Thẻ là một sản phẩm tài chính cá nhân đa chức năng dựa trên việc ứng 
dụng công nghệ tin học hiện đại, đem lại nhiều tiện ích cho khách hàng. Dịch 
vụ thẻ góp phần tích cực cải thiện văn minh thanh toán, tăng tính cạnh tranh 
của ngân hàng. Phát triển thẻ tín dụng như một mũi nhọn chiến lược trong 
công cuộc hiện đại hoá, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ ngân hàng. Tuy 
nhiên, để có thể phát triển một cách có hiệu quả nhất, giành được lợi thế trong 
cuộc cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ giữa các NHTM đòi hỏi công tác phát 
triển thẻ tín dụng phải có một chiến lược rõ ràng, quy trình chặt chẽ nếu quyết 
định vội vàng sẽ đem lại rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và gây 
thiệt hại cho nền kinh tế, tác động tiêu cực đến môi trường đầu tư, đến uy tín 
của Việt Nam trên thị trường quốc tế. VCB hiện cũng đang kiện toàn công tác 
phát triển thẻ tín dụng nhằm giữ vững thị phần hiện có và tiếp tục thu hút 
lượng khách hàng mới nhưng vẫn còn có rất nhiều hạn chế xuất phát từ các 
nguyên nhân cả từ nội lực và ngoại lực. 
Là sinh viên thực tập tại Phòng Thanh toán Thẻ Sở giao dịch VCB, tôi đã 
lựa chọn đề tài “Phát triển dịch vụ thẻ tín dụng tại Sở Giao dịch Ngân hàng 
thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam” làm chuyên đề thực tập
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 71 trang
71 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3274 | Lượt tải: 6 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển dịch vụ thẻ tín dụng tại sở giao dịch ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
…………..o0o………….. 
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP 
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THẺ TÍN DỤNG TẠI SỞ 
GIAO DỊCH NHTM CP NGOẠI THƯƠNG 
VIỆT NAM 
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 
Trần Linh Chi Ngân hàng 47B 
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Thẻ là một sản phẩm tài chính cá nhân đa chức năng dựa trên việc ứng 
dụng công nghệ tin học hiện đại, đem lại nhiều tiện ích cho khách hàng. Dịch 
vụ thẻ góp phần tích cực cải thiện văn minh thanh toán, tăng tính cạnh tranh 
của ngân hàng. Phát triển thẻ tín dụng như một mũi nhọn chiến lược trong 
công cuộc hiện đại hoá, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ ngân hàng. Tuy 
nhiên, để có thể phát triển một cách có hiệu quả nhất, giành được lợi thế trong 
cuộc cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ giữa các NHTM đòi hỏi công tác phát 
triển thẻ tín dụng phải có một chiến lược rõ ràng, quy trình chặt chẽ nếu quyết 
định vội vàng sẽ đem lại rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và gây 
thiệt hại cho nền kinh tế, tác động tiêu cực đến môi trường đầu tư, đến uy tín 
của Việt Nam trên thị trường quốc tế. VCB hiện cũng đang kiện toàn công tác 
phát triển thẻ tín dụng nhằm giữ vững thị phần hiện có và tiếp tục thu hút 
lượng khách hàng mới nhưng vẫn còn có rất nhiều hạn chế xuất phát từ các 
nguyên nhân cả từ nội lực và ngoại lực. 
Là sinh viên thực tập tại Phòng Thanh toán Thẻ Sở giao dịch VCB, tôi đã 
lựa chọn đề tài “Phát triển dịch vụ thẻ tín dụng tại Sở Giao dịch Ngân hàng 
thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam” làm chuyên đề thực tập. 
2. Bố cục chuyên đề 
 Mở đầu 
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về phát triển dịch vụ thẻ tín dụng 
trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. 
Chương 2: Thực trạng phát triển dịch vụ thẻ tín dụng tại Sở Giao 
dịch Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam. 
Chương 3: Ý kiến đề xuất nhằm phát triển dịch vụ thẻ tín dụng tại 
Sở Giao dịch Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam. 
Kết luận 
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 
Trần Linh Chi Ngân hàng 47B 
CHƯƠNG 1 
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ THẺ TÍN DỤNG TRONG 
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 
1.1. Tổng quan về thẻ tín dụng 
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển thẻ tín dụng 
 Thẻ tín dụng được ra đời tại Mỹ từ những năm đầu của thế kỷ 20 xuất 
phát từ thói quen cho khách hàng mua chịu của các chủ tiệm bán lẻ dựa trên 
uy tín của khách đối với các tiệm này. Thông thường, các chủ tiệm theo dõi 
mỗi khách hàng riêng rẽ, ghi rõ các khoản khách hàng sẽ phải thanh toán và 
chấp nhận cho khách hàng trả tiền sau vì họ tin vào khả năng thanh toán của 
người mua. Tuy nhiên, dần dần, nhiều người trong các chủ tiệm bán hàng hoá 
dịch vụ nhận thấy, họ không có đủ khả năng cho khách hàng nợ và trả sau 
như vậy. Chính yếu tố này đã góp phần giúp các tổ chức tài chính hình thành 
ý tưởng về sản phẩm thẻ. 
 Năm 1914, tổ chức chuyển tiền Western Union của Mỹ lần đầu tiên 
cung cấp cho khách hàng đặc biệt của mình dịch vụ thanh toán trả chậm, công 
ty này phát hành những tấm kim loại có chứa các thông tin in nổi nhằm nhận 
diện, phân biệt khách hàng, cập nhật thông tin tài khoản, giao dịch thực hiện 
của khách hàng. 
 Các tổ chức khác dần nhận ra những giá trị của loại hình dịch vụ nói 
trên của Western Union và chỉ trong vài năm sau đó, rất nhiều đơn vị như nhà 
ga, khách sạn cũng như các cửa hàng trên khắp nước Mỹ đã lựa chọn cung 
cấp dịch vụ trả chậm cho khách hàng theo phương thức của Western Union. 
Trong đó, tập đoàn xăng dầu của Mỹ cho ra đời tấm thẻ mua xăng đầu tiên 
vào năm 1924, cho phép người dân sử dụng thẻ này để mua xăng, dầu tại các 
cửa hàng trên toàn quốc. 
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 
Trần Linh Chi Ngân hàng 47B 
 Vào năm 1950, Frank Mc Namara và Ralph Schneider, hai doanh nhân 
người Mỹ, đồng thành lập ra Diner’s Club sau một lần đi ăn ở nhà hàng và 
quên không mang theo tiền mặt. Chính việc phải cam kết thanh toán sau đã 
gợi nên ý tưởng kinh doanh thẻ đối với Frank MC Namara. Tấm thẻ tín dụng 
đầu tiên, được làm bằng Plastic đã ra đời từ đó. Hai ông đã cung cấp cho bạn 
bè, đồng nghiệp mình thẻ Diner Club, cho phép họ có thể ghi nợ khi ăn, nghỉ 
tại một số nhà hàng, khách sạn ở New York và thanh toán số tiền này định kỳ 
theo tháng mà không giới hạn số tiền được phép chi tiêu. 
 Sau Diner’s Club, năm 1958, công ty American Express cũng tham gia 
vào thị trường thẻ ngân hàng và đã thiết lập thành công tên tuổi của mình 
trong lĩnh vực mới mẻ này. American Express chú trọng phát triển thẻ trong 
lĩnh vực giải trí và du lịch. 
 Đến trước năm 1970, khái niệm về thẻ tín dụng đã được nhiều người 
biết đến và nhanh chóng được đón nhận. Năm 1966, ngân hàng Bank of 
America chính thức trao quyền phát hành thẻ BankAmericard của mình cho 
các ngân hàng khác thông qua việc ký các hợp đồng đại lý, chính thức giai 
đoạn tăng tốc phát triển. Người dân đi du lịch nhiều hơn, trên đất Mỹ và ra 
nước ngoài mà không phải lo lắng tới việc phải có sẵn tiền để thanh toán. Thẻ 
tín dụng lúc này không chỉ mặc định dành cho những đối tượng giàu có và nổi 
tiếng mà dần trở thành một phương tiện thanh toán thông dụng. Thương hiệu 
BankAmericard với một loạt sản phẩm có màu xanh, trắng, vàng đặc trưng 
ngày càng trở nên quen thuộc với người tiêu dùng. Bằng việc ký hợp đồng đại 
lý cho các ngân hàng khác hưởng phí thanh toán chuyển đổi (Interchange 
Fee), Bank of America đã nhanh chóng tăng được lượng thẻ phát hành cũng 
như ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ với các ĐVCNT trên khắp nước Mỹ và 
mở rộng ra thế giới. Tới năm 1977, thẻ của Bank of America thật sự được 
chấp nhận trên toàn cầu và thay vì tên BankAmericard, tên thẻ Visa ra đời với 
màu sắc đặc trưng vẫn là xanh lam, trắng và vàng. 
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 
Trần Linh Chi Ngân hàng 47B 
 Cũng vào năm 1966, 3 nhóm ngân hàng lớn phía đông nước Mỹ quyết 
định hợp tác thành lập tập đoàn kinh doanh tín dụng riêng, có tên là Interbank 
Card Association (ICA). Sau này, tên ICA được chuyển đổi thành 
MasterCard. ICA ban hành các quy định về cấp phép giao dịch, thanh toán bù 
trừ, các biện pháp Marketing, bảo mật và các vấn đề liên quan tới luật pháp 
nhằm vận hành công việc một cách có hiệu quả. 
 Năm 1968, ICA bắt đầu chiến lược mở rộng kinh doanh trên phạm vi 
toàn cầu thông qua việc liên kết với ngân hàng Banco National của Mexico. 
Sau thời gian đó, ICA tìm kiếm đối tác tại thị trường Châu Âu, cho ra đời thẻ 
Eurocard. 
 Cũng vào năm 1968, ICA kết nạp thêm thành viên là một số ngân hàng 
tại Nhật, nhằm từng bước thâm nhập và nắm bắt thị trường Đông á này. Như 
vậy, thẻ tín dụng ra đời từ nhu cầu thanh toán và phát triển dựa trên nền tảng 
công nghệ cũng như chiến lược thay thế tiền mặt trong lưu thông. Thực tế cho 
thấy, thẻ tín dụng là một phát triển tất yếu trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, 
đồng thời đã và đang phản ánh đầy đủ những tiến bộ của khoa học kỹ thuật 
vào văn minh xã hội. Tiếp thu và ứng dụng những thành tựu của thế giới về 
khoa học kỹ thuật, nhất là về công nghệ thông tin, hệ thống thẻ ngày càng 
hoàn thiện. Cùng với mạng lưới thành viên và khách hàng phát triển hàng 
ngày, các TCTQT đã xây dựng hệ thống xử lý giao dịch và trao đổi thông tin 
toàn cầu về phát hành, thanh toán, cấp phép, tra soát, khiếu nại và quản lý rủi 
ro. Với doanh số giao dịch hàng trăm tỷ Đô la Mỹ mỗi năm, thẻ tín dụng đang 
cạnh tranh quyết liệt cùng tiền mặt và séc trong hệ thống thanh toán toàn cầu. 
Đây là thành công đáng kể với một ngành kinh doanh mới chỉ có vài thập kỷ 
hình thành và phát triển. 
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 
Trần Linh Chi Ngân hàng 47B 
1.1.2. Khái niệm và phân loại thẻ tín dụng 
 * Khái niệm 
 Thẻ tín dụng là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, ra đời từ 
phương thức mua bán chịu hàng hoá bán lẻ và phát triển gắn liền với sự ứng 
dụng công nghệ tin học trong lĩnh vực ngân hàng. Thẻ tín dụng là công cụ 
thanh toán do ngân hàng phát hành thẻ cấp cho khách hàng sử dụng thanh 
toán hàng hoá dịch vụ hoặc rút tiền mặt trong phạm vi số dư tiền gửi của 
mình hoặc hạn mức tín dụng được cấp. Thẻ tín dụng còn dùng để thực hiện 
các dịch vụ thông qua hệ thống giao dịch tự động hay còn gọi là hệ thống tự 
phục vụ ATM. 
 Theo “ Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng” ban 
hành kèm theo quyết định số 371/1999 QĐ/NHNN ngày 19 tháng 10 năm 
1999 thì “thẻ tín dụng là công cụ thanh toán do Ngân hàng phát hành cấp cho 
khách hàng sử dụng theo hợp đồng ký kết giữa ngân hàng phát hành thẻ và 
chủ thẻ”.[3] 
 Thẻ tín dụng được làm bằng Plastic theo kích cỡ tiêu chuẩn quốc tế và 
bao gồm các yếu tố: nhãn hiệu thương mại của thẻ, tên là logo của nhà phát 
hành thẻ, số thẻ, ngày hiệu lực và tên của chủ thẻ. Ngoài ra trên thẻ còn có thể 
có tên công ty phát hành thẻ hoặc thêm một số yếu tố khác theo tiêu chuẩn 
của Tổ chức hoặc tập đoàn thẻ quốc tế... 
 Thẻ tín dụng (Credit card) là phương thức thanh toán không dùng tiền 
mặt, cung cấp cho người sử dụng khả năng chi tiêu trước trả tiền sau. Tại thời 
điểm khách hàng thanh toán hàng hoá dịch vụ, ngân hàng sẽ tạm ứng thanh 
toán cho đơn vị cung cấp hàng hoá dịch vụ và tiến hành thu hồi khoản tiền 
này từ khách hàng sau một khoảng thời gian nhất định theo thoả thuận giữa 
ngân hàng và chủ thẻ. Khoảng thời gian kể từ khi thẻ được dùng để thanh toán 
hàng hoá dịch vụ tới lúc chủ thẻ phải trả tiền cho ngân hàng có độ dài tuỳ 
thuộc vào từng loại thẻ tín dụng của từng tổ chức thẻ khác nhau. Nếu chủ thẻ 
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 
Trần Linh Chi Ngân hàng 47B 
thanh toán toàn bộ số dư nợ vào ngày đến hạn, thời gian này sẽ trở thành thời 
gian ân hạn và chủ thẻ hoàn toàn được miễn lãi đối với số dư nợ cuối kỳ. Tuy 
vậy, nếu hết thời gian này mà chủ thẻ vẫn chưa thanh toán hoặc thanh toán 
chưa hết dư nợ cuối kỳ cho ngân hàng thì chủ thẻ sẽ phải chịu những khoản 
phí và lãi chậm trả. Sau khi thanh toán hết dư nợ phát sinh trong kỳ, hạn mức 
tín dụng của chủ thẻ sẽ được khôi phục như ban đầu. Đây chính là tính chất 
tuần hoàn của thẻ tín dụng. 
 Ngân hàng và các tổ chức tài chính phát hành thẻ tín dụng cho khách 
hàng dựa trên uy tín và khả năng đảm bảo chi trả của từng khách hàng. Khả 
năng đảm bảo chi trả được xác định dựa trên các tiêu chí như: thu nhập, tình 
hình chi tiêu, uy tín, mối quan hệ sẵn có với các tổ chức tài chính, tài sản thế 
chấp... của khách hàng. Khi sử dụng thẻ, thay bằng tiền mặt, chủ thẻ xuất 
trình thẻ của mình tại các điểm cung ứng hàng hoá dịch vụ có chấp nhận thẻ 
để thanh toán. 
 Ngoài các sản phẩm thẻ tín dụng quốc tế thông thường như Visa, 
Master, để đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng, các TCTQT còn đưa ra 
một sản phẩm thẻ tín dụng đặc biệt phục vụ những khách hàng có thu nhập rất 
cao, có khả năng tài chính vững vàng và có mức chi tiêu lớn. Đó là thẻ thanh 
toán (Charge card). Khi sử dụng thẻ thanh toán, khách hàng được hưởng một 
hạn mức tín dụng đặc biệt cao hoặc không bị chi phối bởi hạn mức tín dụng 
nhưng chủ thẻ sẽ phải thanh toán toàn bộ số tiền phát sinh cho ngân hàng vào 
ngày đến hạn. 
 Một hình thức thẻ tín dụng đang ngày càng trở nên phổ biến là thẻ liên 
kết. Thẻ liên kết là sản phẩm của một ngân hàng hay tổ chức tài chính kết hợp 
với một bên thứ ba và thông thường tên, nhãn hiệu thương mại hoặc logo của 
bên thứ ba này cũng đồng thời xuất hiện trên tấm thẻ. Ngoài những đặc điểm 
sẵn có của thẻ tín dụng thông thường, thẻ liên kết có sức hấp dẫn hơn với 
khách hàng bởi chính những lợi ích phụ trội do bên thứ ba đem lại. Ví dụ, thẻ 
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 
Trần Linh Chi Ngân hàng 47B 
Visa Co-brand do ngân hàng Standard Chartered và tập đoàn thời trang 
Espirit phát hành mang lại cho chủ thẻ những tiện ích phụ trội riêng biệt như 
được chăm sóc sắc đẹp miễn phí, giảm giá 20% cho tất cả các mặt hàng hiệu 
Espirit trong 3 tháng đầu tiên, chương trình điểm thưởng tích luỹ theo lượng 
tiền thanh toán bằng thẻ... ở Việt Nam, thẻ Amex- Cobrand do VCB và Tổng 
công ty Hàng không phát hành cũng mang lại nhiều tiện ích cho chủ thẻ với 
các chương trình điểm thưởng tặng vé và giảm giá khi chi tiêu sử dụng thẻ 
Amex- Cobrand tại nhiều cửa hàng.... 
 * Phân loại : Tiêu thức để phân loại thẻ tín dụng hiện nay trên thế giới 
chủ yếu được phân loại theo công nghệ sản xuất và được chia thành 3 loại: thẻ 
in nổi, thẻ từ và thẻ thông minh. 
- Thẻ in nổi (Embossed Card): Là loại thẻ mà trên bề mặt thẻ được 
khắc nổi các thông tin cần thiết. Ngày nay loại thẻ này ít được sử dụng vì 
công nghệ in quá thô sơ, dễ bị làm giả (magnetic stripe). 
- Thẻ từ: Là loại thẻ mà các thông tin của chủ thẻ vừa được dập nổi ở 
mặt trước vừa được mã hoá trong băng từ ở mặt sau của thẻ. Các thông tin 
này phải đảm bảo chính xác và khớp với nhau. Thẻ từ hiện nay chiếm phần 
lớn trong tổng số lượng thẻ đang sử dụng trên thị trường. Nhược điểm của thẻ 
từ là số lượng các thông tin được mã hóa không nhiều, mang tính cố định, khu 
vực chứa tin hẹp nên không áp dụng được các kỹ thuật mới đảm bảo an toàn 
cho thẻ. Hơn nữa, các thông tin ghi trong thẻ không tự mã hoá được nên 
không thể áp dụng kỹ thuật mã hoá an toàn và có thể bị ăn cắp thông tin bằng 
các thiết bị nối với máy vi tính. 
- Thẻ thông minh (Smart card/Chip card): Đây là thế hệ mới nhất 
của thẻ, có đặc tính bảo mật và an toàn rất cao, dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin 
học, gắn với thẻ một chíp điện tử có cấu tạo như một máy tính hoàn hảo. 
Thông thường một tấm thẻ thông minh được gắn chíp điện tử để thay thế cho 
dải băng từ sau thẻ. Cũng có trường hợp, thẻ thông minh có cả Chíp điện tử 
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 
Trần Linh Chi Ngân hàng 47B 
và băng từ. Chíp điện tử độc lập với thẻ và được gắn trên bề mặt của thẻ, về 
bản chất gồm 2 loại chíp: chíp bộ nhớ và chíp xử lý dữ liệu. Chíp bộ nhớ lưu 
trữ toàn bộ các thông tin cần thiết phục vụ cho công tác thanh toán thẻ trong 
mỗi lần sử dụng, còn chíp xử lý dữ liệu có khả năng bổ sung, xoá bỏ hoặc 
điều chỉnh các thông tin trong bộ nhớ. Thẻ thông minh gắn chíp xử lý dữ liệu 
có khả năng vừa lưu trữ các thông tin về chủ thẻ, điểm thưởng tích luỹ đồng 
thời lưu trữ cả số liệu những lần giao dịch của chủ thẻ tại ĐVCNT. Tính năng 
vượt trội này của thẻ thông minh giúp cắt giảm chi phí xử lý đối với ngân 
hàng và các trung gian thanh toán bởi việc đối chiếu thông tin tài khoản và 
thông tin của chủ thẻ cũng như việc cập nhật thông tin liên quan tới thẻ giờ 
đây đã được thực hiện ngay tại ĐVCNT. Tuy nhiên, do sử dụng công nghệ 
mới nên giá thành cao, hệ thống máy móc chấp nhận thanh toán thẻ này cũng 
đắt nên sử dụng còn chưa phổ biến như thẻ từ. Việc phát hành và chấp nhận 
thanh toán thẻ này đang dần được phổ biến ở các nước phát triển và đang phát 
triển. Các TCTQT hiện vẫn đang khuyến khích các ngân hàng thành viên phát 
hành và thanh toán loại thẻ này nhằm giảm tỷ lệ rủi ro giả mạo thẻ. 
1.1.3. Các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng 
 Hoạt động kinh doanh thẻ ngân hàng có sự tham gia chặt chẽ của 4 
thành phần cơ bản là: Ngân hàng phát hành thẻ, Ngân hàng thanh toán thẻ, 
Chủ thẻ và ĐVCNT. Đối với thẻ tín dụng còn thêm một thành phần nữa là 
các TCTQT. Mỗi chủ thể đóng vai trò quan trọng khác nhau trong việc phát 
huy tối đa tính năng phương tiện thanh toán hiện đại không dùng tiền mặt của 
thẻ ngân hàng. 
 Tổ chức thẻ quốc tế: Là Hiệp hội các tổ chức tài chính, tín dụng hoặc 
Công ty phát hành và thanh toán thẻ quốc tế, hiện tại bao gồm: Tổ chức thẻ 
Visa International, MasterCard Incorpted, Công ty thẻ American Express, 
Công ty thẻ JCB, Công ty thẻ Diner’s Club. Đây là những đơn vị đứng đầu 
quản lý mọi hoạt động và thanh toán thẻ trong mạng lưới của mình, có mạng 
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 
Trần Linh Chi Ngân hàng 47B 
lưới hoạt động rộng khắp trên toàn thế giới. TCTQT đưa ra những quy định 
cơ bản về hoạt động phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ, đóng vai trò trung 
gian giữa các tổ chức và các công ty thành viên trong việc điều chỉnh và cân 
đối các lượng tiền thanh toán giữa các công ty thành viên. 
 Ngân hàng phát hành: Là các tổ chức tài chính, tín dụng thực hiện 
việc phát hành thẻ cho chủ thẻ sử dụng một cách hợp pháp. Ngân hàng phát 
hành ra những tấm thẻ mang thương hiệu riêng hoặc được TCTQT, Công ty 
thẻ trao quyền phát hành thẻ mang thương hiệu của những tổ chức và công ty 
này. Ngân hàng phát hành là ngân hàng có tên in trên thẻ thể hiện đó là sản 
phẩm của mình. Ví dụ như thẻ: Vietcombank Visa, Vietcombank Mastercard 
và Vietcombank American Express của VCB. 
 Ngân hàng phát hành quy định các điều khoản, điều kiện sử dụng thẻ 
đối với khách hàng. Ngân hàng có quyền ký kết hợp đồng đại lý với bên thứ 
ba là một ngân hàng hoặc một tổ chức tài chính tín dụng khác trong việc 
thanh toán và phát hành thẻ tín dụng. Trong trường hợp này, Ngân hàng phát 
hành tận dụng được ưu thế của bên thứ ba về kinh nghiệm, khả năng thâm 
nhập thị trường và những ưu thế về vị trí địa lý. Tuy nhiên, ngân hàng cũng 
phải chịu chấp nhận rủi ro về tài chính bởi ngân hàng đứng ra bảo l•nh cho 
bên thứ ba làm Ngân hàng đại lý của mình trong việc phát hành thẻ. Bên thứ 
ba khi ký kết hợp đồng đại lý với Ngân hàng phát hành được gọi là Ngân 
hàng đại lý phát hành. Nếu tên của Ngân hàng đại lý xuất hiện trên tấm thẻ 
của khách hàng thì nhất thiết Ngân hàng đại lý đó phải là thành viên chính 
thức của Tổ chức thẻ hoặc Công ty thẻ quốc tế. 
 Ngân hàng thanh toán: Là các tổ chức tài chính tín dụng thực hiện 
việc thanh toán thẻ thông qua mạng lưới ĐVCNT và/hoặc điểm ứng tiền mặt 
và/hoặc ATM một cách hợp pháp. Ngân hàng thanh toán chấp nhận các loại 
thẻ như một phương tiện thanh toán thông qua việc ký kết hợp đồng chấp 
nhận thẻ với các điểm cung ứng hàng hoá dịch vụ trên địa bàn. Ngân hàng 
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 
Trần Linh Chi Ngân hàng 47B 
thanh toán cung cấp các thiết bị phục vụ cho việc thanh toán thẻ và hướng dẫn 
các ĐVCNT cách thức vận hành, chấp nhận thanh toán thẻ cũng như quản lý 
và xử lý những giao dịch thẻ tại các đơn vị này. Thông thường Ngân hàng 
thanh toán sẽ thu từ các ĐVCNT một mức phí chiết khấu cho việc chấp nhận 
thanh toán thẻ của đơn vị, nó có thể tính phần trăm trên giá trị mỗi giao dịch 
hoặc tính theo tổng giá trị giao dịch thẻ. Mức chiết khấu cao hay thấp phụ 
thuộc từng ngân hàng và vào mối quan hệ chiến lược của ngân hàng với 
ĐVCNT. 
 Trên thực tế, rất nhiều ngân hàng vừa là Ngân hàng phát hành vừa là 
Ngân hàng Thanh toán thẻ. Với tư cách là Ngân hàng phát hành, khách hàng 
của họ là chủ thẻ còn với tư cách là Ngân hàng thanh toán, khách hàng là các 
đơn vị cung ứng hàng hoá dịch vụ có ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ. 
 Chủ thẻ: Là những cá nhân đứng tên xin cấp thẻ hoặc người được uỷ 
quyền (nếu là thẻ do công ty uỷ quyền sử dụng), được ngân hàng phát hành 
thẻ và được sử dụng thẻ theo hạn mức tín dụng tuần hoàn được cấp và có tên 
được in nổi trên thẻ [2]. Mỗi chủ thẻ chính có thể phát hành thêm thẻ phụ, cả 
thẻ chính và thẻ phụ cùng chi tiêu chung một tài khoản. Chủ thẻ phụ cũng có 
trách nhiệm thanh toán các khoản phát sinh trong kỳ nhưng chủ thẻ chính là 
người có trách nhiệm thanh toán cuối cùng đối với ngân hàng. Chủ thẻ sử 
dụng thẻ của mình để thanh toán hàng hoá, dịch vụ tại các đơn vị cung ứng 
hàng hoá, dịch vụ có chấp nhận thẻ, các điểm ứng tiền mặt thuộc hệ thống 
ngân hàng hoặc sử dụng thẻ để thực hiện các giao dịch tại máy rút tiền tự 
động. Đối với thẻ tín dụng, sau một khoảng thời gian nhất định tuỳ theo quy 
định của từng ngân hàng phát hành, chủ thẻ sẽ nhận được sao kê (Statement). 
Sao kê là bảng thông báo chi tiết các giao dịch chi tiêu sử dụng thẻ của chủ 
thẻ trong kỳ sao kê, số dư cuối kỳ, ngày đến hạn thanh toán cũng như số tiền 
thanh toán tối thiểu mà khách hàng phải thanh toán trong kỳ cho ngân hàng và 
các thông báo liên quan đến việc sử dụng thẻ. Căn cứ vào các thông tin trên 
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 
Trần Linh Chi Ngân hàng 47B 
sao kê, nếu không có gì thắc mắc, chủ thẻ sẽ thực hiện việc thanh toán sa