Trong cơ chế thị trường, nền kinh tế hàng hoá phát triển rất đa dạng và phong phú, ngành Ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng đặc biệt là các NHTM.Sự ra đời của các ngân hàng thương mại đã đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển nền kinh tế. Nó là cầu nối, là người dẫn vốn cho các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Chính vì vậy, để phát triển nền kinh tế nhằm đạt được những mục tiên đã đề ra thì một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu phải thực hiện là củng cố và lành mạnh hoá hoạt động của hệ thống tài chính tiền tệ nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng.
Để hòa chung vào sự phát tiển kinh tế đất nước, qua rất nhiều năm, hệ thống ngân hàng thương mại đã có những chuyển biến rõ rệt và không ngừng đổi mới, hoàn thiện và hiện đại hóa các nghiệp vụ đặc biệt là nghiệp vụ cho vay. Hoạt động cho vay luôn được coi là hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại, có vai trò quan trọng tạo ra nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng và giúp ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động một cách hiệu quả nhất.Sự phát triển của nền kinh tế thị trường và sự ra đời của các ngân hàng thương mại cô phần thì hàng loạt các sản phẩm cho vay đã ra đời làm cho các sản phẩm cho vay của ngân hàng ngày một đa dạng phong phú. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế,mức sống của người dân ngày càng cao, nhu cầu tiêu dùng của họ vì thế mà cũng tăng lên theo đó cho vay tiêu dùng ra đời và ngày một trở thành mục tiêu mà các ngân hàng hướng tới.có thể nối chưa bao giờ thị trường cho vay tiêu dùng lại sôi động như hiện nay.Các ngân hàng liên tục đưa ra các sản phẩm mới, ngày càng hoàn thiện sản phẩm của mình tạo cho khách hàng được phục vụ tốt nhất có thể.
Là một ngân hang cổ phần đang còn trẻ nhưng ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) đã đạt được những thành tựu to lớn. Tuy các sản phẩm cho vay tiêu dùng của Sacombank hiện nay còn chưa đa dạng, chất lượng còn khiêm tốn nhưng tiềm năng phát triển của nó thì rất lớn. Xuất phát từ lý do trên,qua một thời gian thực tập tai ngân hàng Sài Gòn Thương Tín, đi sâu tìm hiểu những nội dung, biện pháp mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng em đã chọn đề tài "Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương tín (sacombank)” làm chuyên đề thực tập.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài của em được chia làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hang Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương tín (Sacombank)
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại Sacombank
70 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4052 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín SacomBank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong cơ chế thị trường, nền kinh tế hàng hoá phát triển rất đa dạng và phong phú, ngành Ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng đặc biệt là các NHTM.Sự ra đời của các ngân hàng thương mại đã đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển nền kinh tế. Nó là cầu nối, là người dẫn vốn cho các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Chính vì vậy, để phát triển nền kinh tế nhằm đạt được những mục tiên đã đề ra thì một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu phải thực hiện là củng cố và lành mạnh hoá hoạt động của hệ thống tài chính tiền tệ nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng.
Để hòa chung vào sự phát tiển kinh tế đất nước, qua rất nhiều năm, hệ thống ngân hàng thương mại đã có những chuyển biến rõ rệt và không ngừng đổi mới, hoàn thiện và hiện đại hóa các nghiệp vụ đặc biệt là nghiệp vụ cho vay. Hoạt động cho vay luôn được coi là hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại, có vai trò quan trọng tạo ra nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng và giúp ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động một cách hiệu quả nhất.Sự phát triển của nền kinh tế thị trường và sự ra đời của các ngân hàng thương mại cô phần thì hàng loạt các sản phẩm cho vay đã ra đời làm cho các sản phẩm cho vay của ngân hàng ngày một đa dạng phong phú. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế,mức sống của người dân ngày càng cao, nhu cầu tiêu dùng của họ vì thế mà cũng tăng lên theo đó cho vay tiêu dùng ra đời và ngày một trở thành mục tiêu mà các ngân hàng hướng tới.có thể nối chưa bao giờ thị trường cho vay tiêu dùng lại sôi động như hiện nay.Các ngân hàng liên tục đưa ra các sản phẩm mới, ngày càng hoàn thiện sản phẩm của mình tạo cho khách hàng được phục vụ tốt nhất có thể.
Là một ngân hang cổ phần đang còn trẻ nhưng ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) đã đạt được những thành tựu to lớn. Tuy các sản phẩm cho vay tiêu dùng của Sacombank hiện nay còn chưa đa dạng, chất lượng còn khiêm tốn nhưng tiềm năng phát triển của nó thì rất lớn. Xuất phát từ lý do trên,qua một thời gian thực tập tai ngân hàng Sài Gòn Thương Tín, đi sâu tìm hiểu những nội dung, biện pháp mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng em đã chọn đề tài "Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương tín (sacombank)” làm chuyên đề thực tập.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài của em được chia làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hang Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương tín (Sacombank)
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại Sacombank
Để hoàn thành được khóa luân này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, em đã nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình của TS Nguyễn Việt Cường cùng với sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của các anh chị phòng tín dụng ngân hàng Sài Gòn Thương Tín. Em xin gửi lời cảm ơn tới thầy giáo và các anh chị cán bộ tại đơn vị thực tập.
Chương I
Tổng quan về hoạt động cho vay tiêu dùng
của ngân hàng thương mại
NHTM và hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Khái niệm ngân hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại là một trong những loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ngân hàng – một trung gian tài chính cung ứng vốn chủ yếu, hữu hiệu cho nền kinh tế.
Các định nghĩa về ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào khác trong nền kinh tế. Cũng có những định nghĩa nói về hoạt động ngân hàng . Chẳng hạn, Luật các Tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Ngân hàng thương mại từ chỉ cho vay ngắn hạn là chủ yếu đã mở rộng cho vay trung và dài hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản, cho vay tiêu dùng, kinh doanh chứng khoán, cho thuê…Bên cạnh việc đa dạnh hóa các hình thức cho vay, các hình thức huy động tiền gửi, ngân hàng cũng mở rộng các hình thức vay như: vay NHTW, các ngân hàng khác.
Cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ đã góp phần làm thay đổi các hoạt động cơ bản của ngân hàng. Thanh toán điện tử thay thế dần thanh toán thủ công, đẩy nhanh tốc độ, những thuận tiện, an toàn trong thanh toán. Các loại thẻ đang thay thế dần tiền giấy và dịch vụ ngân hàng 24h, dịch vụ ngân hàng tại nhà đang ngày càng tạo ra nhiều tiện ích ngày càng lớn cho người dân.
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại:
1.1.2.1 Khái niệm:
Cho vay là hoạt động mà ngân hàng thương mại tài trợ vốn trực tiếp cho các cá nhân và tổ chức để hình thành các tài sản (ngân hàng tham gia vào quyết định sử dụng vốn của người vay vốn) và là một trong các hoạt động tín dụng (có cam kết hoàn trả gốc và lãi từ người nhận vốn).
1.2.1.2 Các hình thức cho vay của ngân hàng thương mại:
Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản vay theo từng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định.Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao quy trình quản trị rủi ro tín dụng.
Phân loại cho vay dựa theo các tiêu chí sau đây:
*Thời hạn cho vay: gồm 3 loại
-Cho vay ngắn hạn: là hình thức cho vay có thời hạn nhỏ hơn 12 tháng và được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
-Cho vay trung hạn: thời hạn vay trên 12 tháng tới 5 năm. Cho vay trung hạn chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.trong nông nghiệp, chủ yếu cho vay trung hạn để đầu tư vào các đối tượng sau:máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê,điều …
Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là của các doanh nghiệp vừa mới thành lập.
-Cho vay dài hạn: thời hạn cho vay thường trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên tới 20-30 năm, một số trường hợp cá biệt có thể lên đến 40 năm.Tín dụng dài hạn được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn…
Tuy nhiên cũng có khoản cho vay không xác định trước được thời hạn như cho vay luân chuyển. Khách hàng thỏa thuận với ngân hàng về việc ngân hàng được quyền trích tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán để thu nợ khi tài khoản có tiền. Việc xác định trước thời hạn thu nợ trong trường hợp này sẽ gây khó khăn cho khách hàng trong việc tiêu thụ sản phẩm.
*Phân loại theo mức độ tín nhiệm với khách hàng: gồm 2 loại
-Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Loại tín dụng này thường được cấp cho khách hàng có uy tín lớn, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính lành mạnh, thường xuyên làm ăn có lãi, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với qui mô vốn của người vay.Các khoản vay theo chỉ thị của chính phủ mà chính phủ yêu cầu không cần tài sản đảm bảo, các khoản vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn hoặc những khoản vay trong thời hạn ngắn mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng…cũng có thể không cần tài sản đảm bảo.
Tuy nhiên khách hàng vay không bảo đảm phải hội đủ các điều kiện sau:
+Có tín nhiệm với tổ chức tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ,đúng hạn cả gốc và lãi.
+Có dự án đầu tư,hoặc phương án sản xuất,kinh doanh,dịch vụ khả thi có khả năng hoàn trả nợ,hoặc có dự án,phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với quy định của pháp luật.
+Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
+Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng;cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo đảm bằng tài sản.
-Cho vay có tài sản bảo đảm: là loại vay dựa trên các bảo đảm như thế chấp,cầm cố hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba. Sự bảo đảm cho phép các ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất từ quá trình sản xuất kinh doanh của khách hàng không đủ để trả nợ ngân hàng. Hình thức này thường áp dụng với các khách hàng chưa có uy tín hoặc uy tín không cao đối với ngân hàng.
*Phân loại theo mục đích cho vay:
-Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan tới việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở đất đai, bất động sản trong lĩnh vực thương mại dịch vụ…
-Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp,thương mại,dịch vụ.
-Cho vay nông nghiệp: là cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón,thuốc trừ sâu,giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu…
-Cho vay các định chế tài chính: cấp tín dụng cho các ngân hàng ,công ty tài chính cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài chính khác…
-Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền và các khoản vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống.
*Phân loại cho vay theo hình thức cho vay:
-Thấu chi:là nghiệp vụ mà qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi vượt quá số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định, giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Đây là hình thức tín dụng tạo điều kiện cho khách hàng trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh, kịp thời.là hình thức tín dụng linh hoạt, ngắn hạn, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có bảo đảm, có thể cấp cho cả doanh nghiệp và cá nhân vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi trả các khoản phải nộp, mua hàng.
-Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay của ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi.ngân hàng cho vay với điều kiện khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay.Từ đó, ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay.Thời hạn giải ngân,thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu bảo đảm nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành hồ sơ khác nhau. Trong quá trình khách hàng sử dụng vốn vay,ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả sử dụng.nếu thấy có dấu hiệu vi phạm thì ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc luân chuyển nợ quá hạn.
-Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng.hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Hạn mức tín dụng là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Điều kiện cho vay theo hạn mức: mỗi lần vay, khách hàng phải trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng.
Hạn mức tín dụng được cấp dựa trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh,nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Trong kỳ, khách hàng có thể thực hiện vay-trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng.
-Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa.doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng.
Đầu năm hoặc cuối quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển.ngân hàng và khách hàng sẽ phải thỏa thuận với nhau về hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Kỳ hạn tín dụng có thể được thỏa thuận trong một năm hoặc vài năm. Đây không phải thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng,và tình hình tài chính của khách hàng để quyết định có cho vay nữa hay không. Người vay cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản thu bán hàng đều dược dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hóa đơn nhập hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán.giá trị hàng hóa mua vào (có hóa đơn,hợp pháp, hợp lệ, đúng đối tượng) đều là đối tượng được ngân hàng cho vay, thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tùy theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của người cho vay. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay-trả thường xuyên với ngân hàng.
-Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận.
Điều kiện để cho vay trả góp là khách hàng đến ngân hàng làm đơn xin cho vay trả góp ngân hàng sẽ phân tích tình hình tài chính, điều kiện về bản thân khách hàng, cùng với việc xem xét về hàng hóa mà khách hàng mua trả góp, nếu thỏa mãn điều kiện thì ngân hàng sẽ cấp tín dụng cho khách hàng. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản cho vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền.
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định.ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ đối với số hàng hóa mà khách hàng đã mua trả góp. Vì đây là một hình thức tín dụng tài trợ cho người mua, từ đó khuyến khích tiêu thụ hàng hóa.
*Phân loại dựa vào nguồn gốc của khoản vay: gồm 2 loại
-Cho vay trực tiếp: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
-Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
Cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại là hình thức ngân hàng tài trợ cho các cá nhân, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, tạo cho người tiêu dùng khả năng thanh toán trước khi họ tích lũy đủ.
Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài chính quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình và xe cộ…Bên cạnh đó, những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục, y tế và du lịch…cũng có thể được tài trợ bởi cho vay tiêu dùng.
"Cho vay tiêu dùng" cách đây khoảng 20 mươi năm về trước còn là khái niệm "khá mới" đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD) Việt Nam, nhưng chỉ một vài năm trở lại đây, hoạt động cho vay tiêu dùng đã trở thành mục tiêu của nhiều TCTD, nhất là các TCTD ngoài nhà nước. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, đời sống của nhân dân đã được cải thiện đáng kể, nhu cầu chi tiêu phục vụ đời sống ngày càng cao, đó là điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng nói chung, lĩnh vực cho vay tiêu dùng nói riêng phát triển. Nếu như ở các nước phát triển, tỷ trọng cho vay tiêu dùng thường chiếm khoảng từ 40% đến 50% trên tổng dư nợ, thì tỷ lệ này của các TCTD Việt Nam hiện chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 5% trên tổng dự nợ tín dụng. Qua đó cho thấy, với tốc độ phát triển kinh tế mạnh mẽ như hiện nay và với số dân trên 82 triệu người đang mở ra thị trường cho vay tiêu dùng vô cùng rộng lớn và đầy tiềm năng
1.2.2 Xu hướng cho vay tiêu dùng
Cách đây 20 năm cho vay tiêu dùng đang còn là một khái niệm rất mới mẻ đối với tầng lớp dân cư nhưng những năm gần đây nó đã và đang trở thành mục tiêu của các tổ chức tín dụng nói chung cũng như các ngân hàng nói riêng.
Thật vậy, nền kinh tế nước ta đang ngày một phát triển đồng nghĩa với sự tăng lên thu nhập của tầng lớp dân cư kéo theo đó là nhu cầu cho vay tiêu dùng gia tăng mạnh mẽ. Gắn liền với nhu cầu về hàng tiêu dùng lâu bền như nhà,xe,đồ gỗ sang trọng,nhu cầu du lịch…Tuy nhiên không phải lúc nào người dân cũng có thể đáp ứng được mọi nhu cầu của bản thân do không đủ khả năng thanh toán. Đôi lúc vì thế mà chúng ta đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội.vì vậy cho vay tiêu dùng thực sự rất cần thiết để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.và không một tổ chức nào đảm nhiệm vị trí này tốt bằng các trung gian tài chính, mà quan trọng nhất là các ngân hàng thương mại.
Mặt khác ,nhiều doanh nghiệp, nhiều hãng lớn hiện nay khi thiếu vốn tự tài trợ chủ yếu bằng phát hành cổ phiếu và trái phiếu mà không sử dụng dịch vụ của ngân hàng rồi ngày càng nhiều các công ty tài chính , các ngân hàng cổ phần ra đời cạnh tranh với ngân hàng trong cho vay làm thị phần cho vay các doanh nghiệp của ngân hàng bị giảm sút trong khi đó thì ngày một đông đảo số lượng khách hàng có nhu cầu vay tiêu dùng. Vậy thì không có lý do gì để ngân hàng không mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng nhằm đem lại lợi nhuận cao hơn cho ngân hàng, tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác
Hơn nữa, với mức sống ngày một tăng lên ngày càng nhiều người tiêu dùng có thu nhập đều đặn (tiền công) để trả nợ ngân hàng. Một số tầng lớp người tiêu dùng có thu nhập khá hoặc cao, thu nhập tương đối ổn định. Vay tiêu dùng giúp họ nâng cao mức sống tăng khả năng được đào tạo…giúp họ nhiều cơ hội tìm kiếm công việc có mức thu nhập cao hơn.
1.2.3 Đặc điểm cho vay tiêu dùng
1.2.3.1 Quy mô khoản vay tiêu dùng nhỏ nhưng số lượng lớn
Quy mô mỗi món vay tiêu dùng thường nhỏ hơn so với món vay kinh doanh. Sở dĩ có đặc điểm này là do giá trị của các mặt hàng tiêu dùng thường không lớn ( trừ bất động sản) và khoản vay chỉ để bổ sung cho lượng nhỏ còn thiếu trong số vốn mà khách hàng đã có sẵn để phục vụ mục đich tiêu dùng. Thêm vào đó, các ngân hàng đều có quy định chặt chẽ về hạn mức tín dụng tiêu dùng bởi độ rủi ro khi cho vay theo hình thức này khá cao. Tuy nhiên, nhu cầu chi tiêu của con người là rất lớn và thường xuyên, vì vậy số lượng các món vay tiêu dùng lớn, nhờ đó ngân hàng thu được lợi nhuận đáng kể từ hoạt động tín dụng này.
1.2.3.2 Chi phí quản lý món vay tiêu dùng lớn
Đối với mỗi món vay, ngân hàng đều phải bỏ chi phí để thẩm định; giải ngân; kiêm tra giám sát khoản vay, thu nợ…Vì quy mô món vay tiêu dùng nhỏ hơn rất nhiều so với quy mô món vay kinh doanh nên chi phí quản lý trên một đồng vốn huy động được từ mỗi món vay lớn hơn so với món vay kinh doanh.
1.2.3.3 Lãi suất cho vay tiêu dùng cao hơn lãi suất của các loại cho vay trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp:
Có hai yếu tố để xác định lãi suất cho vay đó là chi phí khoản vay, độ rủi ro.Theo hệ thống tính toán thì khoản mục cho vay tiêu dùng có chi phí lớn nhất và rủi ro cao nhất trong danh mục cho vay của ngân hàng. Vì vậy, lãi suất cho vay tiêu dùng cao hơn lãi suất các loại cho vay khác.
1.2.3.4 Nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế
Cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm theo chu kỳ. Khác với cho vay sản xuất kinh doanh nhu cầu vay luôn cần thiết bất kể nền kinh tế đang ở trạng thái nào ( Khi nền kinh tế tăng trưởng, các doanh nghiệp cần thiết vay để đầu tư,khi nền kinh tế suy thoái, các doanh nghiệp, nhà sản xuất cần vay để ổn định, phục hồi sản xuất kinh doanh) Trong khi đó, khi nền kinh tế tăng trưởng ,sản xuất mở rộng, tỷ lệ thất nghiệp giảm, thu nhập của người dân tăng lên, đời sống được cải thiện, mọi người dân cảm thấy lạc quan về tương lai, nhu cầu mua sắm hàng hoá dịch vụ nhờ đó tăng lên, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng. Ngược lại khi nền kinh tế suy thoái, sản xuất trì trệ nhất là khi tình trạng thất nghiệp tăng lên làm cho thu nhập và mức sống dân cư giảm sút, nhu cầu tiêu dùng cũng giảm theo, dẫn đến tín dụng tiêu dùng bị thu hẹp. Như vậy, cho vay tiêu dùng phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế.
1.2.3.5 Các khoản cho vay