Thuật ngữ "tài chính" bắt nguồn từ tiếng La-tinh "fiancia", dịch theo nghĩa hẹp là
thanh toán, thu nhập; theo nghĩa rộng là vốn tiền tệ, chu chuyển tiền tệ. Từ thế kỷ XIIIXV lần đầu tiên danh từ "thanh toán bằng tiền" được sử dụng rộng rãi trong một số
thành phố nổi tiếng của Italia với tư cách là những trung tâm khổng lồ về thương mại và
ngân hàng của châu Âu. Sau đó thuật ngữ này được lan rộng ra các nước khác và được
sử dụng như một khái niệm, gắn liền với hệ thống các quan hệ tiền tệ hình thành các
quỹ tiền tệ được động viên bởi nhà nước để thực hiện các chức năng chính trị và kinh
tế.
Theo Từ điển Larousse
i
cho rằng Tài chính (tiếng Pháp cổ là finer) có nghĩa là
một khoản thanh toán. Thuật ngữ tài chính (nếu đứng ở số nhiều - finances), được hiểu
là tài sản công cộng; toàn bộ các nguồn thu và khoản chi của Nhà nước, hoặc của một
lãnh thổ; Nếu hiểu theo nghĩa thông thường: là nguồn tiền mặt của một cá nhân.
Trong kinh tế thị trường, thuật ngữ tài chính còn được mô tả theo nghĩa là vốn
dưới hình thức tiền tệ, được thể hiện dưới dạng các quỹ cho vay hoặc đi vay thông qua
TTTC hay định chế, tổ chức tài chính.
35 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2426 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Những vấn đề lý luận cơ bản về tài chính và chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ trong kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
CHUYÊN ĐỀ: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÀI
CHÍNH VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA, CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH VÀ CSTK TRONG KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1 Quan niệm về tài chính và vai trò của tài chính trong kinh tế thị
trường
1). Quan niệm về tài chính
Thuật ngữ "tài chính" bắt nguồn từ tiếng La-tinh "fiancia", dịch theo nghĩa hẹp là
thanh toán, thu nhập; theo nghĩa rộng là vốn tiền tệ, chu chuyển tiền tệ. Từ thế kỷ XIII-
XV lần đầu tiên danh từ "thanh toán bằng tiền" được sử dụng rộng rãi trong một số
thành phố nổi tiếng của Italia với tư cách là những trung tâm khổng lồ về thương mại và
ngân hàng của châu Âu. Sau đó thuật ngữ này được lan rộng ra các nước khác và được
sử dụng như một khái niệm, gắn liền với hệ thống các quan hệ tiền tệ hình thành các
quỹ tiền tệ được động viên bởi nhà nước để thực hiện các chức năng chính trị và kinh
tế.
Theo Từ điển Laroussei cho rằng Tài chính (tiếng Pháp cổ là finer) có nghĩa là
một khoản thanh toán. Thuật ngữ tài chính (nếu đứng ở số nhiều - finances), được hiểu
là tài sản công cộng; toàn bộ các nguồn thu và khoản chi của Nhà nước, hoặc của một
lãnh thổ; Nếu hiểu theo nghĩa thông thường: là nguồn tiền mặt của một cá nhân.
Trong kinh tế thị trường, thuật ngữ tài chính còn được mô tả theo nghĩa là vốn
dưới hình thức tiền tệ, được thể hiện dưới dạng các quỹ cho vay hoặc đi vay thông qua
TTTC hay định chế, tổ chức tài chính.
Như vậy, tài chính được quan niệm như là nguồn tiền bạc, thu nhập hay tài sản;
là cách thức, hay sự huy động, phân phối, bố trí, cung cấp, cấp phát, trợ giúp, chi tiêu,
sử dụng, kiểm soát các quỹ tiền bạc; điều hành, dẫn dắt của cải. Các quan niệm này
thường xem xét ở khía cạnh mô tả các biểu hiện, hiện tượng của hoạt động tài chính.
Có thể thấy rằng, khái niệm tài chính gắn liền mật thiết với tiền tệ và các quan hệ
hàng hóa-tiền tệ. Tài chính nảy sinh trong điều kiện kinh tế hàng hóa-tiền tệ dưới tác
động ảnh hưởng của sự phát triển chức năng và nhu cầu của nhà nước và nhu cầu của
các chủ thể kinh tế. Do đó, tài chính có quan hệ mật thiết với các quá trình kinh tế-xã
2
hội, được thể hiện trong các hình thức vận động khác nhau và nhất định bao giờ cũng
biểu hiện dưới hình thái tiền tệ và kèm theo sự vận động của tiền tệ.
Từ quan niệm đó, người ta thường nhầm lẫn tài chính với tiền tệ và trong nhiều
trường hợp tài chính được coi là tiền tệ.
Tuy nhiên, nếu quan sát các quá trình vận động kinh tế-xã hội trong thực tiễn có
thể nhận thấy: các biểu hiện bên ngoài của tài chính thể hiện ra dưới dạng các hiện
tượng thu vào bằng tiền và các hiện tượng chi ra bằng tiền ở các chủ thể kinh tế-xã hội.
Các hiện tượng thu, chi bằng tiền đó đều mang một tính chất chung là vốn tiền tệ đang
vận động.
Như vậy, tính chất tiền tệ của các quan hệ tài chính - đó là một dấu hiệu quan
trọng của tài chính. Dấu hiệu này khẳng định rằng, sự hoạt động của tài chính chỉ có
thể khi có những điều kiện nhất định, mà nếu thiếu điều kiện đó thì tức khắc biến mất
ranh giới tác động của phạm trù này. Sự xuất hiện các quan hệ tài chính luôn luôn biểu
hiện ở chỗ tồn tại sự vận động của vốn tiền tệ, ở đâu thiếu sự vận động đó thì nơi đó
không phải là chỗ nảy sinh tài chính. Như vậy, sự hiện diện của tiền tệ là điều kiện bắt
buộc cho sự tồn tại của tài chính. Không có tiền tệ thì không thể có tài chính. Tiền tệ
biểu hiện cơ sở vật chất cho sự tồn tại tài chính. Tuy nhiên, tài chính và tiền tệ là hai
khái niệm khác nhau, nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Tài chính khác biệt căn bản
với tiền tệ cả ở nội dung và cả ở các chức năng mà nó thực hiện.
Người ta có thể cảm nhận được tiền tệ nhờ vào trực giác, còn tài chính biểu hiện
sự vận động của tiền tệ, luôn ẩn đằng sau sự vận động của tiền tệ, khiến người ta không
“sờ mó” được vào tài chính.
Mặt khác, lĩnh vực nảy sinh và hoạt động của tài chính chính là quá trình diễn ra
sự phân phối giá trị sản phẩm xã hội giữa các chủ thể trong hoạt động kinh tế, mà trong
đó mỗi người cần phải nhận được một bộ phận theo một tỉ lệ nào đó trong số sản phẩm
sản xuất ra. Bởi vậy dấu hiệu quan trọng của tài chính là tính chất phân phối của các
quan hệ tài chính.
Sự phân phối của tài chính nhất định phải kèm theo sự vận động của vốn tiền tệ
và có hình thức biểu hiện đặc biệt là các nguồn tài chính. Các nguồn tài chính đó được
hình thành ở các chủ thể kinh tế và nhà nước nhờ các dạng vận động khác nhau của thu
nhập, tích lũy, thanh toán, trích nộp dưới hình thức tiền tệ và được sử dụng vào những
mục đích nhất định để đáp ứng nhu cầu của mình. Các nguồn tài chính là sự biểu hiện
vật chất hóa của các quan hệ tài chính. Việc sử dụng các nguồn tài chính được thực hiện
về cơ bản thông qua các quỹ tiền tệ có những mục đích nhất định. Bởi vậy dấu hiệu đặc
biệt quan trọng của tài chính, khác biệt với các phạm trù phân phối khác là ở chỗ, các
quan hệ tài chính luôn luôn gắn liền với sự hình thành các quỹ tiền tệ có hình thức biểu
hiện là các nguồn tài chính.
3
Quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể nói trên (Nhà
nước, doanh nghiệp, hộ gia đình) chính là quá trình tham gia phân phối các nguồn tài
chính thông qua các hoạt động thu, chi bằng tiền của các chủ thể. Các hoạt động thu,
chi bằng tiền đó là sự vận động của tiền tệ - mặt biểu hiện bên ngoài của tài chính, còn
các quỹ tiền tệ do các chủ thể nắm giữ là biểu hiện nội dung vật chất của tài chính - một
thuộc tính vốn có của tài chính. Nhưng trên cơ sở các hoạt động thu, chi bằng tiền do
các chủ thể thực hiện lại làm nảy sinh các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong xã hội.
Đó chính là các quan hệ về mặt lợi ích nảy sinh trong quá trình tham gia phân phối và
sử dụng các nguồn tài chính để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ. Các quan hệ kinh
tế đó chính là mặt bản chất bên trong của tài chính, biểu hiện nội dung kinh tế-xã hội
của tài chính.
Từ những phân tích đó chúng tôi cho rằng, tài chính là sự vận động của tiền tệ,
gắn liền với quá trình huy động và phân phối các nguồn tài chính nhằm thực hiện các
lợi ích của các chủ thể kinh tế.
Trong kinh tế học hiện đại, các tác giả của cuốn giáo khoa “Tài chính học” Z.
Bodi và R. Merton cho rằng, tài chính là việc nghiên cứu các cánh thức phân bổ nguồn
lực vốn khan hiếm của các chủ thể trong nền kinh tế theo thời gian. Quan niệm này khá
cụ thể và trực diện, song nó hàm chứa ý nghĩa TTTC nhiều hơn.
Quan niệm về tài chính của chúng tôi trình bày ở trên cho phép nhìn nhận một
cách đầy đủ, toàn diện và khách quan về tài chính. Quan niệm đó vừa chỉ ra mặt cụ thể,
hình thức bên ngoài - nội dung vật chất của tài chính là sự vận động của các quỹ tiền tệ,
vừa vạch rõ mặt trừu tượng, mặt bản chất bên trong - nội dung kinh tế - xã hội của tài
chính là các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình huy động và phân bổ các nguồn tài
chính để thực hiện các mục đích khác nhau của các chủ thể kinh tế, đồng thời có tính
bao quát toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của tài chính nói chung, trong đó bao gồm cả
tài chính công và TTTC.
2). Vai trò của tài chính và CSTK trong kinh tế thị trường và mở cửa hội
nhập
Tài chính có vai trò quan trọng trong việc duy trì sự tồn tại và hoạt động
của bộ máy nhà nước
Để duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước thì cần phải có các
nguồn lực tài chính để đảm bảo cho các nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Các nhu cầu đó
được đáp ứng bởi tài chính, trước hết là tài chính nhà nước. Điều này được thể hiện trên
các khía cạnh sau đây:
Một là, tài chính thực hiện chức năng phân phối thông qua động viên và tập
trung các nguồn lực tài chính để đáp ứng đầy đủ, kịp thời cho các nhu cầu chi tiêu của
Nhà nước trong từng thời kỳ phát triển. Các nguồn tài chính này có thể được động viên
4
cả ở trong nước và từ nước ngoài, từ mọi lĩnh vực hoạt động và mọi thành phần kinh tế,
dưới nhiều hình thức khác nhau, có bắt buộc và tự nguyện, có hoàn trả và không hoàn
trả.
Hai là, phân phối các nguồn tài chính đã tập trung được vào tay Nhà nước cho
các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước theo những quan hệ tỷ lệ hợp lý nhằm vừa đảm bảo
duy trì sự tồn tại và tăng cường sức mạnh của bộ máy Nhà nước, vừa đảm bảo thực
hiện các chức năng kinh tế-xã hội của Nhà nước đối với các lĩnh vực khác nhau của nền
kinh tế.
Ba là, kiểm tra giám sát để đảm bảo cho các nguồn tài chính đã phân phối được
sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả nhất, đáp ứng tốt nhất các yêu cầu
của quản lý nhà nước và phát triển kinh tế-xã hội.
Tài chính có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng, ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội.
Đây là vai trò rất quan trọng của tài chính trong kinh tế thị trường và mở cửa hội
nhập. Tuy nhiên sự nhận thức về vai trò này là cả quá trình phát triển về lý luận.
Các quan điểm của các trường phái kinh tế học Phương Tây
Các trường phái kinh tế học Phương Tây, mặc dù có cách lập luận khác nhau
nhưng lại thống nhất quan điểm rằng, phân phối tài chính có mối quan hệ rất mật thiết
với tăng trưởng kinh tế và được coi là một nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển kinh tế.
Đã từ lâu, nhà kinh tế lỗi lạc Adam Smith cho rằng, để tăng số người lao động
mang tính sản xuất thì phải tăng tư bản từ quỹ tăng lao động và muốn tăng năng suất
lao động lại đòi hỏi phải tăng thêm tư bản. Từ đó cho thấy đầu tư tăng tư bản cho sản
xuất kinh doanh giữ vai trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Cùng với
Adam Smith, David Ricardo lại chú trọng tới tỷ lệ phân phối của các loại thu nhập và
ảnh hưởng của nó tới tích luỹ tư bản và tăng trưởng kinh tế. Ông phân tích hàm số tăng
trưởng và rút ra nhận xét, do tích luỹ tư bản có xu hướng co lại nên làm kinh tế tăng
trưởng chậm lại. Các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng được xuất phát từ tăng tỷ lệ hình
thành tư bản, coi đó là nhân tố chủ yếu quyết định tăng trưởng kinh tế.
Các nhà khoa học Roy Harrod và Evsey Domar (sau này gọi là mô hình
Harrod–Domar) đã gắn tăng trưởng kinh tế với việc cơ cấu lại tiết kiệm và đầu tư trong
tổng thu nhập. Hai ông cho rằng, sản lượng của bất cứ một đơn vị kinh tế nào, dù là một
doanh nghiệp, một ngành hay toàn bộ nền kinh tế cũng đều phụ thuộc chắc chắn vào
tổng số vốn có được. Khi nói tăng trưởng kinh tế thì phải nói đến mức tăng thêm của
sản lượng, nhưng mức tăng thêm của sản lượng lại do lượng tăng thêm của vốn quyết
5
định hay nói cách khác do thay đổi cơ cấu đầu tư vốn quyết định đến tăng trưởng kinh
tế.
Cambridge cho rằng, con đường căn bản để thực hiện sự tăng trưởng ổn định
nền kinh tế nằm ở chỗ điều chỉnh chế độ phân phối. Ông cho rằng, có thể áp dụng biện
pháp phân phối lại để điều chỉnh tăng phần thu nhập của các tầng lớp khác nhau, từ đó
thực hiện được sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế quốc dân. Bởi vì, sự tác động
khác nhau giữa khuynh hướng tiết kiệm và tiêu dùng là nhân tố quan trọng thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
Nhà kinh tế lỗi lạc người Anh J. Kenyes trong cuốn sách “Lý thuyết chung về
việc làm, lãi suất và tiền tệ” (1936), đã coi chi tiêu nhà nước là một công cụ cơ bản của
Chính phủ để can thiệp vào sự phát triển có tính chất chu kỳ của nền kinh tế để vượt
qua khủng hoảng. Bởi vậy, sự hình thành cơ cấu và tốc độ của chi tiêu nhà nước là yếu
tố quan trọng và không thể tách rời để đạt được "cầu hiệu qủa". Tốc độ chi tiêu nhà
nước theo ông cần phải thúc đẩy tăng thu nhập quốc dân và cuối cùng phải nhằm vào
mục tiêu đảm bảo việc làm. Để thực hiện được điều đó, nhà nước phải tác động đến các
tác nhân của cầu là: tiêu dùng cá nhân và tiêu dùng đầu tư.
Như vậy, đã từ lâu các nhà kinh tế học Phương tây đã rất đề cao vai trò của phân
phối tài chính để hình thành cơ cấu tài chính, coi đó là một nhân tố quan trọng để kích
thích tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội
Quan điểm của Mác
Quan điểm của Mác về vai trò của tài chính xuất phát từ những nghiên cứu lý
luận sau đây:
Thứ nhất, Mác đã nghiên cứu về cấu tạo hữu cơ của tư bản và rút ra kết luận: cấu
tạo hữu cơ tăng sẽ làm tăng năng suất lao động, tạo thêm giá trị thặng dư cho xã hội.
Mác phân biệt cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản. Cấu tạo kỹ thuật của
tư bản biểu hiện quan hệ tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất với số lượng lao động sử
dụng trong quá trình sản xuất. Đó là quan hệ tất yếu, do trình độ phát triển của sản xuất
quyết định và phản ánh trình độ tiến bộ kỹ thuật. Cấu tạo giá trị của tư bản biểu hiện
quan hệ tỷ lệ giữa số lượng giá trị tư bản bất biến và tư bản khả biến cần thiết để để tiến
hành sản xuất. Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản có quan hệ với nhau và phụ
thuộc vào nhau: sự thay đổi trong cấu tạo kỹ thuật sẽ dẫn đến sự thay đổi trong cấu tạo
giá trị. Sự thể hiện mối quan hệ mật thiết đó đã hình thành một phạm trù mới, đó là cấu
tạo hữu cơ của tư bản.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ thuật quyết
định và phản ánh những biến đổi của cấu tạo kỹ thuật đó.
6
Do trình độ kỹ thuật không ngừng phát triển nên cấu tạo hữu cơ của tư bản cũng
không ngừng tăng lên. Sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ được thể hiện ở tư bản bất biến
tăng lên tuyệt đối và tương đối, còn tư bản khả biến giảm tương đối. Như vậy, do cấu
tạo hữu cơ tăng sẽ làm tăng năng suất lao động, tạo thêm giá trị thặng dư và tăng quy
mô tích lũy tư bản.
Thứ hai, khi nghiên cứu vai trò của các khâu cấu thành trong quá trình tái sản
xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa, bao gồm: sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng,
quan điểm của Mác cho rằng: sản xuất là khâu quyết định phân phối, còn phân phối có
tác động ngược trở lại đối với sản xuất theo hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm.
Như vậy, phân phối với tư cách là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội
được coi là nhân tố có tác động thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Nói cách khác, tài
chính là một bộ phận của các quan hệ phân phối dưới hình thức tiền tệ có vai trò quan
trọng trong khuyến khích thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, theo Mác vai trò này có phần bị động, vì phân phối là do sản xuất
quyết định. Điều này đưa đến những quan điểm hạn chế vai trò của phân phối, trong đó
có tài chính.
Những nhận thức mới
Chúng tôi cho rằng, phân phối tài chính có mối quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng
kinh tế, xác định cơ cấu tài chính hợp lý có tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc
đẩy tăng trưởng, góp phần thực hiện các mục tiêu xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, khác với nền sản xuất hàng hóa giản đơn, công
thức vận động của tư bản được khái quát là:
TLSX
T – H …Sx – H’ – T’
SLĐ
Như vậy, trong công thức trên: tài chính được coi là khởi điểm của quá trình vận
động của tư bản, nếu sự đầu tư nguồn lực tài chính cho các bộ phận của sản xuất theo
những tỷ lệ hợp lý sẽ tạo ra thặng dư cho xã hội. Với ý nghĩa đó, theo quan điểm của
chúng tôi thì cơ cấu phân phối các nguồn lực tài chính có tác động quyết định sản xuất,
quyết định tăng trưởng.
Vì thế, để nền kinh tế tăng trưởng nhanh, góp phần thực hiện tốt các CSXH, cần
phải coi việc đổi mới cơ cấu huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính và
coi đó là nhân tố có tính đột phá, quyết định sự thay đổi cơ cấu kinh tế và ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế.
7
Với ý nghĩa đó có thể cho rằng, sản xuất là cơ sở của phân phối, của tài chính,
nhưng phân phối và tài chính lại có tác động quyết định sản xuất, quyết định tăng
trưởng kinh tế.
Tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện công bằng xã hội và
giải quyết các vấn đề xã hội.
Vai trò này được thể hiện thông qua việc sử dụng các công cụ thu, chi của tài
chính để điều chỉnh thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, giảm bớt những bất hợp lý trong
phân phối, đảm bảo công bằng trong phân phối và góp phần giải quyết những vấn đề xã
hội đáp ứng các mục tiêu xã hội của kinh tế vĩ mô.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường với sự nảy sinh và tồn tại tất yếu
những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là về mặt xã hội, việc sử dụng các
biện pháp tài chính để phát huy vai trò xã hội của tài chính nhằm đảm bảo xây dựng
một xã hội công bằng và bình đẳng có ý nghĩa quan trọng.
Trong việc thực hiện công bằng xã hội, thông thường tài chính được sử dụng để
tác động theo hai hướng - giảm bớt các thu nhập cao và nâng đỡ các thu nhập thấp
nhằm rút ngắn khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Công cụ của tài chính
nhà nước thường được sử dụng để điều tiết thu nhập là thuế và chi tiêu chính phủ.
1.2 Khái niệm và chức năng của Tài chính công
3). Khái niệm
Mặc dù Tài chính công là một phạm trù thuôc Tài chính nhà nước, song khái
niệm Tài chính công chỉ ra đời từ giữa thế kỷ XX. Vào đầu thế kỷ XX, các quan điểm
của các nhà kinh tế thường chú ý đến vai trò của Nhà nước trong việc can thiệp vào nền
kinh tế, từ đó ra đời thuật ngữ “Tài chính nhà nước”. Sự chuyển dịch từ Tài chính nhà
nước sang Tài chính công có mối liên hệ chặt chẽ với sự chuyển dịch quyền hạn từ các
cơ quan công quyền Trung ương sang tổ chức các cơ quan công quyền địa phương và
tự quản trên nguyên tắc lãnh thổ. Sự thay đổi có tính bước ngoặt về định nghĩa Tài
chính công diễn ra vào những năm 20 của thế kỷ XX gắn liền với mối quan hệ về thiếu
hụt ngân sách, từ đó cần thiết phải cơ cấu lại ngân sách theo những nguyên tắc riêng có.
Từ đó ra đời môn khoa học “Tài chính công”. Khái niệm này bắt đầu đưa vào Việt Nam
từ cuối năm 1989 đầu năm 1990.
Tài chính công là hệ thống các quỹ tiền tệ được hình thành trong quá trình phân
phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, gắn với việc sản xuất và cung cấp
hàng hóa và dịch vụ công do nhà nước tiến hành.
Đặc trưng cơ bản của quan hệ tài chính công là:
8
- Tài chính công gắn liền với chủ thể thực hiện phân phối tổng nguồn lực tài
chính quốc gia là Nhà nước và các chủ thể công quyền khác.
- Các quỹ tiền tệ thuộc lĩnh vực tài chính công là các quỹ tiền tệ của nhà nước.
- Tài chính công phản ánh các quan hệ kinh tế biểu hiện thông qua các hoạt động
thu chi bằng tiền của nhà nước và của các chủ thể.
- Tài chính công cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng phục vụ lợi ích cộng
đồng và xã hội không vì mục đích lợi nhuận.
4). Chức năng của tài chính công
- Chức năng cung cấp hàng hóa xã hội (hàng hoá công cộng) của khu vực công
- Chức năng phân phối của tài chính công
- Chức năng ổn định của tài chính công
- Chức năng ngân quỹ của tài chính công
1.3 Chính sách tài khóa
5). Khái quát CSTK
Trong bất kỳ một xã hội nào, nhà nước muốn thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của mình để đạt được các mục tiêu kinh tế-xã hội nhất định đều phải sử dụng công cụ
tài chính. Vai trò quan trọng việc thực hiện các mục tiêu nói trên thuộc về CSTK.
CSTK là một phạm trù kinh tế học dùng để chỉ các hành động của Chính phủ
quyết định mức chi tiêu công và cách thức có đủ nguồn tài chính để đảm bảo mức chi
tiêu công đó. Chính phủ phải chi tiêu cho nhiều nhiệm vụ rất đa dạng, từ quân sự, cảnh
sát, đến các dịch vụ như giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội. Có nhiều nguồn để đảm bảo cho
các khoản chi trên, trong đó quan trọng nhất là thu thuế từ người dân và vay nợ để bù
đắp thâm hụt ngân sách.
CSTK là một công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô được Chính phủ sử dụng để
huy động, phân phối và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính nhằm thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia.
Nội dung của CSTK thông thường chứa đựng các yếu tố sau:
- Mục tiêu của chính sách: thể hiện phương hướng, đường lối, chủ trương của
nhà nước về sử dụng chính sách huy đông, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài
chính.
- Các công cụ của chính sách
9
- Cơ chế chuyển tải của chính sách, bao gồm cách thức hay phương thức huy
động, phân phối, sử dụng các nguồn lực tài chính và các chế tài đảm bảo thực hiện
phương thức đó.
6). Phân loại CSTK
Căn cứ vào tác dụng điều tiết chu kỳ kinh tế có thể