Chuyên đề Phân tích tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động tại công ty dệt may 29/3

Vốn là một yếu tố quan trọng và cần thiết phải quan tâm đối với bất kì doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào. Bởi lẻ, muốn đứng vững trên thị trường có sự cạnh tranh gay gắt giữa nhiều thành phần kinh tế thì đòi hỏi doanh nghiệp cần phải có một số vốn đủ mạnh để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và đồng thời cũng nhằm mục đích mở rộng quy mô sản xuất. Việc quản lý và sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả hay không ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh, đặc biệt là vốn lưu động. Do đó vấn đề về vốn là vấn đề không thể không đề cập đến. Mặt khác, Công ty Dệt may 29/3 là một doanh nghiệp Nhà nước ra đời cách đây hàng chục năm. Trong những năm trở lại đây khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, quá trình kinh doanh ngày càng mở rộng và sự cạnh tranh ngày càng gay gắt đòi hỏi công ty cần phải năng động, sáng tạo trong quá trình kinh doanh cũng như việc sử dụng và khai thác tối ưu các nguồn vốn lưu động phục vụ cho quá trình kinh doanh của mình. Trong khi đó, việc quản lý và sử dụng vốn lưu động ở công ty trong những năm trước là chưa tốt, đó là tình trạng thiếu vốn, khả năng thanh toán kém, vay vốn ngân hàng lớn, chịu lãi vay cao. Do vậy, mỗi quyết định liên quan đến việc đầu tư vốn phải được cân nhắc thận trọng. Câu hỏi đặt ra với công ty là làm thế nào để quản lý và sử dụng vốn lưu động một cách có hiệu quả.

doc51 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4335 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động tại công ty dệt may 29/3, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG I- KHÁI NIỆM KẾT CẤU VÀ VAI TRÒ CỦA VỐN LƯU ĐỘNG TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH : 1. Khái niệm về vốn lưu động : Mỗi một doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài tư liệu lao động ra còn phải có đối tượng lao động, đối tượng lao động khi tham gia vào quá trình sản xuất không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu và chỉ có thể tham gia một chu kỳ sản xuất nấy. Vì vậy toàn bộ giá trị của đối tượng lao động được dịch chuyển toàn bộ một lần vào sản phẩm và được bù đắp khi giá trị sản phẩm được thực hiện. ĐTLĐ trong doanh nghiệp được biểu hiện thành hai bộ phận : Một bộ phận là những vật tư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản xuất được liên tục (nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ), một bộ phận là những vật tư đang trong quá trình chế biến (sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, CCDC ...). Hai bộ phận này biểu hiện dưới hình thái vật chất gọi là tài sản lưu động sản xuất. Ngoài ra, quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gắn liền với quá trình lưu thông như chọn lọc, đóng gói, xuất giao sản phẩm, thanh toán ... và những tài sản nằm trong quá trình lưu thông như hàng hoá chưa tiêu thụ, các khoản tiền phát sinh trong lưu thông gọi là tài sản lưu thông. TSLĐ trong quá trình sản xuất và TSLĐ trong quá trình lưu thông thay chỗ nhau vận động không ngừng nhằm đảm bảo quá trình tái sản xuất được liên tục. Do đó, doanh nghiệp nào cũng cần một số vốn thích ứng để đầu tư vào các tài sản này, số tiền ứng trước về những tài sản đó gọi là vốn lưu động. Vậy vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên liên tục. Có thể định nghĩa vốn lưu động theo cách khác : VLĐ của doanh nghiệp là các khoản đầu tư của doanh nghiệp vào tài sản ngắn hạn như tiền mặt, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho và các tài sản lưu động khác có khả năng chuyển đổi thành tiền trong vòng 01 năm. 2. Đặc điểm của vốn lưu động : Vốn lưu động luôn được chuyển hoá qua nhiều hình thái khác nhau, bắt đầu từ hình thái tiền tệ sang hình thái dự trữ, sản xuất, vật tư hàng hoá và cuối cùng trở về hình thái tiền tệ ban đầu. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục. Vì vậy vốn lưu động cũng tuần hoàn không ngừng có tính chất chu kỳ thành chu chuyển của tiền vốn. 3. Vai trò của vốn lưu động : - Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu của quá trình sản xuất kinh doanh, do đặc điểm tuần hoàn của vốn lưu động trong cùng một lúc phân bổ trên khắp các giai đoạn luân chuyển và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Để có tổ chức hợp lý sự tuần hoàn của các tài sản và quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục, doanh nghiệp phải có đủ vốn để đầu tư cũng như có được mức tồn hợp lý và đồng bộ, nếu không quá trình sản xuất kinh doanh sẽ gặp khó khăn. - Vốn lưu động là công cụ phản ánh và kiểm tra quá trình vận đọng của vật tư. Trong doanh nghiệp sự vận động của vốn phản ánh sự vận động của vật tư. Vốn lưu động nhiều hay ít, tốc độ luân chuyển nhanh hay chậm sẽ phản ánh số lượng vật tư hàng hoá dự trữ ở các khâu nhiều hay ít, số lượng vật tư sử dụng tiết kiệm hay không. Vậy thông qua tình hình luận chuyển vốn lưu động còn có thể kiểm tra một cách toàn diện đối với việc cung cấp sản xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp. - VLĐ là yếu tố nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp không thể không gặp những rủi ro mất mát, hư hỏng, giá cả biến động, nếu qui mô và khả năng VLĐ lớn sẽ giúp doanh nghiệp làm chủ được quá trình kinh oanh, đứng vững trong nền kinh tế thị trường khi có tính cạnh tranh trong kinh doanh rất gay gắt. II- KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VLĐ : 1) Khái niệm : Phân tích tình hình quản lý, sử dụng VLĐ là việc sử dụng những thông tin kế toán cần thiết, áp dụng những phương pháp phân tích thích hợp nhằm tìm hiểu đánh giá quản lý và sử dụng VLĐ ở doanh nghiệp, qua đó kiến nghị các biện pháp để phát huy những điểm mạnh, khắc phục những mặt còn chưa tốt của doanh nghiệp nhằm phục vụ cho quá trình phát triển. 2) Sự cần thiết của việc phân tích tình hình quản lý và hiệu quả sử dụng VLĐ : VLĐ là yếu tố quan trọng và rất cần thiết đối với bất kì một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh nào hay bất kì một nhà đầu tư nào khi muốn bỏ vốn ra để đầu tư vào doanh nghiệp vì thông qua VLĐ, có thể đánh giá được tình hình quản lý và sử dụng VLĐ tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, để có được thông tin chính xác đó thì không chỉ đơn thuần căn cứ vào các bảng báo cáo tài chính mà phải tiến hành quá trình phân tích những thông tin có liên quan đến VLĐ. Vì vậy việc tiến hành phân tích tình hình quản lí và sử dụng VLĐ là đòi hỏi khách quan. Mỗi đối tượng quan tâm ở những góc độ khác nhau và có xu hướng tập trung vào những khía cạnh riêng phục vụ cho mục đích của họ. Chính vì thế tạo ra sự phức tạp của việc phân tích nhưng đồng thời việc phân tích này đem lại nhiều ý nghĩa khác nhau đối với mỗi đối tượng : + Đối với nhà quản lý doanh nghiệp : Một trong những mối quan tâm hàng đầu của họ là làm thế nào để quản lý VLĐ đạt được hiệu quả tốt nhất trong việc sử dụng VLĐ. Thông qua việc phân tích tình hình quản lý, sử dụng VLĐ, họ có thể trả lời được những câu hỏi sau. Doanh nghiệp nên dự trữ một lượng tiền mặt là bao nhiêu ? Có nên bán chịu hay không ? Nếu có thì chính sách tín dụng bán hàng như thế nào và bán chịu cho những khách hàng nào ... ? Từ đó có quyết định đúng đắn cho việc lựa chọn các phương án kinh doanh, huy động vốn. + Đối với nhà cho vay (Ngân hàng, tổ chức tín dụng) hay nhà cung cấp ... thì những đối tượng này đặc biệt chú ý đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp, tình hình công nợ, hiệu quả sử dụng vốn ... để có quyết định nên cho doanh nghiệp vay hay bán hàng chịu không ? Do những lợi ích trên nên trong quá trình kinh doanh phải xác định đúng đắn qui mô, cơ cấu của lượng vốn này, tránh tình trạng thiếu hụt hay lãng phí. Mỗi doanh nghiệp phải có kế hoạch cụ thể về sử dụng VLĐ trong những thời gian khác nhau, có như vậy quá trình SXKD mới đem lại hiệu quả cao. III- TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH : 1) Tài liệu sử dụng để phân tích ; Tài liệu sử dụng để phân tích là những số liệu, dữ liệu, chứng từ, sổ sách có liên quan mà nhà phân tích cần phải dựa vào đó làm cơ sở để phân tích. Ý nghĩa của những tài liệu này là nhằm cung cấp những thông tin chính xác về tình hình của doanh nghiệp cho nhà phân tích nhằm phục vụ cho việc phân tích được thuận lợi. 1.1. Bảng cân đối kế toán : a. Nội dung của bảng cân đối kế toán ; BCĐKT là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát tình hình tài sản và nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp dưới hình thái tiền tệ tại một thời điểm nhất định. Thời điểm đó thường là cuối tháng, cuối quí, cuối năm. Gồm hai phần : - Phần tài sản phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo theo cơ cấu tài sản và hình thức tồn tại trong quá trình kinh doanh doanh nghiệp. Các tài sản được sắp xếp theo khả năng hoán chuyển thành tiền theo thứ tự giảm dần hoặc theo độ dài thời gian để chuyển hoá tài sản thành tiền. - Phần nguồn vốn phản ánh toàn bộ nguồn hình thành tài sản hiện có ở doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Các loại nguồn vốn được sắp xếp theo trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc sử dụng nguồn vốn đối với các chủ nợ và chủ sở hữu. b. Ý nghĩa của BCĐKT : BCĐKT có ý nghĩa về mặt kinh tế và pháp lý. Về mặt kinh tế : số liệu phần tài sản cho phép nhà phân tích đánh giá một cách tổng quát qui mô và kết cấu tài sản của doanh nghiệp. Số liệu phần nguồn vốn phản ánh các nguồn tài trợ cho tài sản của doanh nghiệp, qua đó đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Về mặt pháp lý : số liệu phần tài sản thể hiện giá trị các loại tài sản hiện có mà doanh nghiệp có quyền quản lý và sử dụng lâu dài để sinh lợi. Phần nguồn vốn thể hiện phạm vi trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp về tổng số vốn kinh doanh với chủ nợ và chủ sở hữu. Như vậy, tài liệu từ BCĐKT cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp. 2.1. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh : a. Nội dung báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ (quý, năm) chi tiết theo các loại hoạt động, tình hình thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp với nhà nước về thuế và các khoản phải nộp khác. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh gồm ba phần chính : Phần I : Lãi, lỗ : Thể hiện kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo 3 hoạt động : + Hoạt động sản xuất kinh doanh + Hoạt động tài chính + Hoạt động bất thường Phần II : Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Phần này phản ánh tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước về thuế và các khoản phải nộp khác (phí, lệ phí). Phần III : Thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm, thuế GTGT hàng bán nội địa. Phần này phản ánh số thuế GTGT dược khấu trừ, đã khấu trừ và còn được khấu trừ cuối kỳ; số thuế GTGT được hoàn lại, đã hoàn lại và còn được hoàn lại; số thuế GTGT được miễn giảm, đã miễn giảm và còn được miễn giảm cuối kỳ. b. Ý nghĩa của Bảng kết quả hoạt động kinh doanh : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có ý nghĩa rất lớn trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh và công tác quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch thu nhập, chi phí và kết quả từng loại hoạt động cũng như kết quả chung toàn doanh nghiệp. Số liệu trên báo cáo này còn là cơ sở để đánh giá khuynh hướng hoạt động của doanh nghiệp trong nhiều năm liền, dự báo hoạt động trong tương lai. Thông qua báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể đánh giá được hiệu quả và khả năng sinh lợi của doanh nghiệp : Đây là một trong các nguồn thông tin rất bổ ích cho người ngoài doanh nghiệp trước khi ra quyết định đầu tư vào doanh nghiệp. Số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh còn cho phép đánh giá tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước về thuế và các khoản phải nộp khác, đặc biệt là thanh quyết toán thuế GTGT, qua đó đánh giá phần nào tình hình thanh toán của doanh nghiệp. 1.3. Các thông tin khác : Bên cạnh việc sử dụng các BCTC cần được sử dụng thêm các sổ chi tiết, các hợp đồng kinh tế .v.v... để phân tích tình hình quản lý sử dụng VLĐ được cụ thể hơn, hoàn thiện hơn. Chẳng hạn, dựa vào sổ chi tiết công nợ ta biết được các khoản phải thu của doanh nghiệp đối với từng khách hàng, từ đó có biện pháp thích hợp đối với mỗi khách hàng, hoặc khi hàng tồn kho tăng thì dựa vào sổ chi tiết thành phẩm tồn kho, ta biết được loại hàng nào còn tồn đọng, loại nào thích ứng trên thị trường, từ đó ta quyết định đúng đắn, phù hợp . - Tuy nhiên, khi phân tích không chỉ giới hạn trong phạm vi các BCTC hay sổ chi tiết mà mục tiêu của phân tích là đưa ra những dự báo giúp việc ra quyết định về vốn trong tương lai của doanh nghiệp. Vì vậy, cần quan tâm đến các thông tin chung như : - Những thông tin về đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp: Do mỗi doanh nghiệp có những đặc điểm riêng trong tổ chức sản xuất kinh doanh và trong phương hướng hoạt động nên để đánh giá tình hình tài chính, nhà phân tích cần nghiên cứu kỹ lưỡng đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm : + Mục tiêu và chiến lược hoạt động của doanh nghiệp, gồm cả chiến lược tài chính và chiến lược kinh doanh. + Tính thời vụ, tính chu kỳ trong hoạt động kinh doanh. + Mối liên hệ giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp, khách hàng, và các đối tượng khác. + Các chính sách hoạt động khác + v.v... - Thông tin liên quan đến tình hình kinh tế : + Thông tin về tăng trưởng kinh tế, suy thoái kinh tế. + Thông tin về lãi suất ngân hàng, trái phiếu kho bạc, tỷ giá ngoại tệ. + Thông tin về lạm phát. + Các chính sách kinh tế lớn của Chính phủ, chính sách chính trị, ngoại giao của Nhà nước ... - Những thông tin theo ngành, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp như : + Mức độ và yêu cầu công nghệ của ngành. + Mức độ cạnh tranh và qui mô của thị trường. + Tính chất cạnh tranh của thị trường hay mối quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp và khách hàng. + Nguy cơ xuất hiện những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng. + v.v... 2) Các phương pháp sử dụng để phân tích : 2.1. Phương pháp so sánh : Phương pháp so sánh là phương pháp sử dụng phổ biến nhất trong phân tích tài chính. Để vận dụng phép so sánh trong phân tích tài chính cần quan tâm đến tiêu chuẩn so sánh, điều kiện so sánh của chỉ tiêu phân tích cũng như kĩ thuật so sánh. - Tiêu chuẩn so sánh : là chỉ tiêu gốc được chọn làm căn cứ so sánh. Khi phân tích tài chính, nhà phân tích thường sử dụng các gốc sau : + Sử dụng số liệu tài chính ở nhiều kỳ trước để đánh giá và dự báo xu hướng của các chỉ tiêu tài chính. Thông thường, số liệu phân tích được tổ chức từ 3 đến 5 năm liền kề. + Sử dụng số liệu trung bình ngành để đánh giá sự tiến bộ về hoạt dodongj tài chính của doanh nghiệp so với mức trung bình tiên tiến của ngành. Số liệu trung bình ngành thường được các tổ chức dịch vụ tài chính, các ngân hàng cơ quan thống kê cung cấp theo nhóm doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong trường hợp không có số liệu trung bình ngành, nhà phân tích có thể sử dụng số liệu của một doanh nghiệp điển hình trong cùng ngành để căn cứ phân tích. + Sử dụng các số kế hoạch, số dự đoán để đánh giá doanh nghiệp có đạt được các mục tiêu tài chính trong năm. Thông thường các nhà quản trị doanh nghiệp chọn gốc so sánh này để xây dựng chiến lược hoạt động cho tổ chức mình. - Điều kiện so sánh : Yêu cầu các chỉ tiêu phân tích phải phản ánh cùng nội dụng kinh tế, có cùng phương pháp tính toán và có đơn vị đo lường như nhau. - Kĩ thuật so sánh : trong phân tích tài chính thường thể hiện qua các trường hợp sau : + Trình bày báo cáo tài chính dạng so sánh nhằm xác định mức biến động tuyệt đối và tương đối của từng chỉ tiêu trong báo cáo tài chính qua 2 hay nhiều kỳ, qua đó phát hiện xu hướng của các chỉ tiêu (tăng, giảm) khi phân tích báo cáo tài chính dạng so sánh cần chú ý mối liên hệ giữa các chỉ tiêu kinh tế để phần thuyết minh số liệu chặt chẽ hơn. + Trình bày báo cáo tài chính theo quy mô chung : Với việc so sánh này một chỉ tiêu báo cáo tài chính được chọn làm quy mô chung và các chỉ tiêu liên quan sẽ được tính theo tỷ lệ phần trăm tiêu chỉ tiêu quy mô chung đó. + Thiết kế chỉ tiêu có dạng tỷ số. Một tỉ số được xây dựng khi các yếu tố cấu thành nên tỉ số phải có mối liên hệ và mang ý nghĩa kinh tế. Với nguyên tắc thiết kế các tỉ số như thế nhà phân tích có thể xây dựng chỉ tiêu phân tích phù hợp với đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp. Các tỉ số còn lại là công cụ hỗ trợ công tác dự toán tài chính. 2.2. Phương pháp loại trừ : Trong một số trường hợp, phương pháp này được sử dụng trong phân tích tài chính nhằm xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu tài chính xác định các nhân tố còn lại không thay đổi. Phương pháp này còn là công cụ hỗ trợ quá trình ra quyết định. 2.3. Phương pháp cân đối liên hệ : Các báo cáo tài chính đều có đặc trưng chung là thể hiện tính cân đối giữa tài sản và nguồn vốn ; cân đối giữa doanh thu, chi phí và kết quả, cân đối, cân đối giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra, cân đối giữa tăng và giảm. Dựa vào những cân đối cơ bản đó người ta vận dụng phương pháp cân đối liên hệ để xem xét những tác động ảnh hưởng của nhân tố này đến nhân tố kia như thế nào và ảnh hưởng đến biến động của chỉ tiêu phân tích. 2.4. Phương pháp phân tích tương quan : Giữa các số liệu tài chính trên báo cáo tài chính thường có mối tương quan với nhau. Chẳng hạn mối tương quan giữa doanh thu của đơn vị càng tăng thì số dư của các khoản nợ phải thu cũng tăng, hoặc doanh thu dẫn đến yêu cầu về dự trữ hàng cho kinh doanh tăng. Một trường hợp khác là tương quan giữa chỉ tiêu "chi phí đầu tư xây dựng cơ bản" với chỉ tiêu "nguyên giá tài sản cố định" ở doanh nghiệp. Cả hai số liệu này đều trình lên Bảng cân đối kế toán. Một khi trị giá các khoản xây dụng cơ bản gia tăng thường phản ánh doanh nghiệp có tiềm lực về cơ sở hạ tầng trong thời gian đến. Phân tích tương quan sẽ đánh giá tính hợp lý về biến động giữa các chỉ tiêu tài chính, xây dựng các tỷ số tài chính được phù hợp hơn và phục vụ công tác dự báo tài chính ở doanh nghiệp. IV- NỘI DUNG PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG : 1) Phân tích tình hình phân bổ vốn lưu động : Để khái quát về tình hình quản lý vốn lưu động, ta tiến hành phân tích việc thực hiện phân bổ vốn lưu động, muốn phân tích như vậy thì ta cần phải lập bảng phân tích như sau : Chỉ tiêu  Năm N  Năm N + 1  Chênh lệch (+ -)    Số tiền  TT(%)  Số tiền  TT(%)  Số tiền  TT(%)   * TSCĐ & ĐTNH 1. Tiền 2. Đầu tư ngắn hạn 3. Các khoản phải thu 4. Hàng tồn kho 5. TSLĐ khác         Với tỷ trọng TSLĐi =  x 100% Với việc lập bảng phân tích như trên giúp ta biết được tình hình phân bổ vốn lưu động ở doanh nghiệp như thế nào, tỉ trọng từng loại TSLĐ trong tổng tài sản lưu động và việc phân bổ như thế đã hợp lý hay chưa. Xem xét xu hướng biến động của các loại tài sản này qua các năm để thấy dược sự biến động đó có tốt không. Từ đó có cơ sở để đi sâu phân tích sự biến động của từng bộ phận VLĐ. Tuy nhiên để có những đánh giá nhận xét chính xác thì cũng cần xét đến yếu tố loại hình doanh nghiệp . Vì có thể việc phân bổ này phù hợp với những doanh nghiệp này nhưng lại không phù hợp với những doanh nghiệp khác.Thông thường ở doanh ngiệp thương mại thì VLĐ lớn hơn ở doanh nghiệp sản xuất. Hay tùy thuộc vào quan điểm của từng doanh nghiệp. Chẳng hạn, doanh nghiệp có chủ trương nới lỏng chính sách tín dụng thương mại nên làm cho khoản phải thu tăng lên ... Với việc phân tích như thế, ta có được cái nhìn khái quát được phần nào về tình hình quản lý vốn lưu động. 2. Phân tích VLĐ ròng, nhu cầu vốn lưu động ròng và ngân quỹ ròng. 2.1. Phân tích VLĐ ròng : Vốn lưu động ròng là phần chênh lệch giữa nguồn vốn thường xuyên và giá trị tài sản cố định (TSCĐ) và đầu tư dài hạn.  Chỉ tiêu thể hiện nguồn gốc của vốn lưu động hay phân tích bên ngoài về vốn lưu động : - Nếu vốn lưu động ròng < 0 (tức NVTX - TSCĐ & ĐTDH <0) nghĩa là NVTX không đủ để tài trợ cho TSCĐ & ĐTDH, sự thiếu hụt này được bù đắp bằng một phần nguồn vốn tạm thời hay nợ ngắn hạn. Cân bằng tài chính trong trường hợp này không tốt vì Doanh nghiệp luôn chịu áp lực về các khoản nợ ngắn hạn. Doanh nghiệp cần phải có những điều chỉnh dài hạn để tạo ra một cân bằng mới theo hướng bền vững. - Nếu Vốn lưu động ròng bằng 0 (tức NVTX - TSCĐ & ĐTDH = 0) nghĩa là NVTX vừa đủ để tài trợ cho toàn bộ các khoảng TSCĐ & ĐTDH. Cân bằng tài chính trong trường hợp này tuy có tiến triển và bền vững hơn so với trường hợp 1 nhưng cũng chưa an toàn, có nguy cơ mất tính bền vững. - Nếu vốn lưu động ròng > 0 (tức NVTX - TSCĐ & ĐTDH > 0) trong trường hợp này, NVTX không chỉ sử dụng để tài trợ cho TSCĐ & ĐTDH mà còn sử dụng để tài trợ một phần cho TSLĐ của Doanh nghiệp, cân bằng tài chính lúc này rất tốt và an toàn. - Tuy nhiên để đánh giá cân bằng tài chính trong dài hạn, ta cần phải xem xét vốn lưu động ròng trong chuỗi thời gian thì mới dự toán những khả năng triển vọng về cân bằng tài chính trong tương lai. Phân tích vốn lưu động ròng quá nhiều kỳ có những trường hợp sau : + Nếu VLĐ ròng giảm và âm : đánh giá mức đó an toàn và bền vững tài chính của doanh nghiệp càng giảm, vì doanh nghiệp phải sử dụng nguồn vốn tạm thời để tài trợ TSCĐ. Doanh nghiệp sẽ gặp áp lực về thanh toán ngắn hạn và có nguy cơ phá sản nếu không thanh toán đúng hạn và có hiệu quả kinh doanh thấp. + Nếu
Luận văn liên quan