Những thành tựu to lớn đạt được sau hơn 20 năm đổi mới, với những bước tiến nhanh và dài để hội nhập với nền kinh tế Thế giới cho thấy sự chủ động chuyển mình và chủ động hội nhập của kinh tế Việt Nam. Nhưng để có thể tiến xa hơn nữa cần đòi hỏi sự nỗ lực của tất cả các thành phần kinh tế, trong đó đặc biệt phải kể đến các Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đó cũng là đường lối, chiến lược của Đảng và Nhà nước, nhưng không thể phủ nhận rằng chúng ta vẫn đang rất lúng túng trong việc triển khai nó bởi còn tồn tại rất nhiều khó khăn.Trong đó, khó khăn về vốn, về đổi mới công nghệ và tiếp cận các dịch vụ tài chính là đáng kể nhất.
Hoạt động cho vay đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ là một trong những hoạt động cho vay chủ yếu của các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Đây là một đề tài cũ mà mới. Nó cũ về lý thuyết, nhưng mới về mặt giải pháp cụ thể trong từng điều kiện kinh tế- chính trị- xã hội của Đất nước.
Xuất phát từ quan điểm trên và từ thực trạng của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay, qua thời gian thực tập tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam – Chi nhánh MSB Cầu Giấy, em đã chọn đề tài :
“ Phát triển hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Kết cấu chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM
Chương 2 : Thực trạng hoạt động cho vay các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam- Chi nhánh MSB Cầu Giấy
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động cho vay các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam- Chi nhánh MSB Cầu Giấy
71 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2459 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại cổ phần hàng hải Việt Nam chi nhánh MSB Cầu Giấy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Những thành tựu to lớn đạt được sau hơn 20 năm đổi mới, với những bước tiến nhanh và dài để hội nhập với nền kinh tế Thế giới cho thấy sự chủ động chuyển mình và chủ động hội nhập của kinh tế Việt Nam. Nhưng để có thể tiến xa hơn nữa cần đòi hỏi sự nỗ lực của tất cả các thành phần kinh tế, trong đó đặc biệt phải kể đến các Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đó cũng là đường lối, chiến lược của Đảng và Nhà nước, nhưng không thể phủ nhận rằng chúng ta vẫn đang rất lúng túng trong việc triển khai nó bởi còn tồn tại rất nhiều khó khăn.Trong đó, khó khăn về vốn, về đổi mới công nghệ và tiếp cận các dịch vụ tài chính là đáng kể nhất.
Hoạt động cho vay đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ là một trong những hoạt động cho vay chủ yếu của các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Đây là một đề tài cũ mà mới. Nó cũ về lý thuyết, nhưng mới về mặt giải pháp cụ thể trong từng điều kiện kinh tế- chính trị- xã hội của Đất nước.
Xuất phát từ quan điểm trên và từ thực trạng của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay, qua thời gian thực tập tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam – Chi nhánh MSB Cầu Giấy, em đã chọn đề tài :
“ Phát triển hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Kết cấu chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM
Chương 2 : Thực trạng hoạt động cho vay các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam- Chi nhánh MSB Cầu Giấy
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động cho vay các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam- Chi nhánh MSB Cầu Giấy
Do hạn chế về trình độ chuyên môn, cũng như kinh nghiệm thực tiễn nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, Em mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn T/S : Lê Thị Hương Lan và các anh chị trong phòng tín dụng của chi nhánh Ngân hàng MSB Cầu Giấy đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NHTM
Khái niệm và vai trò của Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền
kinh tế Thị trường.
1.1.1. Khái niệm Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong thời gian qua, các DN VVN phát triển cả về chất và lượng, nổi bật lên trong nền kinh tế như một hiện tượng. DN VVN là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao động. Ở mỗi nước, người ta có tiêu chí riêng để xác định DN VVN ở nước mình. Ở Việt Nam, không phân biệt lĩnh vực kinh doanh, các DN VVN là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký kinh doanh không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. (Theo Nghị Định 90/2001/CP) . Theo định nghĩa đó, cả nước ta hiện nay có hơn 200.000 DN VVN, chiếm 96,81% số lượng các doanh nghiệp đang hoạt động, đóng góp 45% GDP cả nước và hàng năm thu hút hơn 90% lao động mới vào làm việc.
Để có được kết quả đó, trước hết là do chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần đã được Luật hóa từ văn bản Luật quan trọng nhất đó là Hiến pháp. Tiếp theo đó, năm 2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/CP về trợ giúp các DN VVN như một luồng gió mới làm thức tỉnh hoạt động của các DN VVN. Cùng với nó, chủ trương đẩy nhanh hội nhập quốc tế, việc gia nhập vào Tổ chức thương mại Thế giới WTO, kết quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày một nhiều hơn (năm 2006 đạt mức kỷ lục trên 10,2 tỷ USD vốn FDI) và những cải cách hành chính, chống tham nhũng đã thực sự tạo đà cho sự phát triển của các doanh nghiệp này, từng vước khẳng định vai trò và vị trí của mình trong nền kinh tế đất nước.
1.1.2. Đặc điểm của Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
Trong số các DN VVN đang hoạt động hiện nay, ta dễ dàng nhận thấy một số đặc điểm sau:
Vốn nhỏ
Đặc điểm nổi bật nhất của các DN VVN hiện nay là có vốn nhỏ. Qua điều tra cho thấy, ở nước ta hiện nay bình quân một Doanh nghiệp có vốn đạt 7 tỷ đồng, trong đó số Doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm 41,8%, Doanh nghiệp có 1 - 5 tỷ đồng tiền vốn chiếm 37,03%. Đây là nguyên nhân rất đến các đặc điểm khác của DN VVN đồng thời cũng nguyên nhân chính dẫn đến khó khăn lớn nhất của các DN VVN là tình trạng thiếu vốn để sản xuất. Hiện nay trên 70% các DN VVN gặp khó khăn về tài chính.
Quy mô nhỏ
Dù giới hạn của DN VVN là có bình quân lao động trong năm là 300 người nhưng con số này của các DN VVN hiện nay chỉ có khoảng 32 người. Vì vậy có thể nói các DN VVN hiện nay có quy mô rất nhỏ, dẫn theo đó là cơ cấu tổ chức cũng rất đơn giản. Các nhân viên có thể phải đảm nhiệm nhiều công việc cùng một lúc. Một thực tế khác nữa là trình độ cán bộ quản lý và lao động của các doanh nghiệp này còn rất hạn chế, khả năng quản trị điều hành thấp, số lượng chủ doanh nghiệp có trình độ cao đẳng, đại học còn thấp. Hoạt động kinh doanh chủ yếu theo thương vụ, chạy theo phong trào mà không có chiến lược phát triển nên dễ bị đổ bể.
Quy mô nhỏ kết hợp với tình trạng thiếu vốn sản xuất trở thành một hạn chế rất lớn của các DN VVN Việt Nam. Hầu hết các Doanh nghiệp này có thời gian hoạt động chưa lâu, kinh nghiệm về sản xuất, về thị trường cũng như về quản lý còn rất hạn chế, trong khi đó công nghệ lại lạc hậu, năng lực cạnh tranh thấp, còn đội ngũ quản lý thì lại thiếu kinh nghiệm. Do đó hiệu quả hoạt động của các Doanh nghiệp này chưa cao, dẫn đến lợi nhuận thấp, không có vốn để tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh. Điều này đã tạo thành cái vòng luẩn quẩn, hiện nay đang gây khó khăn rất lớn cho các DN VVN.
Các DN VVN đang hoạt động chiếm số lượng lớn
Được sự khuyến khích và hỗ trợ của Nhà nước, lại có lợi thế là chỉ cần một số vốn nhỏ cũng có thể thành lập công ty, xưởng sản xuất với chi phí thấp, tính năng động và linh hoạt cao, có khả năng thích ứng với nhu cầu thường xuyên thay đổi của người tiêu dùng… nên số DN VVN trong thời gian qua phát triển rất nhanh. Hiện nay cả nước ta có hơn 200.000 DN VVN, chiếm 96,81% số lượng các doanh nghiệp đang hoạt động
Dám thay đổi và khai thác thị trường mới, thị trường ngách
Tuy nhiên đặc điểm nổi quan trọng nhất của các DN VVN chính là sự có mặt của các Doanh nghiệp này trong rất nhiều lĩnh vực từ sản xuất đến thương mại, dịch vụ, có thể nói là vô cùng đa dạng và phong phú. Trong đó, các Doanh nghiệp này thường tập trung khai thác những khoảng trống của thị trường hay những thị trường ngách. Đó là những thị trường nhỏ nhưng có nhu cầu riêng biệt hết sức đa dạng, hết sức phù hợp để các DN VVN khai thác được lợi thế của mình, tránh đụng độ với các đại gia, dành lấy miếng bánh lớn trong thị trường nhỏ, thay vì miếng bánh nhỏ từ thị trường lớn. Và đây mới chính là thế mạnh, là lợi thế so sánh của các Doanh nghiệp này.
Bên cạnh đó, DN VVN còn có thể linh hoạt trong việc đổi mới công nghệ và thiết bị vì yêu cầu bỏ vốn không nhiều và giảm được sự thiệt hại khi có sự cạnh tranh phải chuyển sang kinh doanh ngành khác. Đó cũng chính là lý do mà các DN VVN thường ưa mạo hiểm, dám chấp nhận rủi ro để mạnh dạn đầu tư vào những ngành mới.
Sự ra đời của các hiệp hội
Do có vốn nhỏ, quy mô nhỏ nên tiếng nói của các DN VVN hiện nay cũng hết sức yếu ớt và rời rạc. Vì vậy, các hiệp hội đã ra đời giúp các doanh nghiệp vừa hợp sức lại vừa tăng tính độc lập. Vai trò hết sức quan trọng của hiệp hội là có nhiều hoạt động hỗ trợ cho các doanh nghiệp như giúp đỡ về đào tạo nghề; quảng bá giới thiệu doanh nghiệp, cung cấp thông tin thị trường... trên các phương tiện thông tin đại chúng; huy động các nguồn tài trợ quốc tế; và hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng doanh nghiệp; kiến nghị các cơ quan chức năng điều chỉnh chính sách, pháp luật … tạo điều kiện cho DN NVV phát triển.
1.1.3. Vai trò của Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường
Chiếm số đông trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, DN VVN đang vươn lên trong mọi lĩnh vực và ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong nền kinh tế:
DN VVN có vai trò to lớn trong việc thu hút nguồn vốn trong dân cư.
Với tính chất nhỏ bé, dễ đi sâu vào các cộng đồng dân cư và số lượng vốn cần ban đầu không nhiều, các DN VVN có vai trò rất lớn trong việc thu hút được nguồn vốn trong dân cư vốn đang nằm phân tán và rải rác, hạn chế số tiền nhàn rỗi, không sinh lời trong nền kinh tế, và đây thực sự là một nguồn tài chính dồi dào và tiềm năng.
DN VVN đáp ứng tích cực nhu cầu tiêu dùng xã hội
Thực tế tiêu dùng xã hội hiện nay có rất nhiều mặt hàng mà người tiêu dùng chỉ có nhu cầu ít hoặc cá biệt song chất lượng, mẫu mã, chủng loại, kiểu cách rất đa dạng và không ngừng thay đổi. Trong trường hợp này các DN VVN khi khai thác các thị trường ngách hoàn toàn có thể đáp ứng những nhu cầu nói trên của người tiêu dùng một cách nhanh chóng, thuận tiện. Đặc biệt có những hàng hóa người tiêu dùng có nhu cầu không thể sản xuất ở các doanh nghiệp quy mô lớn, kỹ thuật hiện đại mà chỉ có thể sản xuất bằng lao động thủ công, phân tán đến từng cơ sở sản xuất nhỏ hoặc hộ gia đình.
Không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, các DN VVN cũng đã tích cực tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, nhất là kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến nông sản, thủy sản xuất khẩu có giá trị cao, qua đó góp phần tích cực tăng kim ngạch xuất khẩu, thu ngoại tệ cho đất nước.
DN VVN góp phần tạo ra sự năng động cho nền kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Với ưu thế về tính linh hoạt và lượng vốn yêu cầu tương đối nhỏ, DN VVN có khả năng nhanh chóng chuyển đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất và đổi mới công nghệ cho phù hợp với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Do vậy, các Doanh nghiệp này góp phần làm cho nền kinh tế trở nên năng động hơn, tăng tính cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của xã hội ngày càng tốt hơn.
DN VVN có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế, khai thác tiềm năng và thế mạnh của từng vùng, là trụ cột kinh tế địa phương.
Nếu như các doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước, thì DN VVN lại có mặt ở khắp các địa phương, khai thác tiềm năng và thế mạnh của từng vùng, đóng góp quan trọng vào thu ngân sách, vào sản lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương.
DN VVN chiếm tỷ lệ cao về số lượng và khả năng thu hút lao động và đóng góp vào thu nhập quốc dân và nguồn thu vào ngân sách.
Có đặc điểm là năng động, linh hoạt, đáp ứng được các nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng lại có số lượng ngày càng tăng nhanh nên khả năng đóng góp vào thu nhập quốc dân và nguồn thu ngân sách của các DDN VVN ngày càng tăng, nhất là khi gia nhập vào WTO thì nguồn thu từ Doanh nghiệp Nhà nước, từ thuế xuất nhập khẩu sẽ khó được đảm bảo.
Trong khi đó, các DN VVN có kỹ thuật sản xuất chủ yếu là nửa cơ giới và lao động chân tay chiếm tỷ lệ khá cao. Phần lớn các Doanh nghiệp này hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng, xây dựng giao thông vận tải, chế biến nông lâm hải sản, … nên nó có khả năng thu hút nhiều lao động, tạo nhiều công ăn việc làm cho xã hội và tăng thu nhập, đảm bảo đời sống cho người lao động.
DN VVN bước đầu tham gia vào quá trình hình thành mối liên kết giữa DN VVN và các Doanh nghiệp lớn.
Có thể nói đây là quan hệ hai chiều, ràng buộc và hỗ trợ nhau: các doanh nghiệp lớn đảm bảo vững chắc cho các DN VVN về thị trường, tài chính, công nghệ, tiêu chuẩn kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý. Ngược lại, DN VVN đảm bảo cho các doanh nghiệp lớn trong việc cung ứng nguyên vật liệu, hợp đồng phụ và thành lập mạng lưới vệ tinh phân phối sản phẩm.
DN VVN hiện nay còn tồn tại nhiều hạn chế, tuy nhiên vai trò của chúng đối với sự phát triển của nền kinh tế là không thể phủ nhận. Cùng với các doanh nghiệp lớn, các DN VVN cùng góp phần tạo ra sự cân đối cho nền kinh tế. Một nền kinh tế nếu chỉ toàn các DN VVN thì sẽ không thể tích tụ và tập trung vốn để phát triển cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ. Trong khi đó, các Doanh nghiệp lớn sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không có sự hỗ trợ của các DN VVN. Một nền kinh tế muốn phát triển bền vững và ổn định thì cần phải đặt vai trò của hai nhóm Doanh nghiệp này trong thế cân bằng, từ đó tìm cách hỗ trợ nhau khi cần thiết.
DN VVN ngày càng thể hiện là một hướng đi đúng, vai trò của các Doanh nghiệp này ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên hiện nay còn tồn tại thực tế là các DN VVN phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa có nhiều doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh vươn ra bên ngoài. Do vậy các Doanh nghiệp này hiện nay rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua các chính sách khuyến khích DN VVN phát triển cũng như sự hỗ trợ của các cơ quan, ban ngành, các Hiệp hội,… Trong đó đặc biệt phải kể đến sự hỗ trợ các doanh nghiệp này về vốn từ các NH TM – trung gian tài chính lớn nhất của nền kinh tế.
Hoạt động cho vay các Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại
Khái niệm cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ của NH TM
Trong nền kinh tế, các NH TM là tổ chức tài chính quan trọng nhất. Các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức và thậm chí cả Chính phủ đều nghĩ đến các dịch vụ của Ngân hàng để hỗ trợ cho các vấn đề tài chính của mình. Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ghi: “Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Trong đó cho vay là hoạt động cơ bản nhất và thường xuyên nhất. Có thế nói cho vay là hoạt động ngân hàng tiêu biểu để phân biệt Ngân hàng với các tổ chức tài chính khác.
Cho vay có thể được định nghĩa là một hình thức cấp tín dụng, theo đó các tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi ( Mục 2 – Điều 3 – 1627/2001/QĐ-NHNN)
Cho vay DN VVN của NH TM là các NH TM giao cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Về tính chất nghiệp vụ, cho vay DN VVN cũng giống như các hoạt động truyền thống khác, phải thực hiện đầy đủ và chặt chẽ qui trình cho vay cũng như đảm bảo các nguyên tắc và dựa trên chính sách cho vay của NHTM.
Tuy nhiên đối tượng vay vốn ở đây là các DN VVN, có những đặc điểm khác với các đối tượng vay vốn khác, đó là tuy có tư cách pháp nhân, nhưng vốn tự có lại ít, không đủ tài sản thế chấp nên khó vay được vốn, không đủ vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, không có nhiều lợi nhuận và tài sản vì thế cũng chẳng có nhiều tài sản thế chấp. Điều này đã tạo nên một cái vòng luẩn quẩn trong việc vay vốn Ngân hàng cho các Doanh nghiệp này, trong khi đó tình hình tài chính không minh bạch và hạn chế về việc nắm bắt thông tin cũng như tiếp xúc với các dịch vụ của Ngân hàng, đã tạo cho các Doanh nghiệp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận vốn của các NH TM.
Mặc dù vậy, do có một vai trò rất lớn và ngày càng được khẳng định trong nền kinh tế, trong khi số lượng lớn, ngành nghề đa dạng, nhu cầu về vốn lại rất tiềm năng, nên các DN VVN là nhóm khách hàng cần được sự quan tâm, chú trọng của các NH TM.
1.2.2 Phân loại
Để đáp ứng nhu cầu khách hàng một cách tốt nhất, Ngân hàng đưa ra rất nhiều sản phẩm cho vay khác nhau tương ứng với sự đa dạng trong mục đích vay vốn, sử dụng vốn và hoàn trả vốn của khách hàng, giúp họ có thể dễ dàng lựa chọn các dịch vụ phù hợp với nhu cầu của mình, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay đồng thời giúp Ngân hàng dễ dàng hơn trong việc thực hiện nghiệp vụ cũng như quản lý các khoản vay, đảm bảo tính an toàn tốt hơn và có tính sinh lời cao hơn.
Mỗi sản phẩm cho vay của Ngân hàng bao gồm các đặc tính:
Đối tượng vay vốn:
Ngân hàng có thể phân chia danh mục cho vay của mình thành các sản phẩm cho cá nhân vay – sản phẩm cho vay tiêu dùng, sản phẩm cho các doanh nghiệp vay – sản phẩm cho vay kinh doanh và sản phẩm dành cho chính phủ cũng như các tổ chức tín dụng khác. Đây là ba nhóm đối tượng vay vốn chủ yếu nhất của Ngân hàng những mỗi một nhóm đối tượng có những đặc trưng riêng dẫn đễn việc thực hiện nghiệp vụ cho vay và quản lý khoản vay của Ngân hàng với từng đối tượng cũng có những điểm khác biệt.
Mục đích sử dụng vốn vay:
Mục đích sử dụng vốn vay cho biết khách hàng dự định sẽ làm gì với khoản vay. Mỗi nhóm đối tượng trên sẽ có những mục đích sử dụng vốn rất khác nhau. Ngân hàng cho chính phủ vay để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của chính phủ hoặc để đầu tư phát triển thông qua các dự án. Các doanh nghiệp vay ngân hàng để tăng thêm vốn cho sản xuất kinh doanh, để thanh toán, để mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kỹ thuật, mua công nghệ…Trong khi đó, các cá nhân, hộ gia đình vay tiền Ngân hàng nhằm thỏa mãn các nhu cầu mua sắm tiêu dung lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận chuyển…
Thời hạn vay:
Thời hạn vay là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng khoản cho vay, được xác định cụ thể (ngày, tháng, năm) và ghi trong hợp đồng tín dụng. Tùy vào mục đích sử dụng vốn vay của đối tượng vay vốn mà khoản vay đó là ngắn hạn ( nhỏ hơn 12 tháng) hay trung, dài hạn (lớn hơn 12 tháng). Nếu doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để đáp ứng khả năng thanh toán tức thời thì đó sẽ là khoản vay ngắn hạn, còn nếu để mua sắm, xây dựng tài sản cố định nhằm thực hiện các dự án nhất định thì đó là các khoản vay trung dài hạn. Còn đối với cá nhân và các hộ gia đình, các khoản vay tiêu dùng đa phần là các khoản vay trung dài hạn. Phân chia các khoản vay theo thời hạn giúp Ngân hàng có thể chủ động trong việc huy động, giải ngân, và thu hồi vốn và lãi vay, đảm bảo được tính thanh khoản trong khi vẫn có thể đem lại khả năng sinh lời cao nhất.
Phương thức vay:
Do mục đích vay vốn và thời hạn vay vốn của các đối tượng vay rất đa dạng, do vậy Ngân hàng cần phải đưa ra các sản phẩm cho vay có quá trình giải ngân, thu hồi lãi và gốc hết sức linh hoạt, tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng đồng vốn một cách an toàn nhất và hiệu quả nhất. Người tiêu dùng thường sử dụng hình thức thấu chi thông qua thẻ tín dụng hoặc cho vay trả góp để mua các tài sản có giá trị lớn như mua bất động sản và ô tô. Các doanh nghiệp tùy vào mục đích vay vốn áp dụng các phương thức khác nhau: Nếu doanh nghiệp không có nhu cầu vay thường xuyên thì có thế vay trực tiếp từng lần, mỗi lần vay phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Nếu doanh nghiệp là khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh lại thường áp dụng phương thức cho vay theo hạn mức. Trong kì khách hàng có thể vay trả nhiều lần song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng.
e. Tài sản đảm bảo:
Trong nhiều trường hợp, ngân hàng luôn yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi xin vay. Lý do là khách hàng luôn phải đối đầu với rủi ro trong kinh doanh, có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng. Những biến cố không mong đợi có thể gây cho ngân hàng tổn thất rất lớn. Chính vì vậy, trừ những khách hàng có uy tín cao, nhiều khách hàng phải có tài sản đảm bảo để ngân hàng có thể có được nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn thứ nhất là thu nhập từ hoạt động kinh doanh không đảm bảo trả nợ. Các hình thức của tài sản đảm bảo cũng hết sức đa dạng theo mục đích vay vốn của khách hàng. Phân loại theo tính chất an toàn thì tài sản đảm bảo gồm hai loại: loại 1 là tài sản thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của khách hàng haợc bảo lãnh của bên thứ ba cho khách hàng còn loại 2 là tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ của ngân hàng, ví dụ như khách hàng vay tiền ngân hàng để mua ô tô thì ô tô đó sẽ trở thành tài sản đảm bảo loại 2. Nếu phân loại theo hình thức vật chất thì có thể đảm bảo bằng hàng hóa trong kho như nguyên, nhiên, vật liệu, sản phẩm, đảm bảo bằng tài sản cố định, đảm bảo bằng các hợp đồng chi trả của người thứ ba, đảm bảo bằng chứng khoán, đảm bảo bằng bảo lãnh của người thứ 3. Đảm bảo có thể bằng phương pháp cầm cố hoặc thế chấp. Cầm cố là hình thức theo đó người vay phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết, thường