- Trong giai đoạn phát triển và đổi mới đất nước, nhu cầu vế vốn đầu tư cho nền kinh tế là rất lớn và cấp thiết. Vốn đầu tư có thể được tạo lập từ nhiều nguồn khác nhau nhưng nguồn tích luỹ trong nước vẫn là chủ yếu và ngày càng đóng vai trò quyết định.
- Hiện nay ở nước ta các ngân hàng đang ngày càng củng cố và hoàn thiện hơn tạo lòng tin ở công chúng nên họ đã từng bước sử dụng ngày càng nhiều hơn các dịch vụ của ngân hàng tạo được một nguồn vốn đáng kể cho nền kinh tế.Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận công chúng vẫn chưa an tâm khi gởi tiền vào ngân hàng, số tiền nhàn rỗi này sử dụng chưa thật sự hiệu quả gây tổn thất cho nền kinh tế. Đây là một vấn đề tồn tại lớn về tổ chức lưu thông tiền tệ mà chúng ta cần phải cải thiện, tạo lập dần tập quán gởi tiền và thanh toán qua ngân hàng.
- Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập vào nền kinh tế thế giới nhu cầu sử dụng vốn ngày càng gia tăng. Nguồn vốn cho nền kinh tế chủ yếu là do ngân hàng đảm nhiệm. Vì vậy, các ngân hàng đã áp dụng nhiều phương pháp nhằm thu hút hiệu quả mọi nguồn vốn nhưng căn bản vẫn là dựa vào tiết kiệm, tích luỹ trong nước của mọi thành phần kinh tế.
57 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2371 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích tình hình huy động vốn tại quỹ tiết kiệm trung tâm ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU:
Trong giai đoạn phát triển và đổi mới đất nước, nhu cầu vế vốn đầu tư cho nền kinh tế là rất lớn và cấp thiết. Vốn đầu tư có thể được tạo lập từ nhiều nguồn khác nhau nhưng nguồn tích luỹ trong nước vẫn là chủ yếu và ngày càng đóng vai trò quyết định.
Hiện nay ở nước ta các ngân hàng đang ngày càng củng cố và hoàn thiện hơn tạo lòng tin ở công chúng nên họ đã từng bước sử dụng ngày càng nhiều hơn các dịch vụ của ngân hàng tạo được một nguồn vốn đáng kể cho nền kinh tế.Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận công chúng vẫn chưa an tâm khi gởi tiền vào ngân hàng, số tiền nhàn rỗi này sử dụng chưa thật sự hiệu quả gây tổn thất cho nền kinh tế. Đây là một vấn đề tồn tại lớn về tổ chức lưu thông tiền tệ mà chúng ta cần phải cải thiện, tạo lập dần tập quán gởi tiền và thanh toán qua ngân hàng.
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập vào nền kinh tế thế giới nhu cầu sử dụng vốn ngày càng gia tăng. Nguồn vốn cho nền kinh tế chủ yếu là do ngân hàng đảm nhiệm. Vì vậy, các ngân hàng đã áp dụng nhiều phương pháp nhằm thu hút hiệu quả mọi nguồn vốn nhưng căn bản vẫn là dựa vào tiết kiệm, tích luỹ trong nước của mọi thành phần kinh tế.
Nhận thức được vấn đề này nên em đã chọn đề tài: ”Phân tích tình hình huy động vốn tại Quỹ Tiết Kiệm Trung Tâm – Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Sài Gòn”.
Với những kiến thức tích luỹ được ở nhà trường cùng với thời gian công tác thực tập tại ngân hàng, bản thân đã cố gắng song chuyên đề không thể trách khỏi những hạn chế. Rất mong được sự quan tâm hướng dẫn của Quý Thầy, Cô, cùng các Anh, Chị trong ngân hàng nhằm giúp em hoàn thành tốt chuyên đề này.
Mục đích nghiên cứu: nghiên cứu tình hình huy động vốn của ngân hàng trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp.
Hạn chế của đề tài: vì thời gian thực tập tại ngân hàng tương đối ngắn và những kiến thức tích luỹ được còn hạn hẹp nên việc kết hợp giữa lý thuyết và thực tế còn hạn chế, do đó chuyên đề không thể trách khỏi những thiếu sót. Rất mong sự thông cảm của Quý Thầy Cô.
Chương 1:
GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN SÀI GÒN (SCB)
(((
1.1. Sự hình thành và phát triển của ngân hàng:
Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Sài Gòn (SCB) tiền thân là ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Quế Đô, thành lập theo quyết định số 00018/NH-GP ngày 06/06/1992 của thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam với vốn điều lệ ban đầu 10 tỷ đồng. Sau hơn 10 năm hoạt động kinh doanh, ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Quế Đô vẫn không có bước tiến triển và lâm vào tình trạng thua lỗ kéo dài. Tổng tài sản có của ngân hàng TMCP Quế Đô chỉ đạt 224 tỷ đồng, nợ quá hạn không có khả năng thu hồi trên 37 tỷ và lỗ luỹ kế gần 21 tỷ đồng chưa có nguồn bù đắp.
Với quyết tâm cải tổ toàn bộ cơ cấu bộ máy tổ chức, hoạt động và tên gọi của ngân hàng, ngày 08/04/2003 ngân hàng TMCP Quế Đô chính thức đổi tên thành ngân hàng TMCP Sài Gòn theo quyết định số 336 QĐ-NHNN của thống đốc ngân hàng nhà nước. Từ những nổ lực đổi mới, ngân hàng TMCP Quế Đô đã hoàn toàn thoát xác và hồi sinh với một thương hiệu mới: Ngân hàng TMCP Sài Gòn – SCB.
Sau 3 năm đổi mới tình hình tài chính của SCB đã từng bước lành mạnh hoá và hoạt động kinh doanh liên tục có lãi, năm sau cao hơn năm trước.Các chỉ tiêu tổng tài sản, nguồn vốn huy động, dư nợ đầu tư tín dụng đều có mức tăng trưởng cao và ổn định. Năm 2004 SCB đã bắt đầu chia cổ tức cho cổ đông là 8,04%. Năm 2005, mức cổ tức là 12%.
Đến cuối năm 2005, vốn điều lệ SCB đạt 271,788 tỷ đồng với 235 cổ đông. Mạng lưới tổ chức của SCB gồm hội sở chính, khối giao dịch kinh doanh, Quỹ Tiết Kiệm Trung Tâm, 12 chi nhánh và phòng giao dịch, điểm giao dịch tại thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và An Giang…
“SCB luôn hướng đến sự hoàn thiện. Thành công của khách hàng là mục tiêu của chúng tôi” là phương châm hoạt động tác nghiệp kinh doanh từ lãnh đạo điều hành đến đội ngũ cán bộ nhân viên toàn hệ thống SCB. Hướng đến sự hoàn thiện đồng nghĩa với ý chí quyết tâm xây dựng nội bộ đoàn kết thống nhất; phát huy những thành quả đã đạt được, ra sức nhanh chóng khắc phục những tồn tại yếu kém; kiên trì thực hiện lộ trình theo chiến lược xây dựng SCB trở thành ngân hàng thương mại đa năng bậc vừa trong hệ thống các tổ chức ngân hàng thương mại Việt Nam, giữ vững hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước Việt Nam đổi mới, mở cửa và hội nhập…
Sơ đồ tổ chức của ngân hàng:
(1)
(2)
(3)
(1)
(2)
(3)
Định hướng phát triển của ngân hàng trong thời gian tới:
Để phát huy những thành quả đạt được trong năm 2005 và thực hiện thắng lợi kế hoạch kinh doanh năm 2006, SCB tập trung sức thực hiện 5 định hướng lớn sau:
+ Định hướng 1: Tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được và khắc phục triệt để những tồn tại, yếu kém của năm trước, làm cơ sở vững chắc cho sự phát triển của SCB trong năm 2006 và những năm tiếp theo.
+ Định hướng 2: SCB phải tiếp tục thực hiện lộ trình tăng vốn điều lệ để cải thiện năng lực tài chính, tạo điều kiện trang bị thêm cơ sở vật chất, kỹ thuật công nghệ nhằm nâng cao vị thế và sức cạnh tranh trên thị trường tài chính trong nước.
+ Định hướng 3: Đẩy mạnh công tác phát triển mạng lưới.Xem công tác phát triển mạng lưới là mục tiêu quan trọng hàng đầu trong năm 2006.SCB phải nhanh chóng mở thêm các chi nhánh, phòng giao dịch tại các trung tâm kinh tế và các khu vực giàu tiềm năng, trong đó địa bàn Hà Nội và TPHCM là chủ yếu.Cùng với sự phát triển cơ sở mới vẫn phải duy trì, củng cố chất lượng và hiệu quả hoạt động của những đơi vị hiệu hữu. Mọi đơn vị kinh doanh của SCB đều phải đảm bảo an toàn và có lãi ổn định, ngày càng tăng cao.
+ Định hướng 4: Tăng cường phát triển các dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là các dịch vụ ngân hàng hiện đại để cung cấp nhiều tiện ích dịch vụ phục vụ khách hàng.Việc phát triển các dịch vụ ngân hàng sẽ cải thiện đáng kể hình ảnh SCB trong công chúng, đồng thời tạo điều kiện cho ngân hàng tăng tỷ trọng thu dịch vụ trong cơ cấu thu nhập của mình.Trong đó, khẩn trương xin phép ngân hàng nhà nước triển khai dịch vụ thanh toán quốc tế, kinh doanh đối ngoại vào năm 2006 phải xem là một bước đột phá trong kinh doanh dịch vụ ngân hàng.
+ Định hướng 5: Đẩy mạnh quá trình hiện đại hoá ngân hàng.Đổi mới trang thiết bị tin học phục vụ cho việc ứng dụng các kỹ thuật công nghệ tiên tiến và tiếp cận với công nghệ hiện đại nhằm phục vụ tốt cho mục tiêu quản trị, điều hành ngân hàng an toàn, hiệu quả cao.
Để thực thi những định hướng cơ bản nói trên, SCB tập trung thực hiện đồng bộ và mạnh mẽ các giải pháp kinh tế nghiệp vụ lớn sau:
+ Cải thiện mô hình tổ chức bộ máy phù hợp với nhu cầu quản lý và tình hình thực tế hoạt động, trên cơ sở tăng cường tính chủ động, linh hoạt cho các đơi vị trực tiếp kinh doanh đồng thời nâng cao vai trò tham mưu cho ban điều hành của các bộ phận quản lý.Riêng tại hội sở chính, tách bạch giữa hoạt động kinh doanh và tham mưu – giám sát; trên cơ sở đó, xin phép thành lập sở giao dịch.
+ Đẩy mạnh công tác huy động vốn, tiếp tục nghiên cứu, triển khai các sản phẩm huy động mới; chú trọng công tác tiếp thị thu hút nguồn vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư, nhất là tại Hà Nội và các tỉnh phía Bắc.Tăng cường mối quan hệ với các định chế tài chính, bảo hiểm trên cơ sở thiết lập quan hệ hợp tác toàn diện để vừa có thêm nguồn vốn hoạt động, vừa cải thiện nguồn thu dịch vụ ngân hàng.
+ Tăng cường tín dụng gắn liền với củng cố và nâng cao chất lượng. Thường xuyên rà soát, kiểm tra lại hồ sơ tín dụng, hồ sơ tài sản đảm bảo nợ vay; kịp thời chỉnh sửa những sai sót.Thực hiện tốt vai trò tự kiểm tra, giám sát trong suốt quá trình cho vay, đảm bảo việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và có hiệu quả.Tích cực tiếp thị khách hàng, đặc biệt là các khách hàng mục tiêu theo đúng chính sách tín dụng.
+ Tiếp tục phát triển, định vị sản phẩm, thương hiệu ngân hàng TMCP Sài Gòn – SCB trên thị trường.Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, tạo điều kiện đưa ra những sản phẩm mới đáp ứng yêu cầu của khách hàng.Không ngừng hoàn thiện và nâng cao phong cách phục vụ khách hàng.Tổ chức các khoá học về kỹ năng giao tiếp và chăm sóc khách hàng cho nhân viên.Tạo những nét đặc trưng riêng về văn hoá giao dịch cũng như sản phẩm dịch vụ của SCB.
+ Tiếp tục rà soát, chỉnh sửa, bổ sung các quy chế, quy định nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, phù hợp với các quy định mới của ngân hàng nhà nước và tiêu chuẩn quốc tế.
+ Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ.Triển khai thực hiện các biện pháp quản trị rủi ro, nhất là rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng để đảm bảo hoạt động luôn an toàn, hiệu quả.
1.4. Giới thiệu về quỹ tiết kiệm trung tâm:
Vài nét cơ bản về quỹ tiết kiệm trung tâm:
Quỹ tiết kiệm trung được thành lập theo quyết định số 155B/HĐQT – 2003 ngày 15/07/2003 của chủ tịch hội đồng quản trị ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Sài Gòn và tổ chức hoạt động theo quyết định số 53/SCB – VP ngày 15/07/2003 do tổng giám đốc ban hành qui định về tổ chức, hoạt động của Quỹ Tiết Kiệm Trung Tâm.
Chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/10/2003.
Quỹ Tiết Kiệm Trung Tâm có con dấu riêng với biên chế gồm 10 cán bộ nhân viên được tổ chức theo mô hình sau:
Trách nhiệm của các thành viên:
Trưởng quỹ tiết kiệm:
+ Chịu trách nhiệm điều hành mọi hoạt động thanh toán của Quỹ Tiết Kiệm; đảm bảo an toàn, phục vụ khách hàng nhanh chóng thuận lợi.
+ Thực hiện đầy đủ thao tác của các bước công việc quy định trong quy trình chi tiết của từng thể thức thanh toán.
+ Phối hợp với các thành viên, đơn vị liên quan để hoàn thành tốt nhiệm vụ được cấp trên giao.
+ Tổ chức, bố trí nhân sự phù hợp với mô hình thanh toán.
+ Kiểm tra thẩm quyền và việc làm của các thành viên.
+ Chịu trách nhiệm kiểm soát toàn bộ hoạt động kế toán, thanh toán và duyệt thanh toán sau cùng đối với các giao dịch thanh toán, chi tiền, chi vàng ra khỏi tiết kiệm trung tâm.
+ Tinh thần phục vụ khách hàng tận tình, chu đáo trung thực.
Giao dịch viên:
+ Thực hiện đầy đủ các bước công việc theo quy trình thanh toán.
+ Thực hiện đầy đủ các quy định hiện hành về chế độ hạch toán, chứng từ và an toàn kho quỹ.
+ Chấp hành sự điều hành của các thẩm quyền trong quy trình thanh toán.
+ Phối hợp với các cá nhân, đơn vị có liên quan để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
+ Tinh thần phục vụ khách hàng tận tình, chu đáo trung thực
Thủ quỹ:
+ Thực hiện đầy đủ các bước công việc theo quy trình thanh toán.
+ Thực hiện đầy đủ các quy định hiện hành về chế độ hạch toán, chứng từ và an toàn kho quỹ.
+ Phối hợp với các cá nhân, đơn vị có liên quan để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
+ Tinh thần phục vụ khách hàng tận tình, chu đáo trung thực
Chức năng của quỹ tiết kiệm trung tâm:
Quỹ tiết kiệm trung tâm có chức năng huy động tiền gởi tiết kiệm dân cư ngắn hạn, trung và dài hạn bằng VND, ngoại tệ và vàng theo quy chế tiền gởi tiết kiệm hiện hành của SCB.
Nhiệm vụ:
Quỹ tiết kiệm trung tâm có trách nhiệm bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu như sau:
+ Huy động tiền gởi tiết kiệm dân cư ngắn hạn, trung và dài hạn bằng VND, ngoại tệ và vàng theo quy chế tiền gởi tiết kiệm của SCB.
+ Mở tài khoản tiền gởi cá nhân, thanh toán chuyển tiền cho cá nhân theo quy định.
+ Cho vay cầm cố sổ tiền gởi tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu do SCB phát hành theo sự uỷ nhiệm của giám đốc Khối Kinh Doanh.
+ Thực hiện việc thu lãi, thu phí nghiệp vụ, chi lãi tiền gởi cho khách hàng liên quan đến các nghiệp vụ được đảm nhiệm.
+ Thu đổi các loại ngoại tệ đang được phép huy động tại Quỹ tiết kiệm trung tâm.
+ Mua, bán vàng của khách hàng gởi tiết kiệm và của khách vãng lai theo sự hướng dẫn của các phòng chức năng.
+ Chi trả kiều hối theo các hợp đồng dịch vụ được ký kết giữa SCB và các đơn vị kiều hối.
+ Quản lý giấy tờ có giá, thẻ lưu tiết kiệm, hồ sơ của khách hàng gởi tiền, tài sản khách hàng cầm cố để bảo đảm nợ vay và các ấn chỉ quan trọng khác theo quy định. Tổ chức lưu trữ, bảo quản chứng từ phát sinh theo quy chế hiện hành.
+ Tổ chức hạch toán kế toán, mở sổ sách theo dõi và chấp hành đầy đủ các quy trình, quy định liên quan đến nghiệp vụ kế toán.
+ Tổ chức thực hiện đầy đủ chế độ ngân quỹ và an toàn ngân quỹ.
+ Thực hiện các chế độ báo cáo thống kê theo quy định.
+ Quản lý, bảo quản các tài sản được giao sử dụng.
+ Làm công tác tiếp thị và tư vấn cho khách hàng đến quan hệ giao dịch.
+ Chấp hành nghiêm túc các quy định liên quan đến việc bảo mật thông tin của khách hàng và của SCB.
+ Phối hợp với các ban và phòng chức năng tham mưa cho ban lãnh đạo về các chế độ, chính sách liên quan đến chức năng và nhiệm vụ của Quỹ Tiết Kiệm Trung Tâm.
+ Báo cáo kịp thời lên ban lãnh đạo và các đơn vị chức năng khi có các phát sinh ngoài quy định có liên quan đến công tác đơn vị.
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của ban lãnh đạo SCB.
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ của Quỹ Tiết Kiệm Trung Tâm, các ban và phòng nhiệm vụ, Giám đốc khối kinh doanh quy định mối quan hệ công tác giữa Quỹ Tiết Kiệm Trung Tâm và các ban và phòng nghiệp vụ như sau:
+ Đối với các ban phòng nghiệp vụ ngoài khối kinh doanh, Quỹ Tiết Kiệm Trung Tâm có nhiệm vụ:
Phối hợp thực hiện nhiệm vụ theo sự chỉ đạo của ban lãnh đạo ngân hàng TMCP Sài Gòn.
Tuân thủ, chấp hành đầy đủ các quy định và hướng dẫn nghiệp vụ của các ban, phòng chức năng.
Chịu sự kiểm tra thường xuyên, định kỳ và đột xuất của các ban, phòng nghiệp vụ theo quy định.
Tham mưu, đề xuất ý kiến cho các đơn vị đối với các vấn đề có liên quan đến chức năng nhiệm vụ được giao.
+ Đối với các phòng thuộc khối kinh doanh:
Phòng tín dụng và bảo lãnh: Quỹ Tiết Kiệm Trung Tâm có nhiệm vụ:
Thực hiện đầy đủ các hướng dẫn và kiểm tra về nghiệp vụ tín dụng.
Thông báo kịp thời vấn đề phát sinh có liên quan nằm ngoài các quy định để cùng phối hợp giải quyết.
Cung cấp đầy đủ các báo cáo thường xuyên, định kỳ và đột xuất.
Tham mưu, đề xuất ý kiến đối với các vấn đề có liên quan đến công tác cho vay cầm cố.
Phòng kế toán giao dịch: Quỹ Tiết Kiệm Trung Tâm có nhiệm vụ:
Thực hiện đầy đủ các hướng dẫn và kiểm tra về nghiệp vụ có liên quan.
Giao nhận, luân chuyển chứng từ theo quy định
Cung cấp đầy đủ các báo cáo thường xuyên, định kỳ và đột xuất.
Tham mưu, đề xuất ý kiến đối với các vấn đề có liên quan.
Phòng ngân quỹ: Quỹ Tiết Kiệm Trung Tâm có nhiệm vụ:
Tuân thủ đầy đủ các hướng dẫn về nghiệp vụ ngân quỹ.
Tổ chức nhận quỹ đầu ngày, nhận quỹ bổ sung trong ngày và giao quỹ cuối ngày theo quy định.
Thông báo kịp thời vấn đề phát sinh có liên quan nằm ngoài các quy định để cùng phối hợp giải quyết.
Cung cấp đầy đủ các báo cáo thường xuyên, định kỳ và đột xuất.
Tham mưu, đề xuất ý kiến đối với các vấn đề có liên quan đến nghiệp vụ ngân quỹ tại Quỹ Tiết Kiệm Trung Tâm.
Phòng thanh toán quốc tế: Quỹ Tiết Kiệm Trung Tâm có nhiệm vụ cùng phối hợp thực hiện nhiệm vụ theo sự chỉ đạo của ban lãnh đạo SCB
Chương 2:
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH
HUY ĐỘNG VỐN TẠI
QUỸ TIẾT KIỆM TRUNG TÂM –
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN SÀI GÒN (SCB)
(((
Tổng quan về nghiệp vụ huy động vốn tại SCB:
Tính chất của nguồn vốn huy động:
Vốn huy động là những phương tiện tiền tệ do ngân hàng huy động được bằng nghiệp vụ nhận tiền gởi và các nghiệp vụ khác của ngân hàng để làm vốn kinh doanh. Nguồn vốn huy động có những đặc điểm sau:
+ Nguồn vốn này không thuộc quyền sở hữu của ngân hàng, nhưng ngân hàng được quyền sở hữu đối với những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi.
+ Đây là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn hoạt động của ngân hàng.Tuy nhiên trong đó một bộ phận đáng kể trong nguồn vốn huy động luôn luôn biến động, do vậy khi sử dụng ngân hàng luôn phải dành một khoản dự trữ nhất định để đảm bảo khả năng thanh toán chi trả cho người gởi, ký thác.
Tầm quan trọng của nguồn vốn huy động:
Nghiệp vụ huy động vốn tuy không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng nhưng nó là nghiệp vụ rất quan trọng. Không có nghiệp vụ huy động vốn xem như không có hoạt động của ngân hàng thương mại. Nghiệp vụ huy động vốn có ý nghĩa rất quan trọng đối với ngân hàng cũng như đối với khách hàng.
Đối với ngân hàng thương mại:
Nghiệp vụ huy động vốn góp phần mang lại nguồn vốn cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác. Không có nghiệp vụ huy động vốn ngân hàng thương mại sẽ không có đủ nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của mình. Mặt khác, thông qua nghiệp vụ huy động vốn ngân hàng thương mại có thể đo lường được các uy tín cũng như sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng. Từ đó, ngân hàng thương mại có các biện pháp không ngừng hoàn thiện hoạt động huy động vốn để giữ vững và mở rộng quan hệ với khách hàng. Có thể nói nghiệp vụ huy động vốn góp phần giải quyết “đầu vào” của ngân hàng.
Đối với khách hàng:
Nghiệp vụ huy động vốn cung cấp cho khách hàng một kênh tiết kiệm và đầu tư nhằm làm cho tiền của họ sinh lời, tạo cơ hội cho họ có thể gia tăng tiêu dùng trong tương lai. Mặt khác, nghiệp vụ huy động vốn còn cung cấp cho khách hàng một nơi an toàn để họ cất trữ và tích luỹ vốn tạm thời nhàn rỗi. Cuối cùng nghiệp vụ huy động vốn giúp cho khách hàng có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ khác của ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng và dịch vụ tín dụng khi khách hàng cần vốn cho sản xuất, kinh doanh hoặc cần tiền cho tiêu dùng.
Đối với nền kinh tế:
Bất kỳ quốc gia nào muốn phát triển đều cần vốn để đầu tư, xây dựng phát triển sản xuất hàng hoá, tạo công ăn việc làm và của cải vật chất cho xã hội. Vốn từ ngân sách thì có hạn không thể chi cho tất cả các nhu cầu. Vốn của mỗi doanh nghiệp, mỗi người dân thì tạm thời nhàn rỗi nhưng nhỏ bé phân tán. Vì vậy, vấn đề đặt ra là làm sao gom những đồng vốn này lại với nhau thành một khối lớn rồi dùng nó để tài trợ cho các nhu cầu trên. Không ai khác, chính ngân hàng là người đứng ra giữ vai trò trung gian hết sức quan trọng này: thu hút những đồng vốn từ nơi nhàn rỗi và chuyển nó sang nơi cần thiết.
ở Việt Nam, vốn nhàn rỗi còn nằm trong dân cư rất lớn, chủ yếu nằm dưới dạng dự trữ như vàng, bạc, kể cả tiền mặt. Ngân hàng giữ vai trò quan trọng trong việc trong việc huy động và cung cấp vốn cho nền kinh tế. Không ai khác ngoài ngân hàng có thể tạo dựng được nguồn vốn lớn lao đáp ứng cho nhu cầu phát triển đất nước, cũng như các nhu cầu đa dạng khác của mọi tầng lớp dân cư. Hơn nữa, việc huy động nguồn vốn trong nước luôn có ý nghĩa quyết định vì đây là nguồn tại chỗ, có giá trị lớn và thể hiện sức mạnh, ý chí tự lực, tự cường của một quốc gia, dân tộc. Như vậy:
+ Việc huy động vốn kết hợp với việc sử dụng vốn, vai trò trung gian thanh toán. Ngân hàng đã làm công việc quan trọng cho nền kinh tế là đẩy mạnh tốc độ lưu thông tiền tệ, vòng quay vốn của doanh nghiệp, cá nhân, làm giảm lượng tiền mặt lưu thông, tiết kiệm chi phí và thời gian cho mọi thành phần kinh tế.
+ Ngân Hàng Thương Mại khi huy động vốn còn đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước.Chẳng hạn trong điều kiện nền kinh tế đang có lạm phát hoặc giảm phát thì ngân hàng với công cụ hữu hiệu là lãi suất huy động tiền gởi hợp lý sẽ là một trong những biện pháp tích cực để điều tiết lượng tiền mặt lưu thông.
+ Ngoài ra, Ngân Hàng huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư và trả lãi ở mức thích hợp sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ý thức tiết kiệm của mỗi người dân, tạo ra trong lòng họ Ngân Hàng như là một hình ảnh quen thuộc, một tiện ích, một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống, đó cũng là tiền đề để phát triển kinh tế.
Những quy định chung:
Vốn huy động là tài sản bằng tiền của các chủ sở hữu nên việc huy động sử dụng nguồn vốn này phải tuân thủ ba nguyên tắc cơ bản là: hoàn trả, bí mật, trả lãi.
+ Hoàn trả: là nguyên tắc cao nhất, theo đó các ngân hàng thương mại phải có trách nhiệm hoàn trả cho khách hàng khi có yêu cầu hoặc khi đáo hạn.Nhờ vậy sẽ tạo lòng tin nơi khách hàng để họ yêu tâm gởi tiền vào ngân hàng mà không sợ bị mất mát. Để hoàn trả cho khách hàng, các ngân hàng cần có biện pháp sử dụng vốn an toàn, có hiệu quả. Trong trường hợp do kinh doanh thua lỗ, ngân hàng bị phá sản thì việc hoàn trả tiền cho khách hàng được áp dụ