của giá thực hiện = Quyền chọn bán + 
giá cổ phần 
Tương quan này không đúng cho các quyền chọn theo kiểu Hoa Kỳ trong trường 
hợp bạn thực hiện các quyền chọn khi chưa đến hạn. 
Trong trường hợp cổ phần chi trả cổ tức trước ngày quyền chọn của bạn đến hạn 
(các nhà đầu tư mua quyền chọn không được hưởng cổ tức này) thì tương quan sẽ là: 
Giá trị quyền chọn mua + Hiện giá của giá thực hiện = Quyền chọn bán + 
giá cổ phần – hiện giá của cổ tức. 
2.4. Giao dịch quyền chọn được áp dụng tương tự trong nợ doanh nghiệp 
Công ty Circular đã vay 50$ mỗi cổ phần. Không may là hiện t ại doanh nghiệp đang 
trong thời điểm khó khăn, giá thị trường của các tài sản công ty sụt giảm còn 30$, trong 
đó, trái phiếu của Circular sụt xuống 25$ và giá cổ phần là 5$. Bảng cân đối kế toán 
theo giá thị trường của Circular như sau: 
Công ty Circular File ( Giá trị thị trường) 
Giá trị tài sản 30$ 25$ Trái phiếu 
 5$ Cổ phần 
 30$ 30$ 
Giá trị doanh 
nghiệp 
Nếu bây giờ nợ của Circular đến hạn trả, công ty không thể nào hoàn trả 50$ đã vay. 
Circular không thực hiện nghĩa vụ, các trái chủ sẽ nhận giá trị tài sản là 30$ và các cổ 
đông không nhận gì hết. Thực tế thì một năm nữa mới đến hạn trả nợ nên hiện tại cổ 
phần của công ty Circular vẫn có trị giá là 5$. Vì thế trong một năm có thể Circular sẽ 
thoát khỏi khó khăn, giá trị doanh nghiệp sẽ tăng đủ để Circular có thể trả hết nợ cho 
các trái chủ và có phần cho các cổ đông. 
Khi một doanh nghiệp vay tiền, người cho vay trên thực tế thụ đắc công ty, cổ đông có 
được quyền chọn mua tài sản của doanh nghiệp. Các trái chủ đã bán cho họ quyền chọn 
mua này. Bảng cân đối kế toán của Circular File như sau: 
Công ty Circular ( Giá trị thị trường) 
Giá trị tài sản 30$ 25$ 
Giá trị trái phiếu = Giá trị tài sản - 
Giá trị quyền chọn mua 
 5$ 
Cổ phần = Giá trị 
quyền chọn mua 
 30$ 30$ 
Giá trị doanh nghiệp = 
Giá trị tài sản 
Hình 2.4. Giá trị của cổ phần thường của Circular bằng giá trị của một quyền chọn mua đối với 
tài sản của doanh nghiệp với giá thực hiện 50$. 
Nếu giá tương lai của tài sản nhỏ hơn 50$, các cổ đông sẽ không thực hiện quyền 
chọn, giá cổ phần sẽ không còn giá trị. Nếu giá của tài sản nhiều hơn 50$, các cổ đông 
sẽ nhận giá trị tài sản trừ số tiền 50$ đã trả cho các trái chủ. Các thành quả trong hình 
2.4 tương tự như một quyền chọn mua đối với tài sản của doanh nghiệp với giá thực 
hiện 50$. 
Chúng ta hãy xem mối tương quan cơ bản giữa quyền chọn mua và quyền chọn bán: 
Giá trị quyền chọn mua + Hiện giá của giá thực hiện = Giá trị quyền chọn bán + Giá trị 
cổ phần.(1) 
Để áp dụng tương quan này cho trường hợp của công ty Circular File, chúng ta sẽ diễn 
dịch “giá trị cổ phần” thành “ giá trị tài sản” vì cổ phần thường là một quyền chọn mua 
tài sản của doanh nghiệp. Vì vậy, “hiện giá của giá thực hiện” là hiện giá của việc các 
trái chủ nhận được chi trả hứa hẹn chắc chắn trong năm tới. 
Như vậy (1) sẽ tương đương với: 
Giá trị quyền chọn mua + Hiện giá của chi trả hứa hẹn cho trái chủ = Giá trị quyền chọn 
bán + Giá trị tài sản. 
Bây giờ chúng ta có thể giải được bài toán giá trị của trái phiếu của Circular. Giá trị này 
bằng giá trị tài sản của doanh nghiệp trừ cho giá của quyền chọn mua của các cổ đông 
với các tài sản này: 
Giá trị trái phiếu = Giá trị tài sản – Giá trị của quyền chọn mua 
 = Hiện giá của chi trả hứa hẹn cho các trái chủ - Giá trị quyền chọn bán. 
Các trái chủ của Circular trên thực tế đã mua một trái phiếu an toàn và đã cho các cổ 
đông quyền chọn bán cho các trái chủ tài sản của doanh nghiệp với giá bằng với số nợ 
đã vay. 
Giá trị tương lai của cổ phần 
Giá trị tương lai của tài sản 
50$ 
0 
Như vậy, các trái chủ đang nhận được chi trả hứa hẹn 50$, và họ cũng đã cho các cổ 
đông quyền chọn nhận lại 50$ để đổi lấy tài sản của công ty. Nếu giá trị doanh nghiệp 
trở nên thấp hơn 50$ được hứa hẹn chi trả cho các trái chủ, các cổ đông sẽ thực hiện 
quyền chọn bán của họ. 
Trái phiếu rủi ro của Circular bằng với một trái phiếu an toàn trừ cho giá trị quyền chọn 
không thực hiện nghĩa vụ trả nợ của các cổ đông. Để định giá trái phiếu rủi ro này, cần 
định giá trái phiếu an toàn trừ cho giá trị của quyền chọn không trả nợ. Quyền chọn 
không trả nợ bằng với một quyền chọn bán tài sản của doanh nghiệp. Với Circular, 
quyền chọn không trả nợ cực kỳ đáng giá vì việc không thực hiện nghĩa vụ trả nợ rất có 
khả năng xảy ra. 
 Bảng cân đối kế toán của Circular theo giá trị tài sản, giá trị quyền chọn bán và hiện 
giá của một thanh toán chắc chắn 50$: 
Công ty Circular ( Giá trị thị trường) 
Giá trị tài 
sản 30$ 25$ 
Giá trị trái phiếu = Hiện giá của chi trả hứa hẹn - giá trị quyền 
chọn bán 
 5$ Cổ phần 
= Giá trị tài sản - hiện giá của chi trả hứa 
hẹn 
 + giá trị quyền chọn bán 
 30$ 30$ Giá trị doanh nghiệp = Giá trị tài sản 
Hình 2.4.1. Có thể xem trái phiếu của Circular (đường đen đậm) tương đương với một trái 
phiếu an toàn trừ cho một quyền chọn bán đối với tài sản của doanh nghiệp với giá thực hiện là 
50$ (đường đen ở dưới). 
Đường đen đậm trong hình 2.4.1 cho thấy thành quả của các trái chủ Circular. Nếu tài 
sản của doanh nghiệp có giá trị cao hơn 50$, các trái chủ được thanh toán nợ đầy đủ; 
ngược lại nếu giá trị của tài sản doanh nghiệp thấp hơn 50$, doanh nghiệp không thực 
hiện nghĩa vụ trả nợ, các trái chủ nhận được giá trị của tài sản. 
2.5. Nhận diện quyền chọn 
Trái phiếu an toàn 
Giá trị tương lai của trái phiếu/quyền chọn 
Trái phiếu của Circular 
Quyền chọn bán, thành 
quả của người bán 
Giá trị tương lai của 
tài sản doanh nghiệp 
50$ 
Các quyền chọn ít khi đến với một cái nhãn to đính kèm. Vì vậy vấn đề quan trọng và 
khó khăn nhất là nhận diện quyền chọn. Khi bạn không chắc là bạn đang xử lý một 
quyền chọn bán hay một quyền chọn mua hay một kết hợp cả hai thì tốt nhất là bạn hãy 
vẽ một sơ đồ vị thế. 
Để hiểu rõ vấn đề này, chúng ta hãy xem xét ví dụ sau: 
Công ty Flat iron & Mangle đề nghị với chủ tịch công ty là bà Highen một chương trình 
tưởng thưởng khích lệ như sau: Cuối năm, bà Highen sẽ được chi trả một khoản tiền 
thưởng là 50.000$ cho mỗi đô la mà giá cổ phần Flatiron vượt quá con số hiện hành 
120$. Tuy nhiên, mức thưởng tối đa được ấn định là 2 triệu $. 
Hình 2.5.1. Thành quả từ một trong các “ tấm vé của bà Higden tùy thuộc vào giá cổ 
phần của Flat iron. 
Bạn có thể xem bà Higden đang sở hữu 50.000 tấm vé, mỗi tấm sẽ không chi trả gì cả 
nếu giá cổ phần xuống thấp hơn 120$, giá trị của mỗi vé sẽ tăng 1$ cho mỗi đô la tăng 
giá trong giá cổ phần cho đến mức tối đa: 2.000.000/50.000 = 40$. 
III. ĐIỀU GÌ ẤN ĐỊNH GIÁ TRỊ QUYỀN CHỌN 
Cho đến bây giờ chúng tôi chưa đề cập gì đến việc giá trị của một quyền chọn 
được ấn định như thế nào. Tuy nhiên chúng ta biết một quyền chọn có giá trị khi đáo 
hạn. 
Giá trị của quyền chọn trong thí dụ về quyền chọn mua cổ phần Intel 
Giá cổ phần Intel < 85$ vào ngày thực hiện: 
 Quyền chọn mua không được thực hiện 
Giá cổ phần Intel > 85$ vào ngày thực hiện: 
 Quyền chọn mua có giá trị = GTCP- 85$ 
Theo sơ đồ vị thế của Bachelier, trương quan này được mô tả bằng đường in đậm (màu 
đỏ) trong hình sau: 
Thành quả 
Giá cổ phần 
120$ 160$ 
Hình 3.1: Giá trị của một quyền chọn mua trước ngày đáo hạn của nó (đường ngắt quãng). Giá 
trị này tùy thuộc vào giá cổ phần. Giá trị quyền chọn mua này luôn cao hơn giá trị của nó khi 
thực hiện ngay bây giờ (đường đậm đỏ). Nó không bao giờ có giá trị cao hơn giá của chính cổ 
phần (đường xanh đậm) 
Qua hình vẽ chúng ta có thể thấy, giá của quyền chọn trước khi đáo hạn luôn lớn hơn 
giá của nó nếu thực hiện ngay bây giờ (trừ điểm A). Điều này không có gì đáng ngạc 
nhiên. Rõ ràng các chủ sở hữu của các quyền chọn hy vọng giá cổ phần sẽ tăng, do đó 
họ mới quyết định mua quyền chọn. Tại bất kỳ thời điểm nào trước khi quyền chọn đáo 
hạn , thậm trí tại thời điểm mà giá cổ phần < giá thực hiện, nếu thực hiện ngay quyền 
thì giá quyền chọn = 0 (do quyền chọn không được thực hiện), thì những người nắm giữ 
quyền chọn hy vọng rằng trong tương lai giá cổ phần sẽ > giá thực hiện, do đó quyền 
chọn sẽ có giá trị > 0. 
 Đường chéo góc (xanh đậm) là giới hạn trên của quyền chọn. Tại sao ? Vì cổ phần cho 
một thành quả cuối cùng cao hơn, bất kể điều gì xảy ra. Nếu vào ngày đáo hạn, giá cổ 
phần cao hơn giá thực hiện, quyền chọn có gi