Chuyên đề Những giải pháp chủ yếu nhằm hoạch định chiến lược sản phẩm thuốc lá điếu ở tổng công ty thuốc lá Việt Nam đến năm 2001
Liên hiệp Thuốc lá Việt Nam (tiền thân của Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam) được hình thành và tổ chức quản lý ngành theo mô hình khép kín từ khâu đầu tiên là trồng cây thuốc lá để có nguyên liệu cho sản xuất sản phẩm thuốc lá đến khâu sản xuất các sản phẩm thuốc lá và các sản phẩm phụ trợ phục vụ cho toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh cuả Liên Hiệp, đánh dấu một bước chuyển biến mới về phương thức quản lý và trở thành một mô hình đầu tiên về quản lý ngành đối với ngành thuốc lá Việt Nam. Liên Hiệp Thuốc lá Việt Nam đã nhận thức được vai trò của thị trường đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, nhanh chóng chuyển đổi phương thức tiêu thụ sản phẩm, gắn chặt sản xuất với tiêu dùng, xây dựng và phát triển mạng lưới tiêu thụ sản phẩm trong cả nước, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sản lượng thuốc lá điếu sản xuất và tiêu thụ ngày càng tăng trưởng: từ mức khởi đầu là 600 triệu bao năm 1985 đến năm 1992 sản lượng đạt gần 1 tỷ bao, trong đó tỷ trọng thuốc lá đầu lọc tăng từ 6,7% năm 1985 lên hơn 40% năm 1992. Riêng thuốc lá đầu lọc bao cứng được bắt đầu sản xuất từ năm 1989 với sản lượng 1,5 triệu bao, đến năm 1992 đã tăng lên hơn 115 triệu bao. Trước năm 1978 lượng thuốc lá nhập lậu và tiêu thụ ở thị trường trong nước hàng năm khoảng40- 50 triệu bao, tới năm 1989,1990 đã tăng lên đến 150-200 triệu bao. Để hạn chế tình trạng này, Liên Hiệp đã nhanh chóng điều chỉnh năng lực sản xuất, cải tiến kích thước điếu thuốc, bao bì mẫu mã, đưa ra thị trường một số nhãn hiệu mới như Vinataba, Super, Cotab, Du lịch xuất khẩu, Hà Nội đỏ, Thăng Long, được thị trường ưa chuộng. Nhờ đó Liên Hiệp đã tăng nhanh sản lượng tiêu thụ nội địa. Trong đó sản phẩm Vinataba được đánh giá là sản phẩm thành công thay thế được thuốc lá ngoại nhập lậu và giành được thị phần ngày càng lớn trên thị trường. Trong lĩnh vực trồng và phát triển cây nguyên liệu, từ sau năm 1985 các vùng trồng nguyên liệu trong nước đã được phát triển khá nhanh. Tổng diện tích gieo trồng khoảng trên 30000 ha với sản lượng trung bình khoảng trên 31000 tấn/năm. Liên Hiệp đã tiến hành nhiều chương trình trồng thực nghiệm giống thuốc lá, đưa vào hoạt động các trung tâm kỹ thuật tại Đức Trọng (Lâm Đồng), Bình Long (Sông Bé), Gò Dẫu (Tây Ninh), và trồng thực nghiệm nguyên liệu giống mới tại các tỉnh Hà Nội, Lạng Sơn, Vĩnh Phú, Hà Tây, Gia Lai-Kom Tum, Bình Định, Ninh Thuận, Đồng Nai, Để đáp ứng yêu cầu đầu tư phát triển vùng nguyên liệu, đổi mới công nghệ sản xuất, Liên Hiệp rất chú trọng trong việc tìm đối tác đầu tư toàn diện từ khâu trồng, chế biến, xuất khẩu nguyên liệu đến sản xuất thuốc điếu. Liên Hiệp đã thiết lập quan hệ hợp tác với một số tập đoàn thuốc lá lớn trên thế giới như: B.A.T, Intabex, Rothman, Philip Morris, và đàm phán với Công ty New Toyo, Công ty Leight Mardon về sản xuất và in bao bì thuốc lá điếu, giấy sáp vàng vào những năm 1986- 1990 hàng năm Liên Hiệp đã xuất khẩu 300- 400 triệu bao sang Đông Âu và Liên Xô cũ. Có thể nói rằng, Liên Hiệp Thuốc lá Việt Nam trong 8 năm hoạt động đã khẳng định được vai trò nòng cốt đối với ngành Thuốc lá Việt Nam, đáp ứng được nhu cầu xã hội, tạo tích luỹ ngày càng tăng cho Nhà nước, đưa ngành Thuốc lá phát triển mạnh mẽ trong sự chuyển đổi của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, đã hình thành một phương thức quản lý ngành theo kiểu khép kín mà với các mô hình xí nghiệp trước đó chưa thực hiện được.