Chuyên đề Phân tích tình hình xuất khẩu lao động Việt Nam sang một số nước châu Á

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Ngày nay với nền kinh tế phát triển theo hướng toàn cầu hóa, việc người lao động ra nước ngoài làm việc theo một tổ chức hay cá nhân tự tìm kiếm việc làm là hiện tượng phổ biến như một tất yếu của xã hội. Giải quyết việc làm thông qua xuất khẩu lao động đã trở thành một lĩnh vực hoạt động đem lại lợi ích kinh tế - xã hội quan trọng cho nhiều quốc gia. Nhất là trong giai đoạn hiện nay khi giải quyết vấn đề việc làm và thất nghiệp đang là một bài toán hóc búa đối với các nền kinh tế. Vì vậy tìm kiếm mọi biện pháp nhằm giải quyết vấn đề việc làm nói chung, xuất khẩu lao động nói riêng đều đang được Chính phủ các nước đang phát triển chú trọng. Ở Việt Namvới số dân gần 86 triệu người, trong đó lực lượng lao động chiếm 60%, tỷ lệ thất nghiệp khoảng 4.66% (2009) lực lượng lao động nên sức ép của tình trạng thiếu việc làm là rất lớn. Vấn đề giải quyết việc làm không chỉ được thực hiện ở thị trường trong nước mà phải chú trọng đến thị trường ngoài biên giới. Chính vì thế, Chính phủ đã có những đánh giá đúng tầm quan trọng của công tác xuất khẩu lao động trong vấn đề giải quyết việc làm, từ đó đã có những định hướng đúng đắn: "Đẩy mạnh dịch vụ xuất khẩu lao độngvà các dịch vụ thu ngoại tệ khác với sự tham gia của các thành phần kinh tế". Trong thực tế những năm gần đây, xuất khẩu lao độngđem lại nguồn thu ngoại tệ khá lớn, tuy nhiên cũng đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Để nâng cao hiệu quả cũng như hạn chế những khó khăn về hoạt động xuất khẩu lao động, em chọn đề tài Phân tích tình hình xuất khẩu lao động Việt Nam sang một số nước Châu Á cụ thể là Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản giai đoạn 2007 – 2009. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: 2.1. Mục tiêu chung: Phân tích thực trạng xuất khẩu lao động ở Việt Nam. Đồng thời, đề ra những biện pháp nhằm giải quyết vấn đề việc làm thông qua xuất khẩu lao động. 2.2. Mục tiêu cụ thể: - Phân tích thực trạng của việc xuất khẩu lao động Việt Nam sang một số nước Châu Á cụ thể là Đài Lan, Malaysia, Hàn Quốc và Nhật Bản - Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, đe dọa trong hoạt động xuất khẩu - Đề ra một số biện pháp tăng cường xuất khẩu lao động Việt Nam sang các nước Châu Á nhằm giải quyết vấn đề việc làm. 3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: 3.1. Giới hạn không gian: Việc nghiên cứu chỉ phân tích tình hình xuất khẩu lao động Việt Nam sang các nước Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản. 3.2. Giới hạn thời gian: Nghiên cứu thực trạng xuất khẩu lao động Việt Nam sang các nước Châu Á giai đoạn 2007 – 2009. 3.3. Giới hạn nội dung: Vấn đề quan tâm là phân tích thực trạng xuất khẩu lao động Việt Nam sang các nước Châu Á (Đài Loan, Maylasia, Nhật Bản, Hàn Quốc) giai đoạn 2007 – 2009 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 4.1. Phương pháp thu thập số liệu: Số liệu thứ cấp được lấy từ các nguồn: các đề án, báo cáo, các trang web trên internet 4.2. Phương pháp phân tích: - Mục tiêu 1: sử dụng phương pháp thống kê mô tả để mô tả thực trạng xuất khẩu lao động Việt Nam sang các nước Châu Á - Mục tiêu 2: phương pháp phân tích so sánh - Mục tiêu 3: tổng hợp các đánh giá làm nền tảng đề ra một số biện pháp nhằm giải quyết vấn đề việc làm thông qua xuất khẩu lao động

doc24 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4976 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích tình hình xuất khẩu lao động Việt Nam sang một số nước châu Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN GIỚI THIỆU LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Ngày nay với nền kinh tế phát triển theo hướng toàn cầu hóa, việc người lao động ra nước ngoài làm việc theo một tổ chức hay cá nhân tự tìm kiếm việc làm là hiện tượng phổ biến như một tất yếu của xã hội. Giải quyết việc làm thông qua xuất khẩu lao động đã trở thành một lĩnh vực hoạt động đem lại lợi ích kinh tế - xã hội quan trọng cho nhiều quốc gia. Nhất là trong giai đoạn hiện nay khi giải quyết vấn đề việc làm và thất nghiệp đang là một bài toán hóc búa đối với các nền kinh tế. Vì vậy tìm kiếm mọi biện pháp nhằm giải quyết vấn đề việc làm nói chung, xuất khẩu lao động nói riêng đều đang được Chính phủ các nước đang phát triển chú trọng. Ở Việt Namvới số dân gần 86 triệu người, trong đó lực lượng lao động chiếm 60%, tỷ lệ thất nghiệp khoảng 4.66% (2009) lực lượng lao động nên sức ép của tình trạng thiếu việc làm là rất lớn. Vấn đề giải quyết việc làm không chỉ được thực hiện ở thị trường trong nước mà phải chú trọng đến thị trường ngoài biên giới. Chính vì thế, Chính phủ đã có những đánh giá đúng tầm quan trọng của công tác xuất khẩu lao động trong vấn đề giải quyết việc làm, từ đó đã có những định hướng đúng đắn: "Đẩy mạnh dịch vụ xuất khẩu lao độngvà các dịch vụ thu ngoại tệ khác với sự tham gia của các thành phần kinh tế". Trong thực tế những năm gần đây, xuất khẩu lao độngđem lại nguồn thu ngoại tệ khá lớn, tuy nhiên cũng đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Để nâng cao hiệu quả cũng như hạn chế những khó khăn về hoạt động xuất khẩu lao động, em chọn đề tài Phân tích tình hình xuất khẩu lao động Việt Nam sang một số nước Châu Á cụ thể là Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản giai đoạn 2007 – 2009. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: Mục tiêu chung: Phân tích thực trạng xuất khẩu lao động ở Việt Nam. Đồng thời, đề ra những biện pháp nhằm giải quyết vấn đề việc làm thông qua xuất khẩu lao động. Mục tiêu cụ thể: - Phân tích thực trạng của việc xuất khẩu lao động Việt Nam sang một số nước Châu Á cụ thể là Đài Lan, Malaysia, Hàn Quốc và Nhật Bản - Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, đe dọa trong hoạt động xuất khẩu - Đề ra một số biện pháp tăng cường xuất khẩu lao động Việt Nam sang các nước Châu Á nhằm giải quyết vấn đề việc làm. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Giới hạn không gian: Việc nghiên cứu chỉ phân tích tình hình xuất khẩu lao động Việt Nam sang các nước Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản. Giới hạn thời gian: Nghiên cứu thực trạng xuất khẩu lao động Việt Nam sang các nước Châu Á giai đoạn 2007 – 2009. Giới hạn nội dung: Vấn đề quan tâm là phân tích thực trạng xuất khẩu lao động Việt Nam sang các nước Châu Á (Đài Loan, Maylasia, Nhật Bản, Hàn Quốc) giai đoạn 2007 – 2009 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Phương pháp thu thập số liệu: Số liệu thứ cấp được lấy từ các nguồn: các đề án, báo cáo, các trang web trên internet Phương pháp phân tích: Mục tiêu 1: sử dụng phương pháp thống kê mô tả để mô tả thực trạng xuất khẩu lao động Việt Nam sang các nước Châu Á Mục tiêu 2: phương pháp phân tích so sánh Mục tiêu 3: tổng hợp các đánh giá làm nền tảng đề ra một số biện pháp nhằm giải quyết vấn đề việc làm thông qua xuất khẩu lao động PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Một số khái niệm về hoạt động xuất khẩu lao động: Nguồn lao động: Là nguồn lực về con người bao gồm số lượng dân cư trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động. Nguồn lao động là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về vật chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Nguồn lao động bao gồm những người từ độ tuổi lao động trở lên (ở nước ta là từ 15 tuổi trở lên). Lao động: Là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi các vật thể tự nhiên phù hợp với lợi ích của mình. Lao động là sự vận dụng sức lao động trong quá trình tạo ra của cải vật chất, là quá trình kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất. Xuất khẩu lao động: Xuất khẩu lao động: (Export of Labour) là hoạt động kinh tế của một quốc gia thực hiện việc cung ứng lao động cho một quốc gia khác trên cơ sở những hiệp định hoặc hợp đồng có tính chất pháp quy được thống nhất giữa các quốc gia đưa và nhận lao động. Lao động xuất khẩu: (Labour Export), là bản thân người lao động, có những độ tuổi khác nhau, sức khỏe và kỹ năng lao động khác nhau, đáp ứng được những yêu cầu của nước nhập khẩu lao động. Trong nền kinh tế thị trường, xuất khẩu lao độnglà một hoạt động kinh tế đối ngoại, mang đặc thù của xuất khẩu nói chung. Thực chất xuất khẩu lao độnglà một hình thức di cư quốc tế. Tuy nhiên, đây chỉ là sự di cư tạm thời và hợp pháp. Thị trường lao động quốc tế: Thị trường lao động: một bộ phận cấu thành của hệ thống thị trường trong nền kinh tế thị trường phát triển. Ở đó diễn ra quá trình thoả thuận, trao đổi, thuê mướn lao động giữa hai bên, bên sử dụng và bên cho thuê lao động. Thị trường lao động trong nước: một loại thị trường, trong đó mọi lao động đều có thể tự do di chuyển từ nơi này đến nơi khác, nhưng trong phạm vi biên giới của một quốc gia. Thị trường lao động quốc tế: một bộ phận cấu thành của hệ thống thị trường thế giới, trong đó lao động từ nước này có thể di chuyển từ nước này sang nước khác thông qua Hiệp định, các Thoả thuận giữa hai hay nhiều quốc gia trên thế giới. Đặc điểm của xuất khẩu lao động: Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế đồng thời cũng là hoạt động mang tính xã hội cao. Xuất khẩu lao động là một hoạt động mang tính cạnh tranh mạnh. Không có sự giới hạn theo không gian đối với hoạt động xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động thực chất cũng là việc mua - bán một loại hàng hoá đặc biệt vượt ra phạm vi biên giới quốc gia. Các hình thức xuất khẩu lao động: Có 2 hình thức xuất khẩu lao động Thứ nhất là hình thức đưa lao động ra nước ngoài làm việc nhằm thu hút ngoại tệ về nước Thứ hai là hình thức lao động sống ngay tại nước sở tại, nhưng cung cấp sức lao động tạo ra giá trị cho nước ngoài, còn gọi là xuất khẩu lao động tại chỗ. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ xin đề cập đến loại hình xuất khẩu lao động thứ nhất. Cung ứng lao động theo các hợp đồng cung ứng lao động đã ký kết với bên nước ngoài Đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng nhận thầu, khoán công trình ở nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài. Lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động giữa cá nhân người lao động với người sử dụng lao động nước ngoài. Vai trò của xuất khẩu lao độngvới sự phát triển KT - XH của Việt Nam: Lợi ích về mặt kinh tế: Xuất khẩu lao động đã được các Nghị định của Đảng và Chính phủ nhiều lần đề cập. Nhiều nước trên thế giới coi trọng xuất khẩu lao động, xuất khẩu lao động vừa ích nước vừa lợi nhà, vì nó là mong muốn không chỉ của Chính phủ mà là của mọi người lao động. Trên góc độ lợi ích kinh tế, hoạt động xuất khẩu lao động được xem xét theo 3 chủ thể tham gia đó là Người lao động, Doanh nghiệp xuất khẩu lao động và Nhà nước. - Lợi ích của người lao động: Người lao động đi làm ở nước ngoài bình quân thu nhập bằng 10 - 15 lần so với thu nhập trong nước. Với số tiền tích luỹ được, nhiều người lao động không chỉ xóa được nghèo mà còn có khả năng đầu tư vào sản xuất kinh doanh, phát triển sản xuất, ổn định kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm mới góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động khác khi tái hòa nhập cộng đồng. - Lợi nhuận của Doanh nghiệp xuất khẩu lao động: Doanh nghiệp xuất khẩu lao độnglà nơi tạo ra lợi ích cho người lao động và hiệu quả kinh tế quốc dân cho Nhà nước. Thông thường, khi hoàn thành tổ chức xuất khẩu lao động nhận được một khoản chi phí dịch vụ từ tiền lương cơ bản của người lao động khoản từ 10 - 18% tuỳ theo ngành nghề. - Lợi ích của Nhà nước: xuất khẩu lao động được coi là một hướng giải quyết việc làm cho người lao động và thu ngoại tệ về cho đất nước. Doanh thu từ xuất khẩu lao động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của những đơn vị hoạt động ở lĩnh vực này. Theo báo cáo của một số doanh nghiệp tỷ suất lợi nhuận bình quân trên doanh thu của hoạt động xuất khẩu lao động đạt khoảng 15 - 20%. Lợi ích về mặt xã hội: Xuất khẩu lao động đã tạo việc làm cho hàng vạn người lao động, góp phần giải quyết việc làm cho toàn xã hội đặc biệt là lực lượng thanh niên, giải quyết tình trạng ứ đọng lao động, giải quyết về sức ép việc làm cho đất nước, giảm được các tệ nạn xã hội do người lao động không có việc làm gây nên " nhàn cư vi bất thiện". Người lao động đi làm việc ở nước ngoài được nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngữ, tiếp thu được những công nghệ tiên tiến, tác phong làm việc công nghiệp, hình thành nên đội ngũ lao động có trình độ tay nghề chuyên môn cao, đây là điều kiện để đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước khi họ trở về. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VIỆT NAM SANG MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á GIAI ĐOẠN 2007 – 2009 Tình hình lao động và việc làm Việt Nam giai đoạn 2007 – 2009: 1.1 Đặc điểm cơ bản của lao động Việt Nam: Với tỷ lệ tăng dân số bình quân/năm giữa 2 cuộc Tổng điều tra năm 1999 và 2009 là 1,2%/năm, so với thời kỳ 10 năm trước (1989-1999), mỗi năm tăng gần 1,2 triệu người (với tỷ lệ tăng hàng năm là 1,7%/năm), Việt Nam là một nước có nguồn nhân lực dồi dào, đứng thứ 12 trên thế giới và đứng thứ 2 trong khối ASEAN. Theo dự báo dân số nước ta sẽ còn tăng tới 100 triệu người vào năm 2020 với tốc độ tăng dân số hầu như không đổi. Theo kết quả khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu thị trường lao động, Đại học Leicester (CLMS), kết hợp với VCCI và Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), thì 3,5% lực lượng lao động nằm trong độ tuổi 16 - 18 và 39% trong độ tuổi 19 - 25. Điều này có nghĩa là một bộ phận lớn lực lượng lao động Việt Nam là lao động trẻ. Nhưng theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố ngày 30/6/2009 chỉ có gần 15% lao động trẻ Việt Namđược đào tạo và hầu như rất ít lao động có tay nghề cao. Vì vậy, để có thể sử dụng triệt để ưu thế về lao động, Việt Nam cần phải xem xét và thực hiện công tác đào tạo cho người lao động càng sớm càng tốt. 1.2 Lợi thế so sánh về quy mô và chất lượng nguồn nhân lực. Trình độ học vấn và dân trí của nguồn nhân lực cao, tỷ lệ dân số biết chữ chiếm 93%. Riêng lực lượng lao động biết chữ chiếm khoảng 97% tổng lực lượng lao động. Theo Báo cáo phát triển con người tháng 10/2009 của Liên Hợp quốc chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam vào loại trung bình với chỉ số là 0,733 và xếp thứ 116/182. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có xu hướng tăng lên. Trong 3 năm (1996-1998) bình quân hàng năm lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật tăng 6,18%. Đến năm 2009 số lao động đã qua đào tạo là 20%, tỷ lệ này càng tăng lên trong những năm tới. 1.3 Hạn chế về khả năng cạnh tranh của lao động Việt Nam ở nước ngoài và sức ép về việc làm trong nước: a) Sức cạnh tranh của hàng hóa sức lao động Việt Nam còn kém hơn các nước khác. Sức khỏe của lao động Việt Nam chưa đủ đáp ứng yêu cầu của một số ngành nghề như đi biển, công nghiệp xây dựng. Tỷ lệ lao động qua đào tạo rất thấp, trong số 21,2 triệu lao động nông nghiệp trong độ tuổi lao động trên cả nước, có 20,7 triệu người (chiếm 97,65%) chưa qua đào tạo và không có chứng chỉ chuyên môn; người có bằng sơ cấp, công nhân kỹ thuật chiếm 1,26%; bằng trung cấp chiếm 0,87%; tỷ lệ lao động có bằng CĐ, ĐH chỉ chiếm 0,22% (trong khi tỷ lệ lao động qua đào tạo ở Hàn Quốc là 48%; Nhật Bản: 64,4%; Thái Lan: 58,2%). Cơ cấu đào tạo giữa đại học, cao đẳng, trung học và công nhân kỹ thuật rất bất hợp lý. Hiện là 1 -1,6 - 3,6; (các nước khác là 1-4-10). Còn theo đánh giá của Tổ chức BERI về sức cạnh tranh của lao động theo thang điểm 100, thì Việt Nam mới đạt 45 điểm về khung pháp lý, 20 điểm về năng suất lao động, 40 điểm về thái độ lao động, 16 điểm về kỹ năng lao động và 32 điểm về chất lượng lao động. So với 59 nước, Việt Nam đứng thứ 48 . Lao động tuy cần cù, tiếp thu nhanh khoa học kỹ thuật và công nghệ, có khả năng sáng tạo, song tính kỷ luật còn yếu, tác phong và văn hoá công nghiệp còn thấp (40 điểm/100 như đã nói ở trên). b) Sức ép về việc làm trong nước: Dân số trẻ về lâu dài là một thế mạnh, song trước mắt sẽ bất lợi về kinh tế, do bình quân số người phải nuôi dưỡng (trẻ em) trên một lao động cao hơn các nước khác, gây trở ngại trong việc giải quyết việc làm và làm quá tải hệ thống giáo dục, y tế, cũng như các dịch vụ xã hội khác. Số dân trong độ tuổi lao động ở Việt Nam vẫn đang có xu hướng tăng. Theo dự báo, năm 2000 chiếm khoảng 55%, đến năm 2005 chiếm khoảng 59,1% và năm 2010 chiếm khoảng 60,7% dân số, làm cho sức ép về việc làm càng trở nên gay gắt. Thực trạng xuất khẩu lao động Việt Nam giai đoạn 2007 – 2009: Nếu trong giai đoạn 1980-1990 nước ta chủ yếu có quan hệ hợp tác lao động với các nước XHCN, lao động xuất khẩu chủ yếu tới các quốc gia thuộc khu vực Đông Âu cũ, Irac và một vài nước Châu Phi. Giai đoạn 1991 đến nay hoạt động xuất khẩu của ta đã mở rộng ra nhiều quốc gia tại nhiều châu lục khác nhau. Tuy rằng, thị trường lao động nước ngoài đang có những biến động bất lợi, nhưng không có nghĩa là đóng cửa đối với lao động Việt Nam. Một số thị trường trọng điểm như Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia, Bắc Phi, Trung Đông và đặc biệt là thị trường lao động trên biển đang rất tiềm tàng, hàng năm thu hút hàng triệu lao động nước ngoài vào các nhóm ngành nghề: xây dựng, công nghiệp, dịch vụ, vận tải biển, đánh bắt và chế biến hải sản mà chúng ta có khả năng đáp ứng. Hiện tại Việt Nam đã thực hiện xuất khẩu lao động sang tổng số là gần 40 quốc gia/vùng lãnh thổ tương đương với 21% thị phần của Việt Nam trên thị trường xuất khẩu lao động. Như vậy, ta có thể thấy lợi thế một nước đông dân chưa được khai thác triệt để. Thị phần xuất khẩu của Việt Nam trên thế giới  Biểu đồ 1 Nguồn: Dữ kiện thế giới CIA Nếu ta hình dung 193 quốc gia và vùng lãnh thổ là một thị phần lớn tương đương với 100% thì thị phần của Việt Nam chiếm lĩnh trong lĩnh vực xuất khẩu lao động là 40 quốc gia/vùng lãnh thổ, tương đương với 21%. Nhìn trên biểu đồ hình tròn có thể thấy thị phần của Việt Nam chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Điều này đồng nghĩa với việc 79% thị phần còn lại hoặc là đã thuộc về quốc gia khác hoặc là còn để trống. Như vậy cơ hội cho chúng ta còn rất nhiều. Vấn đề là làm thế nào chúng ta giành lại hoặc chiếm lĩnh được 79% thị phần còn lại. Đây thực sự là một câu hỏi khó bởi vấn đề chính để giải quyết cho câu hỏi này lại nằm ở nguồn nhân lực của chúng ta. Từ năm 2006 đến nay, ngành xuất khẩu lao động của Việt Nam đã có những tín hiệu đáng mừng. Tính đến cuối năm 2009, theo số liệu tổng hợp của Cục Quản lý lao động ngoài nước, tổng số lao động xuất khẩu của Việt Nam tại tất cả các thị trường là 73.028 người. Lượng xuất khẩu lao động tại các thị trường Đơn vị: người  2007  2008  2009  Chênh lệch       2008/2007  2009/2008   Nhật Bản  5.517  6.142  5.456  625  -686   Hàn Quốc  12.187  18.141  7.578  5.954  -10.563   Đài Loan  23.640  31.631  21.667  7.991  -9.964   Malaysia  26.704  7.810  2.792  -18.894  -5.018   Khác  5.982  11.355  35.525  5.373  24.170   Tổng  84.625  94.988  73.028  10.363  -21.960   Nguồn: Cục Quản lý lao động ngoài nước Năm 2008 tăng so với năm 2007 là 10.363 người (khoảng 10,9%) và so với 2009 giảm 21.960 người (khoảng 30,07%). Do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ, lượng lao động xuất khẩu năm 2009 đã giảm so với những năm trước. Đặc biệt ở những thị trường xuất khẩu lao động lớn nhất của Việt Nam như Đài Loan tuyên bố giảm 24.000 công nhân và người giúp việc nước ngoài, Hàn Quốc giảm ¾ hạn ngạch lao động nước ngoài, đầu năm 2009 Malaysia cũng tuyên bố cấm nhập khẩu lao động nước ngoài do quá phụ thuộc vào lao động nhập cư. Tuy nhiên, trong bối cảnh nhiều công ty phá sản, nền kinh tế đình trệ thì con số trên đã thể hiện những nỗ lực hết mình của chính phủ và các ban ngành đối với sự phát triển ngành xuất khẩu lao động. Cho đến nay, khủng hoảng kinh tế vẫn còn đang là một rào cản đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam thì ngành xuất khẩu lao động vẫn vươn lên để hoàn thành chỉ tiêu năm 2010 xuất khẩu 85.000 người lao động. Con số này cũng đánh dấu những bước tiến của ngành xuất khẩu lao động trong quá trình nền kinh tế suy thoái. Đó là thành quả của quá trình nỗ lực không ngừng tìm đầu ra cho thị trường lao động nước nhà. Nhưng trong cái được của ngành xuất khẩu lao động của Việt Nam, ta cũng thấy nhiều nhược điểm. Thứ nhất, thị trường lao động của chúng ta chủ yếu tập trung vào một số thị trường cũ như Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc…; trong đó một loạt các thị trường tiềm năng có thu nhập cao khác như Mỹ, Anh, Pháp thì chúng ta vẫn chưa chạm tới được. Nếu có thì cũng chỉ là một vài doanh nghiệp ký kết hợp đồng trực tiếp, còn thực tế thì Việt Nam chưa có một cung chính thức nào. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta mới chỉ đang tìm hiểu các thị trường đó một cách dè dặt, chưa có những chính sách mang tính chiến lược, bứt phá… Thứ hai, lao động của chúng ta xuất khẩu chủ yếu là lao động thủ công, tay nghề chưa cao. Theo báo cáo của Cục Quản lý lao động ngoài nước, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo xuất khẩu đi các nước của nước ta chỉ đạt 20%. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo thấp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng lao động, nguồn thu cho ngân sách và cho chính bản thân người lao động. Yêu cầu lao động của một số thị trường xuất khẩu và khả năng đáp ứng yêu cầu của lao động Việt Nam: 3.1 Đài Loan: Sau 5 năm mở thị trường, Đài Loan đã tiếp nhận trên 80 ngàn lao động Việt Nam, trong đó có gần 16 ngàn người làm việc trong lĩnh vực công xưởng, 2.000 người làm thuyền viên và trên 60 ngàn người làm công việc khán hộ công, giúp việc gia đình. Phần đông lao động Việt Nam được tuyển sang Đài Loan đều làm việc trong những nhà máy vừa và nhỏ. Do đảm trách ở những khâu giản đơn, không đòi hỏi kỹ năng và trình độ tay nghề cao nên thu nhập của họ cũng không cao. Tương tự, lao động giúp việc nhà, khán hộ công của Việt Nam tuy đưa sang với số lượng lớn nhưng tính chuyên nghiệp và kỹ năng nghề nghiệp chưa cao, thị trường Đài Loan đang được người lao động lựa chọn nhiều bởi thị trường này không quá kén chọn lao động, không cần tay nghề cao, chi phí thấp, mức thu nhập khá phù hợp cho lao động nông thôn, với mức lương cơ bản 17.280 Đài tệ - khoảng 10 triệu đồng/tháng. Đài Loan có số lượng hồ sơ xin thẩm định tiếp nhận lao động Việt Nam lớn nhất. Chỉ tính riêng trong tháng 7/2010 đã có 1.426 bộ hồ sơ với số lượng 3.489 lao động, tăng 119 bộ so với tháng 6/2010. Trong đó có 826 bộ hồ sơ (với 2.889 lao động) được các công ty Đài Loan đăng ký tiếp nhận lao động Việt Nam thông qua 47 công ty Việt Nam và 600 hồ sơ theo hình thức tuyển dụng trực tiếp. Đánh giá về lao động Việt Nam, nhiều chủ sử dụng đều có nhận xét tốt về lao động Việt Nam: cần cù, chịu khó, nắm bắt công việc nhanh. Tuy nhiên so với mặt bằng chung của lao động nước ngoài đang làm việc tại đây có tính chuyên nghiệp, có kinh nghiệm cao như Philippines và Thái Lan thì chất lượng lao động của Việt Nam chưa đạt yêu cầu. Do chạy theo hợp đồng, không chuẩn bị nguồn kỹ nên nhiều công ty xuất khẩu lao động của Việt Nam đưa sang đây những lao động không đạt yêu cầu của đối tác. Chẳng những không biết tiếng Hoa, họ còn không biết làm việc, thể lực yếu, tư tưởng dao động. công tác tuyển chọn lao động và giáo dục định hướng cho lao động xuất khẩu cũng chưa tốt, chi phí cho chuyến đi quá lớn, trong đó phí môi giới do phía Đài Loan thu quá cao. Vì muốn kiếm tiền nhanh, trả nợ những khoản vay cho chuyến đi lên đến 4-5 ngàn USD đối với làm việc công xưởng và trên dưới 10 triệu đồng làm khán hộ công, giúp việc nhà, nhiều lao động đã chọn phương án bỏ trốn, bất chấp rủi ro, nguy hiểm. Chính vì lẽ đó các công ty xuất khẩu lao động Việt Nam phải tìm g
Luận văn liên quan