Chuyên đề Phân tích tình hình ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam

Ngày 11/1/2007,Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Từ đó, xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa ngày càng trở nên mạnh mẽ khiến các doanh nghiệp Việt Nam đứng trước những cơ hội cũng như thách thức. Đặc biệt, đối với hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) phải mở cửa gần như hoàn toàn theo các cam kết quốc tế lại càng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi xu thế này. Trước bối cảnh đó, cơ quan quản lý nhà nước (cụ thể là NHNN) cũng như hệ thống TCTD Việt Nam phải chủ động nhận thức và sẵn sàng tham gia vào quá trình hội nhập để có thể biến thách thức thành cơ hội, biến những khó khăn thành lợi thế. Chính vì thế, NHNN phải ban hành các văn bản luật pháp phù hợp và hệ thống TCTD phải cố gắng nâng cao vị thế, năng lực cạnh tranh trên trường quốc tế bằng cách tuân thủ theo một số điều ước quốc tế đã được cụ thể hóa bằng các văn bản luật tại Việt Nam. Để từ đó có cơ sở so sánh, đánh giá và xếp hạng giữa các TCTD Việt Nam với các TCTD của các quốc gia khác trên thế giới. Một trong những điều ước quốc tế được hầu hết nhà quản trị ngân hàng trên thế giới đặc biệt quan tâm chính là Hiệp ước quốc tế về an toàn vốn do Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng ban hành lần đầu vào năm 1988 (với tên gọi Basel I). Sau đó hiệp ước vốn này được thay thế bằng Basel II và cuối cùng là Basel III. Ở Việt Nam, NHNN và hệ thống TCTD đã áp dụng các hiệp ước vốn này vào chính sách quản lý vĩ mô cũng như quản trị rủi ro của từng TCTD. Tuy nhiên, việc ứng dụng các hiệp ước Basel vẫn còn nhiều vướng mắc, nên chỉ mới dừng lại ở việc lựa chọn một số tiêu chí đơn giản trong các Hiệp ước Basel để vận dụng và vẫn chưa tiếp cận hoàn toàn các điều khoản.

doc30 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1933 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích tình hình ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề: Phân tích tình hình ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam LỜI MỞ ĐẦU LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Ngày 11/1/2007,Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Từ đó, xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa ngày càng trở nên mạnh mẽ khiến các doanh nghiệp Việt Nam đứng trước những cơ hội cũng như thách thức. Đặc biệt, đối với hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) phải mở cửa gần như hoàn toàn theo các cam kết quốc tế lại càng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi xu thế này. Trước bối cảnh đó, cơ quan quản lý nhà nước (cụ thể là NHNN) cũng như hệ thống TCTD Việt Nam phải chủ động nhận thức và sẵn sàng tham gia vào quá trình hội nhập để có thể biến thách thức thành cơ hội, biến những khó khăn thành lợi thế. Chính vì thế, NHNN phải ban hành các văn bản luật pháp phù hợp và hệ thống TCTD phải cố gắng nâng cao vị thế, năng lực cạnh tranh trên trường quốc tế bằng cách tuân thủ theo một số điều ước quốc tế đã được cụ thể hóa bằng các văn bản luật tại Việt Nam. Để từ đó có cơ sở so sánh, đánh giá và xếp hạng giữa các TCTD Việt Nam với các TCTD của các quốc gia khác trên thế giới. Một trong những điều ước quốc tế được hầu hết nhà quản trị ngân hàng trên thế giới đặc biệt quan tâm chính là Hiệp ước quốc tế về an toàn vốn do Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng ban hành lần đầu vào năm 1988 (với tên gọi Basel I). Sau đó hiệp ước vốn này được thay thế bằng Basel II và cuối cùng là Basel III. Ở Việt Nam, NHNN và hệ thống TCTD đã áp dụng các hiệp ước vốn này vào chính sách quản lý vĩ mô cũng như quản trị rủi ro của từng TCTD. Tuy nhiên, việc ứng dụng các hiệp ước Basel vẫn còn nhiều vướng mắc, nên chỉ mới dừng lại ở việc lựa chọn một số tiêu chí đơn giản trong các Hiệp ước Basel để vận dụng và vẫn chưa tiếp cận hoàn toàn các điều khoản. Trong tương lai, NHNN phải hoàn thiện hệ thống pháp luật và các ngân hàng ở Việt Nam, đặc biệt là những ngân hàng có hoạt động quốc tế, sớm hay muộn sẽ phải tuân thủ các chuẩn mực Basel để hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu thật sâu và nắm rõ các quy định trong Basel, cũng như nghiên cứu những khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân vì sao Việt Nam chưa ứng dụng được các Basel trong từng giai đoạn cụ thể để xây dựng lộ trình ứng dụng Hiệp ước vốn vào Việt Nam một cách hợp lý và có hiệu quả. Đó cũng chính là lý do để em chọn đề tài “Phân tích tình hình ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam” để nghiên cứu cho chuyên đề của mình. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Mục tiêu chung Phân tích tình hình ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam giai đoạn 1999-2012. Trên cơ sở đó, đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong việc ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam và đề ra các giải pháp để việc ứng dụng các Hiệp ước vốn trong thời gian tới có hiệu quả và phù hợp với tình hình thực tế tại Việt Nam. Mục tiêu cụ thể Phân tích tình hình ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam trong giai đoạn 1999-2012. Đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong việc ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam trong giai đoạn 1999-2012. Đề xuất những giải pháp thực thi, có tính đồng bộ giúp nâng cao hiệu quả ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam trong tương lai. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Phạm vi không gian Đề tài nghiên cứu thực trạng ứng dụng các Hiệp ước vốn tại NHNN và hệ thống TCTD tại Việt Nam. Phạm vi thời gian Đề tài chủ yếu sử dụng số liệu thứ cấp thu thập được trong giai đoạn từ khi NHNN ban hành văn bản luật đầu tiên tiếp cận các điều khoản của Basel, tức 1999 đến hết năm 2012. Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về tình hình ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp thu thập số liệu Đề tài được thực hiện chủ yếu dựa trên nguồn số liệu thứ cấp thu thập từ NHNN Việt Nam, Hiệp hội ngân hàng Việt Nam, Tổng cục thống kê, các báo cáo thường niên và báo cáo tài chính của các ngân hàng. Ngoài ra, số liệu được thu thập thêm từ các báo, tạp chí chuyên ngành, Internet,... Phương pháp phân tích số liệu Sử dụng phương pháp so sánh số tương đối và số tuyệt đối để thấy được tình hình ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam giai đoạn 1999-2012. Sử dụng phương pháp thống kê suy luận để đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong việc ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam trong giai đoạn 1999-2012. Sử dụng phương pháp tự luận để đưa những giải pháp thực thi, có tính đồng bồ giúp nâng cao hiệu quả ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam trong tương lai. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU HIỆP ƯỚC VỐN BASEL Đôi nét về ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (BCBS) Vào năm 1974, nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng từ những cuộc khủng hoảng về tiền tệ quốc tế và thị trường ngân hàng, mà đáng quan tâm nhất là sự sụp đổ của ngân hàng Herstatt ở Tây Đức, một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) đã thành lập nên Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision – BCBS) tại thành phố Basel, Thụy Sỹ. Hiện nay, các thành viên của Ủy ban gồm đại diện ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của các 13 nước: Anh, Bỉ, Canada, Đức, Hà Lan, Hoa Kỳ, Luxembourg, Nhật, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ và Ý. Để duy trì và củng cố hoạt động, Ủy ban Basel tổ chức nhóm họp 4 lần trong năm và họp thường niên tại trụ sở Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) tại Washington hoặc tại Thành phố Basel, Thụy Sĩ. Tuy nhiên, để hoạt động hiệu quả và thường xuyên, một Hội đồng thư ký thường trực được đề xuất bởi Ngân hàng Thanh toán Quốc tế ở Basel, gồm 15 thành viên là những nhà giám sát hoạt động ngân hàng chuyên nghiệp được biệt phái tạm thời từ các tổ chức tín dụng tài chính thành viên. Hội đồng thư kí thường trực của Ủy ban có trụ sở làm việc tại Washington DC, Mỹ. Ủy ban Basel không có bất kỳ một cơ quan giám sát nào và những kết luận của Uỷ ban này không có tính pháp lý cũng như yêu cầu tuân thủ đối với việc giám sát hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, Ủy ban Basel báo cáo với thống đốc ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của nhóm G10.Từ đó, tìm kiếm sự hậu thuẫn cho những sáng kiến của Ủy ban. Chính vì vậy, Ủy ban Basel chỉ xây dựng và công bố những tiêu chuẩn và những hướng dẫn giám sát rộng rãi, đồng thời giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất trong kỳ vọng rằng các tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng rộng rãi thông qua những sắp xếp chi tiết phù hợp nhất cho hệ thống quốc gia của chính họ. Theo cách này, Ủy ban khuyến khích việc áp dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn chung mà không cố gắng can thiệp vào các kỹ thuật giám sát của các nước thành viên. Quan điểm của Ủy ban Basel là sự yếu kém trong hê thống Ngân hàng của một quốc gia dù là phát triển hay đang phát triển, đều có thể đe dọa không chỉ đến sự ổn định về tài chính của quốc gia đó mà còn cả trên phạm vi toàn thế giới. Ủy ban Basel thường xuyên tổ chức các cuộc thảo luận về vấn đề xoay quanh sự hợp tác quốc tế để giảm bớt khoảng cách trong công tác giám sát ngân hàng, nâng cao chất lượng công tác giám sát hoạt động ngân hàng trên toàn thế giới. Để làm được điều này, Ủy ban Basel đã cố gắng tìm hiểu và thực hiện được 3 điều cơ bản: (1) Trao đổi thông tin về hoạt động giám sát cấp quốc gia. (2) Cải thiện hiệu quả kỹ thuật giám sát hoạt động ngân hàng quốc tế. (3) Đặt ra những tiêu chuẩn giám sát tối thiểu trong những lĩnh vực ma Ủy ban thực sự quan tâm. Lịch sử vắn tắt quá trình hình thành các Basel Vào những năm 1980, khi hệ thống NHTM trên thế giới phát triển mạnh mẽ cũng là lúc việc cạnh tranh không lành mạnh và công bằng giữa các ngân hàng diễn ra ngày càng phổ biến. Để giải quyết vấn đề này, lãnh đạo các nước phát triển đã tìm giải pháp thích hợp vừa khuyến khích cạnh tranh công bằng giữa các ngân hàng vừa đảm bảo an toàn cho người gửi tiền. Giải pháp ấy chính là giới thiệu Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I. Basel là yêu cầu về an toàn vốn do các ngân hàng thuộc các nước nhóm G10 khởi xướng và được Ủy ban Quản lí ngân hàng thuộc ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) ban hành lần đầu tiên vào năm 1988 và có hiệu lực từ 1992. Basel I cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8%. Basel I không chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà còn được phổ biến ở hầu hết các nước khác có các ngân hàng hoạt động quốc tế. Năm 1996, Basel I được sửa đổi bằng việc bổ sung thêm rủi ro thị trường (được thực thi chậm nhất vào ngày 1/1/1998). Tuy vậy, Hiệp ước vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng 6/1999, Uỷ ban Basel đã đề xuất một khung Hiệp ước vốn mới với chương trình tư vấn lần thứ nhất (First Consultative Package – CP1). Sau đó, chương trình tư vấn này được diễn ra lần thứ hai và ba lần lượt vào tháng 1/2001 và tháng 4/2003. Mãi đến quý 4/2003, phiên bản mới của Hiệp ước vốn (Basel II) được hoàn thiện với khung đo lường mới gồm 3 trụ cột chính: (i) yêu cầu ốn tối thiểu trên cơ sở kế thừa Basel I; (ii) Sự xem xét giám sát của quá trình đánh giá nội bộ và sự đủ vốn của các tổ chức tài chính; (iii) sử dụng hiệu quả của việc công bố thông tin nhằm làm lành mạnh kỷ luật thị trường như là một sự bổ sung cho các nỗ lực giám sát. Tháng 1/2007, Basel II có hiệu lực. Năm 2010, chấm dứt quá trình chuyển đổi Basel I và II. Nội dung cơ bản của các Basel Nội dung cơ bản của Basel I Nhằm chuẩn mực hóa hoạt động ngân hàng trong trào lưu toàn cầu hóa,Uỷ ban Basel đã xây dựng chỉ tiêu đánh giá mức độ an toàn và hiệu quả trong hoạt động ngân hàng. Tiêu chí đầu tiên đánh giá khả năng tham gia vào thị trường vốn quốc tế là mức độ tuân thủ chỉ tiêu an toàn vốn tối thiểu, đây là nội dung nền tảng của Basel I. Ngoài ra, Ủy ban Basel còn đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế chung nhất về vốn của ngân hàng.Theo đó, vốn của ngân hàng được chia làm 2 cấp là vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Trong đó, vốn cấp 1 bao gồm vốn cổ phần thường và các khoản dự trữ công khai. Vốn cấp 2 bao gồm các khoản dự trữ không công khai, giá trị tăng thêm của việc đánh giá lại tài sản, dự phòng chung và dự phòng tổn thất tín dụng, các công cụ nợ cho phép chuyển đổi thành cổ phiếu và các khoản nợ thứ cấp. Như vậy, tổng vốn cấp 1 và cấp 2 chính là vốn tự có hay vốn cơ bản của tổ chức tín dụng. Dựa trên cách tính vốn tự có này, Basel 1 đưa ra chỉ tiêu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) mà đối tượng ban đầu là những ngân hàng hoạt động quốc tế, nhưng sau này đã được thực thi trên hơn 100 quốc gia. Công thức tính như sau: CAR = [(Vốn tự có hay vốn cơ bản) / (Tài sản đã điều chỉnh rủi ro)] * 100%. Trong đó: Tài sản đã điều chỉnh rủi ro (RWA) = Tổng (Tài có nội bảng x Hệ số rủi ro) + Tổng (Tài sản ngoại bảng x Hệ số chuyển đổi x Hệ số rủi ro) Tuy nhiên, thời đó, các nhà hoạch định chính sách của ngân hàng trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước mới chỉ nhìn nhận ra một số vấn đề nên Basel I có những hạn chế nhất định. Thứ nhất, Basel I chỉ đề cập đến những rủi ro về tín dụng chứ chưa đề cập đến các rủi ro khác như rủi ro hoạt động, rủi ro hệ thống, rủi ro thanh khoản,…Thứ hai, Basel I không phân biệt theo loại rủi ro. Nghĩa là, một khoản nợ đối với tổ chức xếp hạng AAA được coi như một khoản nợ đối với tổ chức xếp hạng B. Điều này chỉ ra rằng có thể các ngân hàng có cùng tỷ lệ an toàn vốn nhưng sẽ đối mặt với các loại rủi ro khác nhau, ở mức độ khác nhau. Thứ ba, Basel I chưa tính đến lợi ích của đa dạng hóa hoạt động. Các lí thuyết về đầu tư chỉ ra rủi ro sẽ giảm thông qua đa dạng hóa danh mục đầu tư. Tuy nhiên, theo Basel I, quy định về vốn tối thiểu không khác biệt giữa một ngân hàng có hoạt động kinh doanh đa dạng (ít rủi ro hơn) và một ngân hàng kinh doanh tập trung (nhiều rủi ro hơn); một khoản nợ riêng lẻ yêu cầu một lượng vốn giống như một danh mục đầu tư được đa dạng hóa với cùng một giá trị. Thứ tư, một số quy tắc do Basel I đưa ra chỉ có thể vận dụng trong trường hợp ngân hàng hoạt động theo kiểu ngân hàng đơn, không dựa trên một sự sáp nhập hay hoạt động theo kiểu tập đoàn ngân hàng, ngân hàng mẹ, ngân hàng – chi nhánh,… Nội dung cơ bản của Basel II Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm 1996 vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Để khắc phục những hạn chế này, tháng 6/1999, Uỷ ban Basel đã đề xuất khung đo lường mới. Đến ngày 26/6/2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn Basel mới (Basel II) đã chính thức được ban hành gồm 3 trụ cột chính. Theo đó, trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Tỷ lệ vốn bắt buộc tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy nhiên, rủi ro được tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro tác nghiệp (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So với Basel I, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị trường có sự thay đổi nhỏ, nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro tác nghiệp. Trọng số rủi ro của Basel II bao gồm nhiều mức (từ 0%-150% hoặc hơn) và rất nhạy cảm với xếp hạng. Đối với trụ cột thứ II, các ngân hàng cần phải đánh giá một cách đúng đắn về những loại rủi ro mà họ đang phải đối mặt và đảm bảo rằng những giám sát viên sẽ có thể đánh giá được tính đầy đủ của những biện pháp đánh giá này. Ngoài ra, trụ cột thứ II còn liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những công cụ tốt hơn so với Basel I. Trụ cột này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, gồm rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro pháp lý, rủi ro thanh khoản, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk). Với cột trụ này, Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát: (1) Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn của họ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó; (2) Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá lại quy trình đánh giá về mức vốn nội bộ cũng như về các chiến lược của ngân hàng. Họ cũng phải có khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu. Theo đó, giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình này; (3) Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định; (4) Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu. Trụ cột thứ ba, các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo nguyên tắc thị trường. Với cột trụ này, Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này. Như vậy, quá trình phát triển của Basel mà BCBS đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro. Tuy nhiên, dù được coi như một cơ chế quan trọng để đẩy mạnh cải cách và củng cố toàn bộ công tác điều hành trong lĩnh vực tài chính, nhưng cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại đã cho thấy những thiếu sót, bất cập của Basel II. Thứ nhất, việc áp dụng các phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến chưa có các tiêu chuẩn có thể được chấp nhận rộng rãi. Thứ hai, các phương pháp giám sát, đánh giá rủi ro chưa tính đến các hoạt động của chu kỳ kinh doanh. Thứ ba, các cơ quan quản lý chưa theo kịp tốc độ phát triển mạnh mẽ những sản phẩm dịch vụ có khoa học công nghệ cũng như mức độ rủi ro cao. Nội dung cơ bản của Basel III Để đối phó với những thiếu sót trong các qui định của Basel II, đồng thời nỗ lực ngăn chặn sự tái diễn của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, BCBS đã phát triển Hiệp ước vốn Basel II thành Hiệp ước vốn Basel III với những quy định nghiêm ngặt hơn dành cho 27 ngân hàng thành viên. Như vậy, mục tiêu gói cải cách của BCBS là nhằm cải thiện khả năng của lĩnh vực ngân hàng để hấp thụ những cú sốc phát sinh từ sự căng thẳng tài chính và kinh tế, bất kể nguồn gốc, do đó giảm nguy cơ khủng hoàng tràn từ khu vực tài chính cho các nền kinh tế. Basel III với nhiều đề xuất mới về vốn, đòn bẩy và các tiêu chuẩn về tính thanh khoản để củng cố các quy định, giám sát và quản lý rủi ro của ngành ngân hàng. Các tiêu chuẩn vốn và các vùng đệm vốn mới sẽ đòi hỏi các ngân hàng giữ vốn nhiều hơn và chất lượng cao hơn so với mức vốn theo quy định hiện hành Basel II. Các đòn bẩy mới và tỷ lệ tính thanh khoản giới thiệu một biện pháp phi rủi ro nhằm bổ sung các yêu cầu về vốn tối thiểu dựa trên rủi ro và các biện pháp để đảm bảo đủ kinh phí được duy trì trong trường hợp xảy ra khủng hoảng. Cụ thể,. Basel III cũng quy định đối với tất cả các khoản vay có mức độ rủi ro cao cần phải đạt hệ số rủi ro cao nhất là 150% (nghĩa là khi ngân hàng tính toán tài sản có rủi ro sẽ nhân với 1.5 ) Tóm tắt các thay đổi: (1) Thứ nhất, chất lượng, tính nhất quán, và tính minh bạch của nguồn vốn cơ sở sẽ được nâng lên. Trong đó, chủ yếu của vốn cấp 1 là phải bao gồm vốn cổ phần thường và lợi nhuận giữ lại. Hệ số tỷ  lệ an toàn vốn tối thiểu vẫn được giữ ở mức 8% nhưng yêu cầu vốn vốn cấp I  phải đạt  6% trên 8% đó.  Đáng chú ý là trong 6% vốn cấp I đó phải có 4.5% là vốn của các cổ đông thông thường. Thời hạn để thực hiện riêng quy định này là ngày 1/1/2015, với một lộ trình rõ ràng và chi tiết hơn. Lộ trình để thực hiện Basel III bắt đầu từ tháng 1/2013 và hoàn thành vào cuối năm 2018. Ngoài ra, các công cụ vốn cấp 2 sẽ được cân đối hài hòa và vốn cấp 3 sẽ được loại bỏ. (2) Thứ hai, mức vốn để bảo đảm các rủi ro phát sinh sẽ được tăng cường: Tăng cường các yêu cầu về vốn cho các khoản tín dụng với khách hàng phát sinh, các nghiệp vụ bảo đảm cho các khoản vay, chứng khoán phái sinh và các giao dịch tài chính. Đồng thời, nâng cao vốn dự phòng cho các rủi ro, giảm các chu kỳ và cung cấp các ưu đãi bổ sung để di chuyển các hợp đồng phái sinh trên thị trường tự do đến các giao dịch ngoại hối tại Ngân hàng (trung tâm thanh toán bù trừ). Cung cấp ưu đãi để tăng cường quản lý rủi ro tín dụng đối ứng. (3) Thứ ba, Ủy ban sẽ đưa ra một tỷ lệ đòn bẩy là một biện pháp bổ sung cho khung rủi ro được thiết lập ở Basel II. Do đó, Ủy ban đang trình bày một yêu cầu tỷ lệ đòn bẩy nhằm đạt được các mục tiêu. Một là, xây dựng thêm lớp thứ hai cho đòn bẩy trong lĩnh vực Ngân hàng. Hai là, đề xuất biện pháp bảo vệ bổ sung chống lại rủi ro mô hình và sai số đo bằng cách bổ sung biện pháp chống rủi ro, một biện pháp đơn giản là dựa trên rủi ro tổng thể. (4) Thứ tư, Ủy ban đang đề xuất một loạt các biện pháp thúc đẩy xây dựng các vùng đệm vốn trong thời điểm tốt và có thể được rút ra khi trong thời kỳ căng thẳng ("Giảm chu kỳ và thúc đẩy các bộ đệm phản chu kỳ"). ( 5) Thứ năm, Ủy ban đang triển khai một tiêu chuẩn quốc tế về tính thanh khoản tối thiểu cho hoạt động ngân hàng quốc tế bao gồm một yêu cầu tỷ lệ thanh khoản đảm bảo trong 30 ngày được củng cố bằng một tỷ lệ cấu trúc thanh khoản dài hạn được gọi là Tỷ lệ dự phòng bình ổn. Uỷ ban cũng đang xem xét lại nhu cầu vốn bổ sung, thanh khoản hoặc các biện pháp giám sát khác để làm giảm yếu tố ngoại tác được tạo ra bởi các tổ chức quan trọng được thành lập có hệ thống.Vào tháng 9/2010, Basel III định mức yêu cầu tỷ lệ là: 7-9,5% (4,5%- 2,5% (bảo tồn vùng đệm), + 0-2,5% (theo thời kỳ đệm)) cho cổ phần phổ thông và 8,5-11% cho Vốn cấp 1 và 10,5-13 cho tổng số vốn. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG CÁC BASEL TẠI VIỆT NAM Về phía cơ quan quản lý nhà nước NHNN Việt Nam và các TCTD Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện hệ thống pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng cũng như nâng cao năng lực quản trị điều hành, đặc biệt là năng lực quản trị rủi ro của các NHTM, tiến dần từng bước đến các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Trong đó, NHNN là cơ quan ban hành các văn bản luật cập nhật các điều khoản của Basel mà cách tiếp cận phù hợp với tình
Luận văn liên quan