Chuyên đề Phân tích hoạt động tín dụng cá nhân tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn thương tín chi nhánh Cần Thơ

Cùng với sự vận động của nền kinh tế thị trường, nền kinh tế của tỉnh Cần Thơ cũng đang trên đà phát triển. Để khai thác có hiệu quả tiềm năng đó đòi hỏi phải có đủ điều kiện và vốn là một trong những điều kiện quan trọng nhất. Do đó, tín dụng ngân hàng hết sức quan trọng, nhằm đáp ứng kịp thời vốn đầu tư cho người dân và các tổ chức kinh tế để tiến hành mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội. Qua những năm hoạt động, Sacombank chi nhánh Cần Thơ bên cạnh việc cung cấp vốn đáp ứng kịp thời cho các cá nhân, tổ chức kinh tế tiến hành mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, thì Ngân hàng cũng đã đóng góp một phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế của tỉnh. Ngân hàng ra đời với mục đích là tập trung nguồn vốn và phân phối nguồn vốn đó nhằm giúp cho quá trình lưu thông được diễn ra liên tục và phát triển kinh tế sản xuất, phục vụ nhu cầu đời sống của người dân. Tuy nhiên việc đưa vốn đến hộ nông dân, các thành phần kinh tế như thế nào và bằng cách nào để có hiệu quả nhất, vừa đảm bảo thực hiện tốt chủ trương của Nhà nước, vừa đảm bảo hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Chính vì vậy cần phải có những giải pháp thích ứng, phù hợp trong việc đầu tư để đều có lợi cho các chủ thể tham gia, đảm bảo sự tồn tại và phát triển cả hai bên. Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của hoạt động này, chính vì thế mà tôi đã chọn đề tài “Phân tích hoạt động tín dụng cá nhân tại ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) chi nhánh Cần Thơ”.

doc28 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 6238 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích hoạt động tín dụng cá nhân tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn thương tín chi nhánh Cần Thơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ KHOA KINH TẾ - TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG ¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾ CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC CHUYÊN NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG MÃ SỐ: 402 PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CÁ NHÂN TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN THƯƠNG TÍN CHI NHÁNH CẦN THƠ Giảng viên hướng dẫn Sinh viên thực hiện ThS. Trương Hoàng Phương Phạm Thị Hồng Thắm Mã số SV: 0954020204 Lớp: ĐHTCNH 4B Cần Thơ, 2013 CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU 1.1. Cơ sở hình thành đề tài Cùng với sự vận động của nền kinh tế thị trường, nền kinh tế của tỉnh Cần Thơ cũng đang trên đà phát triển. Để khai thác có hiệu quả tiềm năng đó đòi hỏi phải có đủ điều kiện và vốn là một trong những điều kiện quan trọng nhất. Do đó, tín dụng ngân hàng hết sức quan trọng, nhằm đáp ứng kịp thời vốn đầu tư cho người dân và các tổ chức kinh tế để tiến hành mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội. Qua những năm hoạt động, Sacombank chi nhánh Cần Thơ bên cạnh việc cung cấp vốn đáp ứng kịp thời cho các cá nhân, tổ chức kinh tế tiến hành mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, thì Ngân hàng cũng đã đóng góp một phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế của tỉnh. Ngân hàng ra đời với mục đích là tập trung nguồn vốn và phân phối nguồn vốn đó nhằm giúp cho quá trình lưu thông được diễn ra liên tục và phát triển kinh tế sản xuất, phục vụ nhu cầu đời sống của người dân. Tuy nhiên việc đưa vốn đến hộ nông dân, các thành phần kinh tế như thế nào và bằng cách nào để có hiệu quả nhất, vừa đảm bảo thực hiện tốt chủ trương của Nhà nước, vừa đảm bảo hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Chính vì vậy cần phải có những giải pháp thích ứng, phù hợp trong việc đầu tư để đều có lợi cho các chủ thể tham gia, đảm bảo sự tồn tại và phát triển cả hai bên. Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của hoạt động này, chính vì thế mà tôi đã chọn đề tài “Phân tích hoạt động tín dụng cá nhân tại ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) chi nhánh Cần Thơ”. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1. Mục tiêu chung Phân tích tình hình tín dụng cá nhân tại Sacombank Cần Thơ, từ đó tìm ra những giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng cá nhân. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể - Dựa vào số liệu doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ và nợ xấu qua 3 năm để phân tích hoạt động tín dụng cá nhân của Sacombank Cần Thơ. - Đưa ra các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình tín dụng cá nhân tại Sacombank Cần Thơ. - Đề xuất một số giải pháp cải thiện hoặc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng cá nhân tại Sacombank Cần Thơ. 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu - Tình hình cho vay và huy động vốn - Các báo cáo tài chính: bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, một số tỷ số tài chính - Một số tài liệu khác được cung cấp từ phía ngân hàng 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu 1.3.2.1. Phạm vi không gian - Đề tài được thực hiện tại phòng Kinh Doanh của Sacombank Cần Thơ 1.3.2.2. Phạm vi thời gian - Trong thời gian thực tập bắt đầu từ tháng 2/2013 đến tháng 4/2013. - Số liệu phân tích trong đề tài là số liệu chung về hoạt động kinh doanh của ngân hàng từ năm 2010 đến năm 2012. 1.4. Ý nghĩa đề tài nghiên cứu Hoạt động tín dụng của các ngân hàng nói chung bao gồm nhiều lĩnh vực như tín dụng cá nhân, tín dụng doanh nghiệp, tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn. Mỗi ngân hàng đều có một chính sách tín dụng khác nhau như có ngân hàng tập trung vào tín dụng cá nhân, tín dụng doanh nghiệp, tín dụng ngắn hạn, có ngân hàng chủ yếu cho vay trung và dài hạn. Trong hoạt động của Ngân hàng thì tín dụng là hoạt động chủ yếu mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng và tín dụng cá nhân là mảng vô cùng quan trọng. Phân tích và đề xuất một số ý kiến để nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng cá nhân là vấn đề được quan tâm đặc biệt tại hầu hết các Ngân hàng. Bố cục nội dung nghiên cứu Chuyền đề này được trình bài theo bố cục gồm 5 chương: Chương 1: Giới thiệu Chương 2: Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Chương 3: Phân tích thực trạng tình hình tín dụng cá nhân tại Sacombank Chương 4: Một số giải pháp nâng cao hoạt động tín dụng cá nhân tại Sacombank Chương 5: Kết luận và kiến nghị CHƯƠNG 2 PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Phương pháp luận 2.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại ra đời và phát triển gắn liền với nền sản xuất hàng hóa, nó kinh doanh loại hàng hóa rất đặc biệt đó là “tiền tệ”. Thực tế các NHTM kinh doanh “quyền sử dụng vốn tiền tệ”. Nghĩa là các NHTM nhận tiền gửi của công chúng, của các tổ chức kinh tế xã hội. Sử dụng số tiền đó cho vay và làm phương tiện thanh toán với những điều kiện ràng buộc là phải hoàn lại vốn gốc và lãi nhất định theo thời hạn đã thoả thuận. Theo pháp lệnh “các tổ chức tín dụng ”(1990) của Việt Nam thì NHTM được định nghĩa như sau: “Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu là thường xuyên nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”. 2.1.2. Các nguồn vốn của NHTM 2.1.2.1. Vốn tự có Vốn tự có hay còn gọi là vốn chủ sở hữu của ngân hàng là bao gồm giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và một số nguồn vốn khác của ngân hàng theo quy định của Ngân hàng Trung Ương. a) Vốn điều lệ Là số vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều lệ của ngân hàng là do các chủ sở hữu ngân hàng đóng góp vốn điều chuyển …Mức vốn điều lệ và phương thức đóng góp vốn điều lệ của mỗi ngân hàng được ghi trong điều lệ hoạt động của từng ngân hàng và được Ngân hàng Trung ương phê duyệt. Mức vốn điều lệ của mỗi ngân hàng phụ thuộc vào mức góp vốn của các chủ sở hữu ngân hàng, song nhìn chung không được thấp hơn mức vốn pháp định mà Chính phủ quy định. Trong quá trình hoạt động của các NHTM có thể tăng thêm vốn điều lệ của mình nhưng phải được sự đồng ý chấp nhận của Ngân hàng Trung Ương. b) Các quỹ dự trữ Các quỹ dự trữ của NHTM được hình thành và tạo lập trong quá trình hoạt động của ngân hàng nhằm sử dụng cho có mục đích nhất định. Theo quy định của luật các tổ chức tín dụng, hàng năm tổ chức tín dụng phải trích từ lợi nhuận sau thuế để lập và duy trì các quỹ sau: - Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ được trích hàng năm theo tỷ lệ 5% trên lợi nhuận ròng, mức tối đa của quỹ do chính phủ quy định. - Các quỹ khác: Quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ phát triển nghiệp vụ ngân hàng…các quỹ quỹ này cũng được trích lập sử dụng theo quy định của pháp luật. Các quỹ dự trữ sau khi đã được trích lập các NHTM được sử dụng theo mục đích lập quỹ. Tuy nhiên, khi số tiền của quỹ chưa sử dụng đến thì các NHTM có thể tạm thời huy động theo nguyên tắc hoàn trả làm nguồn vốn kinh doanh. c) Các nguồn vốn khác Một số nguồn vốn khác được coi như vốn tự có của ngân hàng, bao gồm: - Lợi nhuận giữ lại -Thu nhập lớn hơn chi phí - Khấu hao tài sản cố định Nguồn vốn huy động a) Tiền gửi của các tổ chức kinh tế Là số tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của họ được gửi tại ngân hàng. Nó bao gồm một bộ phận vốn tiền tạm thời nhàn rỗi được giải phóng ra khỏi quá trình luân chuyển vốn nhưng chưa có nhu cầu sử dụng hoặc sử dụng cho những mục tiêu định sẵn vào một thời điểm nhất định (Các quỹ: đầu tư phát triển, quỹ dự trữ tài chính, quỹ phúc lợi khen thưởng…) * Tiền gửi không kỳ hạn Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà khi gửi vào, khách hàng gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào mà không cần phải báo trước cho ngân hàng và ngân hàng phải thỏa mãn yêu cầu đó của khách hàng. Mục đích của loại tiền gửi này là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản, thực hiện các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như các khoản thanh toán trong tiêu dùng của cá nhân đồng thời hạn chế được chi phí tổ chức thanh toán, bảo quản tiền và vận chuyển tiền. Đối với Ngân hàng, loại tiền gửi này thường có sự dao động lớn vì người gửi tiền có thể gửi tiền và rút ra bất cứ lúc nào, do đó Ngân hàng chỉ có thể sử dụng tỷ lệ nhất định để cho vay nên Ngân hàng thường áp dụng lãi suất thấp cho loại tiền gửi này. * Tiền gửi có kỳ hạn Là loại tiền mà khi khách hàng gửi tiền vào có sự thỏa thuận về thời hạn rút ra giữa ngân hàng và khách hàng. Theo nguyên tắc, đối với loại tiền gửi này, người gửi tiền chỉ được rút ra khi đến hạn. Tuy nhiên, trên thực tế do áp lực cạnh tranh mà ngân hàng cho phép khách hàng rút trước kỳ hạn. Trong trường hợp này, người gửi không được hưởng lãi như tiền gửi có kỳ hạn mà sẽ được áp dụng với lãi suất không kỳ hạn nếu rút ra truớc khi đáo hạn. Khác với tiền gửi thanh toán, tiền gửi định kỳ là tiền gửi tạm thời chưa sử dụng hoặc tiền để dành của cá nhân, vì mục đích gửi tiền vào Ngân hàng là nhằm mục đích kiếm lợi tức. Đối với Ngân hàng, tiền gửi định kỳ là nguồn vốn ổn định trong kinh doanh, do đó lãi suất mà Ngân hàng áp dụng cho loại tiền gửi này cao hơn lãi suất tiền gửi thanh toán không kỳ hạn. Mặt khác để khuyến khích khách hàng gửi tiền theo định kỳ dài hạn, thông thường Ngân hàng áp dụng lãi suất cao đối với các khoản tiền gửi dài hạn (vì tiền gửi định kỳ giúp Ngân hàng có thể sử dụng vốn đó để kinh doanh qua việc cho vay trung, dài hạn, mua sắm các thiết bị cũng như đầu tư vào một số lĩnh vực….) b) Tiền gửi tiết kiệm Là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm, được xác định trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật và bảo hiểm tiền gửi. *Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn Là loại tiền gửi không có thời hạn đáo hạn mà người gửi muốn rút ra phải thông báo cho Ngân hàng biết trước một thời gian. Tuy nhiên, ngày nay các Ngân hàng cho phép khách hàng rút ra không cần báo trước. Tiền gửi này chủ yếu là tiền gửi của dân cư, các tổ chức kinh tế và Chính phủ. Nhưng do nhu cầu chi tiêu không xác định được trước nên khách hàng chỉ gửi tiền không kỳ hạn nghĩa là có thể rút ra bất cứ lúc nào. Do đó Ngân hàng không chủ động được nguồn vốn nên loại tiền gửi này có mức lãi suất thấp. * Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn Người ký thác tiền này ở Ngân hàng để sử dụng vào mục đích nhất định như mua sắm nhà cửa, trang trải chi phí học tập cho con cái... Ngân hàng thường cấp thêm tín dụng để bù đắp thêm phần thiếu hụt khi sử dụng vào mục đích của người gửi tiền tiết kiệm. Về nguyên tắc, khách hàng chỉ được rút tiền khi đáo hạn. Nếu rút vốn trước hạn thì phải được chấp nhận của lãnh đạo ngân hàng và hưởng lãi suất không kỳ hạn. Về hình thức, theo truyền thống, người gửi tiền được cấp một sổ gọi là sổ tiết kiệm, trên sổ này ghi rõ tất cả các khoản tiền gửi vào rút ra và lãi suất. Mỗi lần gửi tiền hoặc rút tiền, khách hàng phải xuất trình sổ tiết kiệm cho ngân hàng để ngân hàng ghi bút toán. Ngày nay, nhiều ngân hàng đã bỏ sổ tiết kiệm, thay vào đó cung cấp cho khách hàng bảng kê lúc gửi tiền đầu tiên và theo định kỳ hàng tháng để phản ánh tất cả các số phát sinh. Việc huy động vốn tiền gửi của khách hàng không những đem lại cho ngân hàng một nguồn vốn với chi phí thấp để kinh doanh, mà còn giúp cho ngân hàng có thể nắm bắt được thông tin, tư liệu chính xác về tình hình tài chính của các tổ chức kinh tế và cá nhân có quan hệ tín dụng với ngân hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng có căn cứ để quy định mức vốn để đầu tư cho vay đối với những khách hàng đó. Vốn tiền mà ngân hàng huy động được trên các khoản tiền gửi của khách hàng còn là cơ sở cho các tổ chức thanh tra, kiểm toán thực hiện được nhiệm vụ nhanh chóng, chính xác phát hiện kịp thời tham ô, trốn thuế, lừa đảo của các doanh nghiệp làm ăn không chính đáng, xử lý kịp thời những kẻ vi phạm pháp luật. c) Nguồn vốn huy động thông qua các chứng từ có giá Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn, trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa các tổ chức tín dụng và người mua. * Giấy tờ có giá ngắn hạn : Là giấy tờ có giá có thời hạn dưới một năm, bao gồm kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác. * Giấy tờ có giá dài hạn: Là giấy tờ có giá có thời hạn từ một năm trở lên kể từ khi phát hành đến hết hạn, bao gồm trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn và các giấy tờ có giá dài hạn khác. Nguồn vốn đi vay của các ngân hàng khác Nguồn vốn đi vay của các ngân hàng khác là nguồn vốn được hình thành bởi các mối quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau hoặc giữa các tổ chức tín dụng với ngân hàng Nhà nước. a) Vay từ các tổ chức tín dụng khác Trong quá trình kinh doanh của bất cứ doanh nghiệp nào cũng có lúc phát sinh tình trạng tạm thời thừa vốn, và ngược lại cũng phát sinh tình trạng tạm thời thiếu vốn. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng không tránh khỏi tình trạng đó. Đối với ngân hàng, cũng có lúc ngân hàng tập trung huy động được vốn nhưng lại không cho vay hết, trong khi đó vẫn phải trả lãi tiền gửi. Tương tự có thời điểm cho vay vốn lớn, nhưng khả năng nguồn vốn mà ngân hàng huy động được không đáp ứng đủ. Vì vậy trong trường hợp đó ngân hàng có thể tiếp tục gửi vốn tam thời chưa sử dụng vào ngân hàng khác để lấy lãi, hoặc đi vay các ngân hàng khác. b) Vay từ Ngân hàng Trung Ương Ngân hàng Trung ương (NHTW) đóng vai trò là ngân hàng của các ngân hàng, là người cho vay cuối cùng của nền kinh tế. Vì vậy, khi có nhu cầu, các NHTM sẽ được NHTW cho vay vốn. Việc cho vay vốn của NHTW đối với NHTM thông qua hình thức tái cấp vốn. Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có đảm bảo của Ngân hàng nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và các phương tiện thanh toán cho các NHTM. Ngoài ra, NHTW còn thực hiện cho vay bổ sung thanh toán bù trừ giữa các NHTM. Trong trường hợp đặc biệt, khi được Chính phủ chấp thuận, NHTW còn cho vay đối với các tổ chức tín dụng tạm thời mất khả năng thanh toán. Khoản vay này sẽ được ưu tiên hoàn trả trước tất cả các khoản nợ khác của tổ chức tín dụng. 2.1.3. Những nguyên tắc trong việc quản lý tiền gửi của Khách hàng Các nguyên tắc trong quản lý tiền gửi khách hàng ra đời nhằm đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền, tạo niềm tin cho khách hàng và góp phần tạo sự hoạt động kinh doanh ổn định. Các nguyên tắc đó như sau: - Ngân hàng phải đảm bảo thanh toán kịp thời cho khách hàng. Để thực hiện được nguyên tắc này, Ngân hàng chỉ được sử dụng một tỷ lệ phần trăm tiền gửi nhất định để cho vay, số còn lại làm quỹ dự trữ bảo đảm thanh toán cho khách hàng. Quỹ bảo đảm thanh toán bao gồm: + Tiền mặt tại quỹ + Ngân phiếu thanh toán + Tín phiếu kho bạc. + Tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng Nhà nước. + Tiền gửi dự trữ tối thiểu bắt buộc tại Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng phải đảm bảo tương ứng về thời hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn. Tuy nhiên, nguyên tắc này chỉ có ý nghĩa tương đối. Ngân hàng chỉ được thực hiện các khoản giao dịch trên tài khoản của khách hàng khi có lệnh của chủ tài khoản hoặc có sự uỷ nhiệm của chủ tài khoản. Ngoại trừ trường hợp khách hàng vi phạm luật chi trả theo quy định của cơ quan có thẩm quyền về thực hiện các nghiệp vụ thanh toán thì khi đó ngân hàng mới có quyền tự động trích tài khoản thanh toán có liên quan. Ngân hàng phải đảm bảo an toàn và bí mật cho chủ tài khoản. Ngân hàng phải có trách nhiệm kiểm soát các giấy tờ thanh toán của khách hàng, các chứng từ thanh toán phải được lập theo đúng quy định. Ngân hàng phải kiểm tra con dấu và chữ ký của khách hàng, nếu không phù hợp thì ngân hàng có thể từ chối thanh toán. Khi có các nghiệp vụ có liên quan đến tài khoản của khách hàng thì ngân hàng phải kịp thời gửi giấy báo cho khách hàng. Cuối tháng, ngân hàng phải gửi bản sao tài khoản hoặc giấy báo số dư cho khách hàng. 2.1.4. Những vấn đề chung về tín dụng 2.1.4.1. Khái niệm Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời hạn nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận. Như vậy trong định nghĩa trên chứa đựng những nội dung sau: Quan hệ tín dụng là quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, một bên chuyển giao tiền hoặc hàng hoá cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định. Bên chuyển giao tiền hoặc hàng hoá được gọi là người cho vay (lender). Bên nhận tiền hay hàng hoá được gọi là người đi vay (borrower). Người đi vay chỉ sử dụng tiền hay hàng hoá trong thời gian nhất định, hết thời hạn cam kết người đi vay phải hoàn trả lại lượng giá trị nêu trên cho người đi vay. Thường thì giá trị khoản trả lớn hơn giá trị khoản vay. Đó là phần lợi tức mà người cho vay nhận được. Quy trình vận động của tín dụng có thể diễn tả theo sơ đồ sau: Người cho vay Người đi vay T: Giá trị tín dụng T+L: Giá trị tín dụng +lãi Hình 1: Quy trình vận động của tín dụng Trong hoạt động thực tiễn, quan hệ tín dụng được hình thành hết sức đa dạng và có đủ tất cả các loại chủ thể tham gia vào các quan hệ tín dụng. 2.1.4.2. Bản chất - chức năng – vai trò của tín dụng a) Bản chất Tín dụng là hệ thống quan hệ kinh tế phát sinh giữa người đi vay và người cho vay, nhờ quan hệ ấy mà vốn tiền tệ được vận động từ chủ thể này sang chủ thể khác để sử dụng cho các nhu cầu khác nhau trong nền kinh tế xã hội. Mặc dù tín dụng có một quá trình tồn tại và phát triển lâu dài qua nhiều hình thái kinh tế xã hội với nhiều hình thức khác nhau, song đều có tính chất quan trọng sau: Tín dụng trước hết chỉ là sự chuyển giao quyền sử dụng một số tiền (hiện kim) hoặc tài sản (hiện vật) từ chủ thể này sang chủ thể khác, chứ không làm thay đổi giá trị sử dụng chúng. Tín dụng bao giờ cũng có thời hạn và phải được “hoàn trả”. Giá trị của tín dụng không những được bảo tồn mà còn được nâng cao nhờ lợi tức tín dụng. b) Chức năng * Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ Đây là chức năng cơ bản của tín dụng, nhờ chức năng này mà các nguồn vốn tiền tệ trong xã hội được điều hòa từ nơi “thừa” sang nơi “thiếu” để sử dụng nhằm phát triển nền kinh tế. Ở khâu tập trung vốn tiền tệ, tín dụng là nơi tập hợp những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội. Ở khâu phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng là nơi đáp ứng nguồn vốn cho sản xuất lưu thông hàng hóa cũng như nhu cầu tiêu dùng trong toàn xã hội. Cả hai mặt tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ đều được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả, vì vậy tín dụng có ưu thế rõ rệt, nó kích thích mặt tập trung vốn, nó thúc đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả. * Chức năng tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội Hoạt động tín dụng tạo điều kiện cho sự ra đời của các công cụ lưu thông thẻ tín dụng như thương phiếu, kỳ phiếu, séc, thẻ tín dụng, thẻ thanh toán… cho phép thay thế một lượng lớn tiền mặt lưu hành, nhờ đó giảm bớt các chi phí có liên quan như in tiền, đúc tiền, vận chuyển, bảo quản tiền… Với sự hoạt động của tín dụng, đặc biệt là tín dụng ngân hàng đã mở ra một khả năng lớn trong việc mở tài khoản và giao dịch thanh toán thông qua ngân hàng với các hình thức chuyển khoản hoặc bù trừ cho nhau, giúp giải quyết nhanh chóng các mối quan hệ kinh tế, tạo điều kiện cho các nền kinh tế xã hội phát triển. * Chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế Đây là chức năng phát sinh, hệ quả của hai chức năng nói trên. Sự vận động của vốn tín dụng phần lớn là sự vận động gắn liền với sự vận động của vật tư, hàng hoá, chi phí trong các xí nghiệp các tổ chức kinh tế. Vì vậy, tín dụng không những là tấm gương phản ánh hoạt động kinh tế của doanh nghiệp mà còn thông qua đó thực hiện việc kiểm soát các hoạt động ấy nhằm ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, lãng phí, vi phạm luật pháp…, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. c) Vai trò * Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa phát triển Tín dụng là nguồn cung ứng vốn cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế. Tín dụng là một trong những công cụ để tập trung vốn một cách hữu hiệu trong nền kinh tế, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Tín dụng làm tăng hiệu suất sử dụng đồng vốn, tăng tốc độ chu chuyển vốn trong phạ
Luận văn liên quan