Mở cửa và giao lưu thương mại đã trở thành xu hướng phát triển của hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay. Mỗi quốc gia đều tham gia tích cực hơn vào thương mại quốc tế để tận dụng mọi nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế. Bởi vậy, khi thương mại quốc tế càng phát triển thì vai trò của ngân hàng càng lớn. Ngân hàng đã trở thành cầu nối vô cùng quan trọng, nó là trung gian tài chính, thanh toán cho các chủ thể khi tham gia vào hoạt động ngoại thương.
Hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng trở nên vô cùng cần thiết trong kinh tế đối ngoại, đặc biệt đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Ngày nay hoạt động thanh toán được coi là một chỉ tiêu khá rõ nét để đánh giá mức độ phát triển, hội nhập đối với hoạt động ngoại thương của một quốc gia nói chung và của từng ngân hàng thương mại nói riêng. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, khi hoạt động ngoại thương càng phức tạp bao nhiêu thì hoạt động thanh toán quốc tế cũng phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro hơn.
Với tốc độ phát triển của hoạt động thanh toán quốc tế trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng, Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam đã tham gia tích cực và luôn luôn chú trọng đến việc mở rộng hoàn thiện nghiệp vụ của mình. Chính vì vậy hoạt động của ngân hàng luôn đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng trong thanh toán quốc tế và Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam đã trở thành một trong những trung tâm thanh toán quốc tế lớn của nước ta, đồng thời nó luôn khẳng định vai trò chủ lực của mình trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Là một mắt xích quan trọng trong mạng lưới hoạt động, NHNo&PTNT chi nhánh Tây Hà Nội ngay từ khi thành lập cũng luôn coi thanh toán quốc tế là một trong những nghiệp vụ quan trọng hàng đầu và luôn dành sự đầu tư thích đáng. Do vậy, ngân hàng đã đạt được một số kết quả khả quan quan trọng trong hoạt động kinh doanh nhưng bên cạnh đó cũng có những tồn tại cần khắc phục. Chính vì vậy sau khi thực tập với mục đích tìm hiểu thực tế hoạt động thanh toán quốc tế tại chi nhánh và những tồn tại nhằm tìm ra giải pháp khắc phục, phát triển hơn nữa hoạt động này, đề tài: “Phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại chi nhánh Tây Hà Nội của NHNo&PTNT Việt Nam” được em chọn làm chuyên đề tốt nghiệp. Chuyên đề gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động thanh toán quốc tế của hệ thống ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng nông nhiệp Tây Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp phát tiển hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng nông nghiệp Tây Hà Nội.
75 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2104 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại chi nhánh Tây Hà Nộ của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Mở cửa và giao lưu thương mại đã trở thành xu hướng phát triển của hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay. Mỗi quốc gia đều tham gia tích cực hơn vào thương mại quốc tế để tận dụng mọi nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế. Bởi vậy, khi thương mại quốc tế càng phát triển thì vai trò của ngân hàng càng lớn. Ngân hàng đã trở thành cầu nối vô cùng quan trọng, nó là trung gian tài chính, thanh toán cho các chủ thể khi tham gia vào hoạt động ngoại thương.
Hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng trở nên vô cùng cần thiết trong kinh tế đối ngoại, đặc biệt đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Ngày nay hoạt động thanh toán được coi là một chỉ tiêu khá rõ nét để đánh giá mức độ phát triển, hội nhập đối với hoạt động ngoại thương của một quốc gia nói chung và của từng ngân hàng thương mại nói riêng. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, khi hoạt động ngoại thương càng phức tạp bao nhiêu thì hoạt động thanh toán quốc tế cũng phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro hơn.
Với tốc độ phát triển của hoạt động thanh toán quốc tế trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng, Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam đã tham gia tích cực và luôn luôn chú trọng đến việc mở rộng hoàn thiện nghiệp vụ của mình. Chính vì vậy hoạt động của ngân hàng luôn đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng trong thanh toán quốc tế và Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam đã trở thành một trong những trung tâm thanh toán quốc tế lớn của nước ta, đồng thời nó luôn khẳng định vai trò chủ lực của mình trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Là một mắt xích quan trọng trong mạng lưới hoạt động, NHNo&PTNT chi nhánh Tây Hà Nội ngay từ khi thành lập cũng luôn coi thanh toán quốc tế là một trong những nghiệp vụ quan trọng hàng đầu và luôn dành sự đầu tư thích đáng. Do vậy, ngân hàng đã đạt được một số kết quả khả quan quan trọng trong hoạt động kinh doanh nhưng bên cạnh đó cũng có những tồn tại cần khắc phục. Chính vì vậy sau khi thực tập với mục đích tìm hiểu thực tế hoạt động thanh toán quốc tế tại chi nhánh và những tồn tại nhằm tìm ra giải pháp khắc phục, phát triển hơn nữa hoạt động này, đề tài: “Phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại chi nhánh Tây Hà Nội của NHNo&PTNT Việt Nam” được em chọn làm chuyên đề tốt nghiệp. Chuyên đề gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động thanh toán quốc tế của hệ thống ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng nông nhiệp Tây Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp phát tiển hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng nông nghiệp Tây Hà Nội.
CHƯƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. Hoạt động cơ bản của các ngân hàng thương mại.
Để bắt kịp với sự phát triển của nền kinh tế quốc tế, thị trường tài chính của các nước trên thế giới đã dần hình thành hàng loạt các trung gian tài chính như công ty bảo hiểm, công ty tài chính, công ty chứng khoán…Các trung gian tài chính này đã làm cho thị trường trở nên sôi động hơn, bên cạnh đó chúng cũng chiếm giữ thị phần lớn vốn là độc quyền của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên không thể phủ nhận rằng với vai trò là một trung gian tài chính lâu đời, các ngân hàng thương mại vẫn luôn giữ một vị thế vô cùng quan trọng trên thị trường tài chính.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, cung cấp các danh mục tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiền gửi và các dịch vụ thanh toán.
Một ngân hàng đạt được thành công là một ngân hàng cung cấp đầy đủ những dịch vụ tài chính mà xã hội cần, đồng thời thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả nhất. Các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng bao gồm: nhận tiền gửi, mua bán ngoại tệ, cho vay, bảo quản tài sản hộ, cung cấp các khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý ngân quỹ, bảo lãnh, cho thuê, tài trợ các dự án của chính phủ, cung cấp các dịch vụ uỷ thác, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đầu tư chứng khoán, …
Dịch vụ mà ngân hàng cung cấp rất đa dạng bởi vậy luôn đáp ứng mọi nhu cầu có liên quan tới việc sử dụng đồng tiền của khách hàng, đồng thời tạo ra thu nhập cho chính ngân hàng. Trong những dịch vụ của mình ngân hàng quan tâm nhiều nhất là thực hiện thanh toán ở đây khách hàng uỷ thác cho ngân hàng thanh toán hộ hoặc thu hộ giá trị hàng hoá và dịch vụ. Thông qua đó ngân hàng mở rộng được mối quan hệ đối với khách hàng, vừa có thêm một lượng vốn để cho vay hoặc đầu tư vào các dự án, tài trợ thanh toán cho khách hàng vừa tăng thu từ phí hoạt động giao dịch. Ngoài ra, ngân hàng còn thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch với các đối tác nước ngoài và hoạt động này chính là hoạt động thanh toán quốc tế. Do tính chất phức tạp của hoạt động thanh toán quốc tế đòi hỏi sự chặt chẽ, chính xác mà vai trò của ngân hàng ngày càng trở nên quan trọng.
1.2. Hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của thanh toán quốc tế.
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và quyền hưởng lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân nước này với tổ chức, cá nhân nước khác hay giữa một quốc gia với tổ chức quốc tế thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước có liên quan.
Khác với hoạt động thanh toán trong nước thanh toán quốc tế có một số đặc điểm riêng sau:
Một là, chủ thể tham gia vào hoạt động thanh toán quốc tế tại các quốc gia khác nhau. Thông thường mỗi giao dịch thanh toán quốc tế có liên quan tới tối thiểu là hai quốc gia.
Hai là, hoạt động thanh toán liên quan tới hệ thống luật pháp của các quốc gia khác nhau thậm chí là đối nghịch nhau. Do tính phức tạp đó các bên tham gia vào thanh toán thường lựa chọn các quy phạm pháp luật mang tính thống nhất và theo thông lệ quốc tế.
Ba là, đồng tiền dùng trong giao dịch thanh toán quốc tế thông thường tồn tại dưới hình thức các phương tiện thanh toán như: hối phiếu, séc, thẻ, chuyển khoản…, có thể là đồng tiền của nước thứ ba và thường là loại ngoại tệ được tự do chuyển đổi.
Bốn là, ngôn ngữ được sử dụng trong thanh toán quốc tế phổ biến là tiếng Anh.
Năm là, thanh toán quốc tế đòi hỏi trình độ chuyên môn cao, trình độ công nghệ tương xứng với trình độ quốc tế.
Sáu là, hoạt động thanh toán quốc tế chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn. Không gian thanh toán rộng, thời gian tương đối dài, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ không đồng đều, trình độ nguồn nhân lực tham gia thanh toán quốc tế giữa các quốc gia chênh lệch rất lớn. Bởi vậy, có thể coi đó là một trong những nguyên nhân phát sinh rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế.
1.2.2. Các phương thức thanh toán quốc tế.
Đối với một hợp đồng thanh toán quốc tế thì phương thức thanh toán là một trong những điều kiện quan trọng nhất. Phương thức thanh toán là một cách thức nhất định để người bán thu được tiền thanh toán nhanh, an toàn và người mua trả được tiền nhận được hàng chuẩn xác đủ về số lượng đúng về chất lượng, thời hạn như trong hợp đồng đã ký.
Tuỳ vào mỗi quốc gia, hoàn cảnh cụ thể, các bên đối tác trong quan hệ thanh toán sẽ lựa chọn và thoả thuận về cách sử dụng phương thức thanh toán.
1.2.2.1. Thanh toán bằng phương thức chuyển tiền.
- Khái niệm: Thanh toán bằng chuyển tiền là phương thức thanh toán trong đó khách hàng (người nhập khẩu) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền cho người khác (người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu.
- Các bên tham gia vào thanh toán:
Người yêu cầu chuyển tiền (remitter): là người yêu cầu ngân hàng thay mình thực hiện chuyển tiền cho đối tác ở nước ngoài thường là người mua, người trả nợ hoặc nhà đầu tư yêu cầu chuyển vốn, kinh phí ra nước ngoài.
Người thụ hưởng (beneficiary): là người đựơc nhận số tiền chuyển tới thông qua ngân hàng, thường là nhà xuất khẩu hoặc người tiếp nhận đầu tư do người chuyển tiền chỉ định.
Ngân hàng nhận uỷ nhiệm chuyển tiền (remitting bank): là ngân hàng phục vụ người chuyển tiền.
Ngân hàng trả tiền (paying bank): là ngân hàng trực tiếp trả tiền cho người thụ hưởng thông thường là ngân hàng đại lý.
- Đặc điểm:
Trong phương thức chuyển tiền thủ tục đơn giản, phí thanh toán cao thường được áp dụng với những lô hàng có giá trị nhỏ hoặc phí dịch vụ ngoại thương như phí vận tải, bảo hiểm hoặc hoa hồng.
Ngân hàng khi thực hiện chuyển tiền hoặc trả tiền chỉ đóng vai trò trung gian thanh toán để hưởng hoa hồng (ở đây là phí dịch vụ) và không bị ràng buộc với người mua và người bán.
Việc chuyển tiền được hoàn tất khi thanh toán hết số tiền cho người thụ hưởng; trước thời điểm thanh toán, số tiền này trong tài khoản vẫn thuộc quyền sở hữu của người chuyển tiền và họ có quyền huỷ bỏ lệnh chuyển tiền mà người thụ hưởng không thể khiếu nại với ngân hàng. Như vậy, việc trong hình thức thanh toán này phụ thuộc vào thiện chí của người mua nên lúc này quyền lợi của người bán không được đảm bảo.
Người mua cũng có thể gặp rủi ro trong trường hợp thanh toán trước tiền hàng cho người bán, vì người mua buộc phải có một lượng vốn lưu động bị ghim giữ trong một thời gian dài. Hơn nữa nếu hàng hoá kém chất lượng hay người sản xuất bị phá sản hoặc tình hình chính trị của nước người bán bất ổn thì người bán không còn khả năng giao hàng cho người mua.
- Hình thức chuyển tiền: thanh toán theo phương thức chuyển tiền được thực hiện dưới hai hình thức.
+ Chuyển tiền bằng thư: là hình thức trong đó lệnh thanh toán của ngân hàng chuyển tiền được thể hiện trong nội dung 1 bức thư mà ngân hàng này yêu cầu ngân hàng thanh toán thực hiện. Thư chuyển tiền là chỉ thị của ngân hàng chuyển tiền đối với ngân hàng thanh toán yêu cầu ngân hàng này chi trả một khoản tiền được ấn định cho người thụ hưởng được chỉ định trong thư.
+ Chuyển tiền bằng điện: là hình thức chuyển tiền trong đó lệnh thanh toán của ngân hàng chuyển tiền được thể hiện trong nội dung của một bức điện mà ngân hàng này gửi cho ngân hàng thanh toán thông qua truyền tin của mạng viễn thông như SWIFT.
- Ưu, nhược điểm của phương thức chuyển tiền.
+ Ưu điểm: Phương thức thanh toán chuyển tiền là phương thức tương đối đơn giản, thủ tục nhanh gọn.
+ Nhược diểm: Phương thức này đòi hỏi quan hệ giao dịch giữa người mua và người bán là hoàn toàn tin tưởng lẫn nhau nên mức độ rủi ro là cao nếu một trong hai phía có ý đồ không trung thực trong quan hệ giao dịch.
1.2.2.2. Phương thức thanh toán mở tài khoản.
- Khái niệm: Nhà xuất khẩu mở tài khoản để ghi nợ nhà nhập khẩu sau khi nhà xuất khẩu đã hoàn thành giao hàng hóa dịch vụ, định kỳ sau khi kiểm tra, đối chiếu theo thoả thuận giữa hai bên nhà hập khẩu trả tiền cho nhà xuất khẩu.
- Đặc điểm của phương thức:
Đây là phương thức không có sự tham gia của ngân hàng với chức năng là người mở tài khoản và thực thi thanh toán.
Chỉ mở tài khoản đơn biên không mở tài khoản song biên.
Nhà nhập khẩu mở tài khoản thì tài khoản này chỉ là tài khoản theo dõi không có giá trị thanh quyết toán.
Chỉ có hai bên tham gia thanh toán là nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu.
Do những đặc điểm trên mà phương thức mở tài khoản chỉ áp dụng trong trường hợp người mua và người bán thực sự tin tưởng lẫn nhau hoặc dùng trong mua bán hàng đổi hàng nhiều lần, thường xuyên trong một thời gian nhất định, thanh toán tiền gửi bán hàng ở nước ngoài, thanh toán phi mậu dịch.
1.2.2.3. Phương thức thanh toán nhờ thu.
- Khái niệm: là phương thức thanh toán mà nhà xuất khẩu sau khi giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ cho nhà nhập khẩu tiến hành uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền trên cơ sở hối phiếu hoặc chứng từ do nhà xuất khẩu lập.
- Các bên tham gia vào thanh toán:
Người có yêu cầu uỷ nhiệm thu: người cung ứng dịch vụ.
Ngân hàng nhận uỷ thác thu: ngân hàng phục vụ bên bán.
Ngân hàng xuất trình: ngân hàng thu hộ.
Người trả tiền: người nhập khẩu.
- Các hình thức nhờ thu:
+ Nhờ thu trơn: là phương thức thanh toán trong đó nhà xuất khẩu uỷ thác cho ngân hàng phục vụ thu hộ tiền từ nhà nhập khẩu căn cứ vào hối phiếu do chính nhà xuất khẩu lập, các chứng từ thương mại có liên quan giao dịch nhà xuất khẩu đã chuyển giao trực tiếp cho nhà nhập khẩu không qua ngân hàng.
Phương thức này không được áp dụng nhiều trong thanh toán mậu dịch do phương thức này không đảm bảo quyền lợi cho nhà xuất khẩu khi nhà nhập khẩu có thể nhận hàng mà không trả tiền hoặc trả chậm tiền. Tuy nhiên, nhà nhập khẩu cũng có rủi ro khi hối phiếu đến sớm hơn chứng từ thì họ sẽ phải trả tiền ngay mà không chắc việc giao hàng của nhà xuất khẩu có đúng hợp đồng không.
+ Nhờ thu kèm chứng từ: là phương thức thanh toán, nhà xuất khẩu uỷ nhiệm cho ngân hàng thu hộ tiền từ nhà nhập khẩu không chỉ căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hoá gửi kèm theo với điều kiện nếu nhà xuất khẩu trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền sẽ trao bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu nhận hàng.
Trong nhờ thu kèm chứng từ nhà xuất khẩu uỷ thác cho ngân hàng ngoài việc thu hộ tiền còn nhờ ngân hàng khống chế chứng từ gửi hàng đối với nhà nhập khẩu, đây là sự khác biệt cơ bản của hai phương thức nhờ thu trơn và nhờ thu kèm chứng từ. Với điều kiện này quyền lợi của nhà xuất khẩu được đảm bảo hơn.
Nhà xuất khẩu thông qua ngân hàng khống chế quyền định đoạt hàng hoá của nhà nhập khẩu nhưng không thể khống chế việc trả tiền của họ. Nhà nhập khẩu vẫn có thể kéo dài việc trả tiền bằng cách chưa nhận được chứng từ hoặc có thể không trả tiền nếu có những vấn đề về kinh tế, chính trị bất lợi cho họ.
Việc trả tiền đôi khi còn chậm có thể kéo dài từ vài tháng đến một năm không những vậy ngân hàng chỉ có vai trò trung gian chứ không có trách nhiệm trong việc trả tiền của nhà nhập khẩu.
- Ưu, nhược điểm của phương thức nhờ thu.
+ Ưu điểm: Trong thanh toán mậu dịch phương thức nhờ thu trơn ít được sử dụng vì không đảm bảo quyền lợi cho người bán do quá trình nhận hàng tách khỏi khâu thanh toán khiến người bán có thể không nhận được tiền do người mua chậm trễ thanh toán khi đã nhận được hàng hoặc ngược lại người mua nếu nhận được hối phiếu sớm cũng phải thanh toán mà không chắc việc giao hàng có đúng như các điều khoản thoả thuận hay không. Chính vì vậy, phương thức nhờ thu kèm chứng từ được sử dụng nhiều hơn trong TTQT nó có ưu điểm hơn là qua ngân hàng, ngân hàng khống chế chứng từ vận tải đối với người mua do vậy quyền lợi của cả người mua và bán cũng được đảm bảo hơn.
+ Nhược điểm: Tuy được áp dụng nhiều hơn nhưng phương thức nhờ thu kèm chứng từ có một số nhược điểm như:
Việc trả tiền đôi khi còn quả chậm khoảng thời gian từ lúc giao hàng và nhận tiền kéo dài nên gây rất nhiều khó khăn.
Ngân hàng trong phương thức này chỉ đóng vai trò trung gian thu tiền hộ còn lại không có trách nhiệm gì nếu người mua không trả tiền. Do vậy, người mua có thể kéo dài thời gian trả tiền nếu thấy tình huống bất lợi cho mình, điều này gây bất lợi cho người bán nếu đã giao hàng cho người mua.
1.2.2.4. Phương thức thanh toán tín dụng dụng chứng từ (L/C).
- Khái niệm: là phương thức thanh toán quốc tế được sử dụng rộng rãi nhất và ưu việt trong thanh toán quốc tế, là một sự thoả thuận trong đó ngân hàng (ngân hàng phát hành thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền cho người thụ hưởng hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định trong thư tín dụng.
Thư tín dụng là một cam kết thanh toán của ngân hàng cho nhà xuất khẩu nếu như họ xuất trình được bộ chứng từ phù hợp với các điều khoản và điều kiện của L/C.
- Các bên tham gia:
Người mở thư tín dụng là người mua, nhà nhập khẩu hàng hoá hoặc là người mua uỷ thác cho một người khác.
Ngân hàng phát hành thư tín dụng là ngân hàng đại diện cho người mua và ngân hàng cấp tín dụng cho người mua.
Ngân hàng thông báo là ngân hàng ở nước người hưởng lợi, ngân hàng này thông báo tín dụng thư cho người hưởng lợi một cách trực tiếp hoặc thông báo thông qua một ngân hàng khác.
Người hưởng lợi là người bán, nhà xuất khẩu hoặc bất kỳ người nào khác mà người hưởng lợi chỉ định.
Ngoài ra trong từng trường hợp còn có thể có sự tham gia của các ngân hàng khác như: ngân hàng xác nhận, ngân hàng chiết khấu, ngân hàng trả tiền…
- Đặc điểm của L/C:
Ngân hàng và các bên tham gia liên quan chỉ giao dịch trên cơ sở chứng từ không dựa trên hàng hoá và dịch vụ.
L/C phải chỉ rõ là huỷ ngang hay không huỷ ngang nếu không chỉ ra như vậy sẽ được coi là không huỷ ngang.
Chứng từ được coi như không phù hợp với các điều khoản trong L/C nếu: chứng từ mâu thuẫn với các điều khoản quy định trong L/C hay các chứng từ mâu thuẫn với nhau.
Ngân hàng phát hành có một khảng thời gian hợp lý không quá 7 ngày để kiểm tra chứng từ và xác định xem chứng từ có phù hợp hay kông phù hợp, nếu quá thời gian ngân hàng không có quyền thông báo sai sót.
Ngân hàng không chịu trách nhiệm kiểm tra chứng từ không quy định trong L/C.
Nếu ngân hàng từ chối chứng từ thì phải thông báo bằng phương tiện truyền thông trước lúc đóng cửa của ngày làm việc thứ 7.
Ngân hàng không chịu trách nhiệm về sự chậm trễ do phát sinh trong qua trình truyền tin.
- Các loại L/C:
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều loại thư tín dụng, tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa người mua và người bán mà họ sử dụng các loại thư tín dụng khác nhau.
* L/C có thể huỷ ngang: là loại L/C có thể sửa đổi hoặc huỷ bỏ mà không cần thông báo cho người hưởng lợi. Nó chứa đựng rủi ro đối với người bán vì việc sửa đổi hoặc huỷ thư tín dụng có thể xảy ra khi hàng hoá đang trên đường vận chuyển hoặc trước khi việc thanh toán được thực hiện. Vì vậy, loại L/C này rất ít được sử dụng vì cả người mua và người bán đều e ngại tính bấp bênh trong quá trình thanh toán.
* L/C không thể huỷ ngang: là loại L/C sau khi đã được ngân hàng mở thì không thể sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ trong thời gian hiệu lực của nó nếu chưa có sự thoả thuận của các bên tham gia. Tính đảm bảo của loại L/C này rất cao nên nó được dùng khá phổ biến trong thanh toán thương mại quốc tế, do trong quan hệ thanh toán quyền lợi của các bên tham gia thường mâu thuẫn với nhau.
* Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận: là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang, được một ngân hàng khác xác nhận, điều đó có nghĩa là ngoài sự cam kết của ngân hàng phát hành còn có thêm sự cam kết thanh toán của ngân hàng xác nhận. L/C này thường được sử dụng trong trường hợp hàng hóa dịch vụ do người bán cung cấp là hàng hoá dịch vụ khan hiếm rất cần thiết đối với người mua.
* L/C có điều khoản đỏ: là loại L/C trong đó có một điều khoản ghi rõ điều khoản đặc biệt ngân hàng phát hành sẽ chuyển tiền hoặc uỷ quyền cho ngân hàng thông báo thực hiện ứng trước cho người hưởng một số tiền nhất định trước khi giao hàng, thông thường số tiền ứng trước tính theo tỷ lệ % so với giá trị L/C và phải xuất trình chứng từ tại ngân hàng mà họ đã nhận tiền ứng trước và phải bồi hoàn lại số tiền này nếu không xuất trình đủ chứng từ hợp lệ trong thời hạn quy định.
* L/C tuần hoàn: là loại L/C không thể huỷ ngang mà sau khi sử dụng xong hoặc sau khi hết hạn hiệu lực L/C thì sẽ tự khôi phục lại giá trị như cũ mà không cần mở L/C mới. L/C tuần hoàn được dùng trong trường hợp hai bên mua và bán những mặt hàng có giá trị lớn, có mối quan hệ mua bán thường xuyên định kỳ hay ký một hợp đồng có giá trị lớn giao hàng làm nhiều lần, người bán tin cậy người mua. Loại L/C này có lợi cho người mua vì tiết kiệm được chi phí mở L/C làm nhiều lần giá trị một L/C mở nhỏ hơn, do đó người mua không bị ứ đọng vốn trong trường hợp phải ký quỹ.
* L/C chuyển nhượng: là một L/C mà người hưởng đầu tiên có thể yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần giá trị L/C gốc cho một hoặc nhiều người hưởng lợi thứ hai. Bởi trong hoạt động sản xuất thường có mối quan hệ tín dụng thương mại, một nhà sản xuất có thể m