Chuyên đề Phương pháp hạn chế nợ quá hạn tại ngân hàng đầu tư và phát triển Quảng Ninh

Thực hiện những cam kết quốc tế về lĩnh vực ngân hàng trong Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và gia nhập WTO đã và đang đặt ra cho hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam những thách thức vô cùng to lớn. Trong đó, ngân hàng là lĩnh vực hoàn toàn mở trong cam kết gia nhập WTO của Việt Nam. Đến năm 2010, lĩnh vực ngân hàng sẽ mở cửa hoàn toàn các dịch vụ cho khối ngân hàng nước ngoài. Bên cạnh việc gia nhập WTO, Việt Nam vẫn tiếp tục triển khai lộ trình thực hiện Hiệp định cam kết về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEFT/AFTA), tiến trình thực hiện Hiệp định song phương Việt- Mỹ. Để hội nhập thành công và không bị lép vế trên “sân nhà”, các NHTM, đặc biệt là các NHTM nhà nước - những đầu tàu, mũi nhọn của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, phải lành mạnh hóa tài chính theo chuẩn mực quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh.Một trong những yếu tố để nâng cao năng lực cạnh tranh đó là hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Lĩnh vực mang lại nhiều lợi nhuận cũng như nhiều rủi ro nhất trong hoạt động của ngân hàng là hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu trong tổng dư nợ của các ngân hàng thương mại Việt Nam đang ở mức rất cao so với nhiều ngân hàng các nước trong khu vực và trên thế giới. Đây chính là vấn đề nổi cộm, gây rất nhiều khó khăn cho hoạt động ngân hàng nói riêng và đe doạ sự ổn định của nền kinh tế nói chung. Do đó, nợ quá hạn và nợ xấu của hệ thống NHTM Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu, tìm các giải pháp xử lý.

doc75 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3150 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phương pháp hạn chế nợ quá hạn tại ngân hàng đầu tư và phát triển Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Thực hiện những cam kết quốc tế về lĩnh vực ngân hàng trong Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và gia nhập WTO đã và đang đặt ra cho hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam những thách thức vô cùng to lớn. Trong đó, ngân hàng là lĩnh vực hoàn toàn mở trong cam kết gia nhập WTO của Việt Nam. Đến năm 2010, lĩnh vực ngân hàng sẽ mở cửa hoàn toàn các dịch vụ cho khối ngân hàng nước ngoài. Bên cạnh việc gia nhập WTO, Việt Nam vẫn tiếp tục triển khai lộ trình thực hiện Hiệp định cam kết về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEFT/AFTA), tiến trình thực hiện Hiệp định song phương Việt- Mỹ. Để hội nhập thành công và không bị lép vế trên “sân nhà”, các NHTM, đặc biệt là các NHTM nhà nước - những đầu tàu, mũi nhọn của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, phải lành mạnh hóa tài chính theo chuẩn mực quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh.Một trong những yếu tố để nâng cao năng lực cạnh tranh đó là hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Lĩnh vực mang lại nhiều lợi nhuận cũng như nhiều rủi ro nhất trong hoạt động của ngân hàng là hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu trong tổng dư nợ của các ngân hàng thương mại Việt Nam đang ở mức rất cao so với nhiều ngân hàng các nước trong khu vực và trên thế giới. Đây chính là vấn đề nổi cộm, gây rất nhiều khó khăn cho hoạt động ngân hàng nói riêng và đe doạ sự ổn định của nền kinh tế nói chung. Do đó, nợ quá hạn và nợ xấu của hệ thống NHTM Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu, tìm các giải pháp xử lý. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “Phương pháp hạn chế nợ quá hạn tại ngân hàng ĐT&PT Quảng Ninh” để nghiên cứu. Chương 1 Nợ quá hạn và những biện pháp hạn chế nợ quá hạn của ngân hàng thương mại. 1.1 Rủi ro tín dụng và nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng của ngân hàng thương mại. 1.1.1 Những vấn đề chung về rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. 1.1.1.1 Đặc trưng trong kinh doanh ngân hàng. Là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực đặc biệt, hoạt động kinh doanh của NHTM có những đặc trưng cơ bản như sau: Ngân hàng thương mại là ngân hàng kinh doanh tiền gửi. Trên thị trường tài chính, NHTM là tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất, chuyển tải những khoản vốn huy động được trong xã hội đến những người có nhu cầu chi tiêu và đầu tư. Với chức năng bân đầu là nhận tiền gửi của xã hội, sau đó NHTM đã trở thành các chủ thể chuyên mua bán quyền sử dụng vốn. Ngày nay, có rất nhiều tổ chức cung cấp dịch vụ ngân hàng ra đời và phát triển. Song người ta vẫn phân biệt NHTM với các tổ chức tín dụng khác ở chỗ NHTM là ngân hàng kinh doanh tiền gửi. Cũng chính vì thế mà NHTM chủ yếu là cung cấp tín dụng ngắn hạn cho các khách hàng có nhu cầu vốn bổ sung. Hoạt động của NHTM có tính nhạy cảm cao và luôn chịu sự giám sát chặt chẽ của pháp luật. Kinh doanh ngân hàng dựa trên niềm tin, vì vậy tính nhạy cảm trong kinh doanh rất cao. Chỉ cần một biến động nhỏ cũng có thể gây tác động đối với họat động kinh doanh ngân hàng( một thay đổi nhỏ về lãi suất cũng có thể dẫn đến sự dịch chuyển khách hàng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác). Nếu ngân hàng hoạt động tốt sẽ góp phần tiết kiệm các nguồn lực, giảm thiểu chi phí cho xã hội, tạo điều kiên cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững, Ngược lại, khi ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những người gửi tiền, và sự phá sản của ngân hàng luôn có hiệu ứng dây truyền, lây lan rất lớn và tác động xấu đến đời sống kinh tế xã hội. Do hậu quả của việc phá sản ngân hàng đến nền kinh tế, cho nên hoạt động ngân hàng phải được giám sát chặt chẽ, thường xuyên bằng các luật định. Những qui chế giám sát phổ biến là: qui chế về phân phối tín dụng, qui chế về bảo vệ nhà đầu tư, qui chế về thành lập và cấp giấy phép kinh doanh cho các NHTM… Các sản phẩm, dịch vụ của NHTM mang tính tương đồng, dễ bắt chước và gắn chặt với yếu tố thời gian. Các sản phẩm dịch vụ mà NHTM cung cấp cho khách hàng rất đa dạng. Song phần lớn các sản phẩm của mỗi ngân hàng này lại tương đồng với các sản phẩm của các NHTM khác, đặc biệ là các sản phẩm truyền thống như: huy động vốn, cho vay, thanh tóan…Nếu có một NHTM vừa thực hiên một loại hình dịch vụ nào đó có hiệu quả thì ngay lập tức có thể bị các ngân hàng khác thực hiện theo ngay. Như vậy, khái niệm sản phẩm mới của NHTM phải được hiểu là sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng đó đưa ra thị trường các đối thủ cạnh tranh. Mặt khác, thời gian chính là yếu tố quan trọng thực hiện giá trị của sản phẩm, đồng thời cũng là một tron những yếu tố quyết định giá của sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Vì vậy, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng luôn gắn chặt với yếu tố thời gian. Khách hàng của ngân hàng rất đông đảo và đa dạng. Khách hàng của ngân hàng đông đảo và đa dạng, đòi hỏi của khách hàng đối với sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cũng rất khác nhau. Vì vậy, mỗi ngân hàng phải nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng phù hợp. Kinh doanh ngân hàng gắn liền với yếu tố rủi ro. Rủi ro có thể xảy ra đối với bất kì loại hình kinh doanh nào. Tuy nhiên, rủi ro trong kinh doanh ngân hàng có những điểm khác biệt với các lĩnh vực kinh doanh khác về mức độ và nguyên nhân. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng có tính lan truyền và để lại hậu quả to lớn, không chỉ bao gồm rủi ro nội tại của ngành, mà còn của tất cả các ngành khác trong nền kinh tế, không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà còn ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác. Những rủi ro thường gặp trong kinh doanh của ngân hàng là: rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh toán, rủi ro ngoại hối, rủi ro hoạt đông. 1.1.1.2. Các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Trong nện kinh tế thị trường, mọi hoạt động kinh doanh đều chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn. Hoạt động kinh doanh của NHTM cũng không tránh khỏi những rủi ro. Vậy rủi ro là gì? Rủi ro là sự kiện xảy ra ngòai ý muốn và ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh của NHTM. Do đặc điểm về đối tượng kinh doanh và tính hệ thống nên kinh doanh trong ngân hàng rủi ro cao hơn gấp bội phần so vơi doanh nghiệp trong các lĩnh vực kinh doanh khác. Những rủi ro tài chính cơ bản mà ngân hàng thường gặp phải là: a. Rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh khi một hoặc các bên tham gia hợp đồng tín dụng không có khả năng thanh tóan cho các bên còn lại. Đối với NHTM rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu hồi được đầy đủ cả gốc và lãi của các khỏan cho vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi vay không đúng thời hạn. Nếu tất cả các khoản cho vay của ngân hàng đều được thanh toán đầy đủ và đúng hạn cả gốc và lãi thì ngân hàng không bị rủi ro tín dụng. Ngược lại, nếu người vay tiền không có khả năng trả nợ hoặc cố ý không trả nợ thì rủi ro tín dụng nảy sinh. Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của NHTM như: hoạt động bảo lãnh, tài trợ ngọai thương, cho thuê tài chinh. Rủi ro tín dụng là loại rủi ro cơ bản nhất của ngân hàng. Nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng thường do: Người vay lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính nên không có đủ khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng. Do thiếu thông tin về khách hàng nên ngân hàng đã cho những khách hàng kinh doanh kém hiệu quả vay vốn, nên việc thu nợ gặp khó khăn, đến hạn khách hàng không trả được nợ cho ngân hàng. Cán bộ ngân hàng bất cập về trình độ hoặc vi phạm đạo đức trong kinh doanh, dẫn tớicho vay khống, cho vay không đúng mục đích, thẩm định dự án đầu tư, phương án kinh doanh không chính xác. Giá trị tài sản đảm bảo tiền vay không đáp ứng được yêu cầu thu nợ của ngân hàng. Quá trình trọng về lợi tức, đặt kì vọng về lợi tức cao hơn khoản nợ cho vay lành mạnh. Các nguyên nhân khác như: người vay cố ý không trả nợ, hoặc các lý do bất khả kháng như người vay chết hoặc mất tích. Mức độ rủi ro tín dụng được đánh giá qua chỉ tiêu: tỉ lệ nợ quá hạn/ tổng dư nợ; tỉ lệ nợ khó đòi/ tổng dư nợ quá hạn. Các chỉ tiêu này có kết quả càng nhỏ thể hiện chất lương tín dụng của ngân hàng càng cao và rủi ro tín dụng của ngân hàng thấp. b. Rủi ro lãi suất Lãi suất là giá cả của sản phẩm ngân hàng, nên có tác động trực tiếp tới giá trị của tài sản Có và tài sản Nợ của Ngân hàng. Mọi sự thay đổi của lãi suất đều có thể tác động đến việc tăng, giảm thu nhập, chi phí và lơi nhuận của ngân hàng. Nều thu nhập từ lãi không lớn hơn chi phí về lãi thì ngân hàng sẽ gặp rủi ro về lãi suất. Như vậy, rủi ro lãi suất là rủi ro do sự biến động của lãi suất gây nên. Nếu ngân hàng có tài sản Nợ nhạy cảm với lãi suất lớn hơn thì tài sản có nhạy cảm với lãi suất, thì khi lãi suất tăng lên lợi nhuận của ngân hàng sẽ bị giảm. Ngược lại, khi lãi suất giảm sẽ làm tăng lợi nhuận của ngân hàng. Nguyên nhân chính gây rủi ro lãi suất là do sự không cân xứng giữa các kì hạn của tài sản Nợ và tài sản Có. Nếu ngân hàng dùng tài sản Nợ ngắn hạn để đầu tư vào tài sản Có dài hạn thì khi lãi suất ngắn hạn tăng lên, trong khi lãi suất dầu tư vẫn giữ nguyên, ngân hàng sẽ gặp rủi ro. Ngược lại, nếu ngân hàng dùng tài sản Nợ dài hạn để đầu tư vào tài sản Có ngắn hạn thì khi lãi suất đầu tư giảm ngân hàng cũng có nguy cơ bị rủi ro. Ngoài ra rủi ro lãi suất còn có thể xảy ra do các nguyên nhân khác như: Do bất lợi trong cạnh tranh, buộc ngân hàng phải tăng lãi suât huy động và hạ lãi suất cho vay để thu hút khácg hàng, do đó đã làm tăng chi phí và giảm thu nhập của ngân hàng; do cung tiền tệ nhỏ hơn cầu tiền, nên ngân hàng phải tăng lãi suất để huy động vốn, do chính sách ưu đãi trong cho vay của nhà nước nên ngân hàng phải cắt giảm lãi suất cho vay. c. Rủi ro thanh toán. Rủi ro thanh khoản phát sinh khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức.Trong trường hợp như vậy thì Ngân hàng phải đi vay bổ sung nguồn vốn thanh toán hoặc phải bán tài sản có của mình để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi tiền.Trong cơ cấu tài sản có thì tiền mặt có độ thanh khoản cao nhất, do đó trước hết ngân hàng sẽ dùng tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng.Bởi vì tiền mặt tại quĩ không mang lại thu nhập lãi suất, cho nên trong trường hợp bình thường, ngân hàng chỉ duy trì một lượng tiền mặt ở mức tối ưu đủ để đáp ứng nhu cầu thường xuyên của người gửi mà không gây ảnh hưởng đến độ thanh khoản của ngân hàng.Trong trường hợp thiếu hụt tạm thời, ngân hàng chỉ cần đi vay bổ sung một cách thông thường trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Tuy nhiên, ngân hàng vẫn có thể đối mặt với rủi ro thanh khoản, ví dụ như trong tình huống dân chúng mất lòng tin vào ngân hàng, hoặc nhu cầu rút tiền có tính chất thời vụ mà ngân hàng không dự tính được đòi hỏi ngân hàng phải chi trả tức thời một khoản tiền lớn hơn bình thường.Trong bối cảnh đó, hầu hết các ngân hàng đều phải đối phó với tình huống tương tự, thì chi phí để huy động vốn bổ sung tăng lên đáng kể do lượng vốn cung ứng trên thị trường giảm.Hậu quả là, Ngân hàng phải bán một số tài sản có độ thanh khoản thấp để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi.Điều này khiến cho ngân hàng gặp phải rủi ro thanh khoản nghiêm trọng và buộc phải bán tháo ngay số tài sản khó chuyển nhượng với giá rẻ.Do bán khẩn cấp một số tài sản với giá thấp khiến cho khả năn thanh toán cuối cùng của ngân hàng bị đe doạ.Trong trường hợp rủi ro thanh khoản ngày càng nghiêm trọng, nếu tất cả mọi người gửi tiền đồng loạt rút tiền thì dẫn đến ngân hàng phải đối mặt với rủi ro phá sản. d. Rủi ro hoạt động ngoại bảng. Một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ trong hoạt động của các ngân hàng hiện đại là việc mở rộng các hoạt động ngoại bảng.Hoạt động ngoại bảng là các hoạt động không thuộc bảng cân đối tài sản(nội bảng), bởi vì các hoạt động này không liên quan đến việc nắm giữ các chứng khoán hay giấy nhận nợ hoặc ngân hàng phát hành các chứng khoán.Tuy nhiên, các hoạt động ngoại bảng có ảnh hưởng đến trạng thái tương lai của bảng cân đối tài sản, bởi vì các hoạt động ngoại bảng có thể tạo ra những tài sản có và tài sản nợ bổ sung cho bảng cân đối nội bảng. Xuất phát từ tính chất của các hoạt động ngoại bảng là ngân hàng thu được phí trong khi không phải sử dụng đến vốn kinh doanh cho nên đã khuyến khích phát triển các hoạt động ngoại bảng này càng phát triển.Tuy nhiên, những hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, khiến cho ngân hàng phải sử dụng vốn kinh doanh của mình để trang trải những chi phí ngoại bảng.Trong trường hợp thua lỗ nghiêm trọng trong hoạt động ngoại bảng là nguyên nhân chính khiến cho ngân hàng có thể bị phá sản. e. Rủi ro hối đoái. Rủi ro hối đoái là rủi ro do sự biến động của tỷ giá hối đoái gây nên. Những rủi ro này có thể phát sinh trong tất cả các nghiệp vụ có liên quan đến ngoại tệ của ngân hàng như: Cho vay, huy động vốn bằng ngoại tệ; Mua bán ngoại tệ; đầu tư chứng khoán bằng ngoại tệ… Trong các giao dịch ngoại hối và trong cân đối tài sản bằng ngoại tệ của ngân hàng, bất cứ một trạng thái ngoại hối” trường” hay “đoản” đều có thể gặp rủi ro hối doái khi tỷ giá ngoại tệ thay đổi. Nếu ngân hàng ở trạng thái ngoại tệ trường thì khi ngoại tệ tăng giá ngân hàng sẽ có lãi, ngược lại ngân hàng sẽ bị lỗ khi ngoại tệ đó xuống giá. Nếu ngân hàng ở trạng thái đoản về một loại ngoại tệ nào đó , khi ngoại tệ lên giá ngân hàng sẽ bị lỗ và ngược lại. Như vậy, việc tạo ra các trạng thái ngoại tệ”trường” hay “đoản” chính là nguyên nhân gây rủi ro hối đoái cho ngân hàng.Đây chính là kết quả của việc ngân hàng thực hiện các giao dịch ngoại tệ phục vụ cho khách hàng và cho chính bản thân mình, hoặc ngân hàng huy động vốn bằng ngoại tệ và đầu tư vào các tài sản có bằng ngoại tệ. f. Rủi ro công nghệ và hoạt động. Trong thời đại ngày nay, đổi mới công nghệ ngân hàng đã trở thành chủ đề được các ngân hàng quan tâm hơn bao giờ hết.Mục tiêu để phát triển công nghệ ngân hàng nhằm giảm chi phí bình quân trên một đơn vị sản phẩm: Nhờ mở rộng qui mô hoạt động của ngân hàng; Nhờ tăng cường khai thác tiềm năng của công nghệ ngân hàng; Hiệu quả kinh tế nhờ mở rộng quy mô hoạt động bao hàm khả năng ngân hàng đã hạ thấp được giá thành hoạt động bình quân bằng cách mở rộng đầu ra của các dịch vụ tài chính do ngân hàng cung cấp.Hiệu quả do tăng cường khai thác tiềm năng công nghệ bao hàm khả năng của ngân hàng với các dịch vụ của ngân hàng với quy mô công nghệ nhất định có thể cung cấp nhiều hơn các dịch vụ khác nhau cho khách hàng. Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công nghệ không tạo ra được khoản tiết kiệm trong chi phí như đã dự tính khi mở rộng quy mô hoạt động.Tính không hiệu quả trong đầu tư công nghệ phát sinh trong trường hợp: dung lượng đầu tư quá lớn dẫn đến công nghệ không sử dụng đến và hậu qủa là tổ chức bộ máy trở nên quan liêu kém hiệu quả, hoặc qui mô hoạt động không được mở rộng mặc dù đã đầu tư công nghệ mới..Rủi ro hoạt động và rủi ro công nghệ có mối liên hệ chặt chẽ, và có thể phát sinh bất cứ khi nào nếu hệ thống công nghệ bị trục trặc hoặc là khi hệ thống hỗ trợ bên trong ngừng hoạt động, điều đó có thể làm khả năng cạnh tranh của ngân hàng giảm xuống đáng kể và là nguyên nhân phá sản của ngân hàng trong tương lai. g. Các loại rủi ro khác. Ngoài những rủi ro cơ bản trên hoạt động ngân hàng còn chịu những rủi ro khác như: - Rủi ro môi trường: là rủi ro do môi trường hoạt động của ngân hàng gây nên, bao gồm: rủi ro do sự biến động của thiên nhiên (lũ lụt, động đất), rủi ro về kinh tế (khủng hoảng, suy thoái kinh tế), rủi ro do sự thay đổi chính sách pháp luật của nhà nước gây bất lợi cho ngân hàng. Rủi ro môi trường là những rủi ro mà ngân hàng khó kiểm soát được, chũng có thể làm suy yếu khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng hoặc gây cho ngân hàng những thiệt hại về tài chính. - Các rủi ro khác : rủi ro hoạt động, rủi ro quốc gia, rủi ro pháp lý…. 1.2 Nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng của ngân hàng. 1.2.1 Khái niệm nợ quá hạn Nợ quá hạn là hiện tượng đến thời hạn thanh toán các khoản nợ, người đi vay không có khả năng thực hiện ngay nghĩa vụ của mình đối với người cho vay. Nợ quá hạn trước hết vi phạm đặc trưng cơ bản của tín dụng là tính thời hạn. Sau nữa, nợ quá hạn có thể dẫn đến sự vi phạm đặc trưng tiếp theo là: tính hoàn trả, gây nên sự đổ vỡ lòng tin của người cấp tín dụng đối với người nhận tín dụng. Một khoản tín dụng được cấp luôn luôn xác định về mặt thời gian và giá trị hoàn trả( gốc và lãi).Nợ quá hạn phát sinh khi đáo hạn, người vay không có khả năng trả một phần hay toàn bộ khoản vay. Nợ quá hạn là biểu hiện của rủi ro tín dụng, có thể gây cho ngân hàng rủi ro đọng vốn (khách hàng chậm trả), hoặc rủi ro mất vốn (khách hàng không trả được nợ). 1.2.2 Phân loại nợ quá hạn. * Căn cứ vào thời gian Theo Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN nợ quá hạn được chia thành 5 nhóm: + Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày: được xếp vào các khoản nợ nhóm 1(Nợ đủ tiêu chuẩn). + Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày: được xếp vào nợ nhóm 2 (Nợ cần chú ý). + Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày: được xếp vào nợ nhóm 3(Nợ dưới tiêu chuẩn). + Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày: được xếp vào nợ nhóm 4 (Nợ nghi ngờ). + Các khoản nợ quá hạn trên 361 ngày: được xếp vào nợ nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn). * Căn cứ vào khả năng thu hồi, nợ quá hạn được chia làm 3 loại: + Nợ quá hạn thu hồi được 100% + Nợ quá hạn thu hồi được một phần. + Nợ quá hạn mất trắng. * Căn cứ vào mức độ đảm bảo, nợ quá hạn được chia làm 3 loại: + nợ quá hạn được đảm bảo hoản toàn. + Nợ quá hạn được đảm bảo một phần. + Nợ quá hạn không được đảm bảo. 1.2.3 Các dấu hiệu của khoản vay thể hiện nguy cơ quá hạn. (Xem phụ lục) 1.2.4 Nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn. 1.2.4.1 Nguyên nhân chủ quan làm phát sinh nợ quá hạn. a. Sự quản lý yếu kém của ngân hàng. Sự quản lý yếu kém của ngân hàng luôn đi đôi với tình trạng nợ quá hạn cao.Sơ hở trong khâu kiểm tra, xét duyệt hồ sơ khách hàng hoặc phân tích tín dụng dẫn đến chấp nhận các khách hàng rủi ro quá mức chắc chắn sẽ phải chấp nhận tỷ lệ nợ quá hạn cao vào một ngày nào đó. Điều này có thể nhận thấy rõ ràng khi ta thực hiện một phép phân tích đơn giản đối với danh mục tín dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam. Sự tập trung tín dụng quá mức vào một khu vực khách hàng, sự thiếu vắng các biện pháp điều chỉnh danh mục tín dụng trước các diễn biến kinh tế vĩ mô bất lợi, thiếu hệ thống các chuẩn mực đánh giá khách hàng và những rủi ro đạo đức tiềm năng chính là những yếu tố chủ yếu đẩy ngân hàng thương mại rơi vào tình trạng nợ quá hạn cao. b. Quy trình nghiệp vụ ngân hàng còn thiếu chặt chẽ, thiếu đồng bộ. Do qui trình nghiệp vụ thiếu chặt chẽ dẫn đến việc khách hàng lợi dụng lừa đảo, chiếm dụng vốn của ngân hàng. Chính sách cho vay không phù hợp với đặc điểm thực trạng nên kinh tế có thể dẫn đến hậu quả tỷ lệ nợ quá hạn tăng cao.Thực tế cho thấy, sự hoạt dộng của một ngân hàng dựa trên cơ sở chính sách tín dụng, nhất quán hợp lý có hiệu quả hơn là dựa vào kinh nghiệm và trao quyền quyết định cho một cá nhân lãnh đạo. Một chính sách cho vay không đồng bộ, thiếu tính thống nhất có thể là nguyên nhân tiềm ẩn rủi ro cho ngân hàng. Ngoài ra, sự chậm trễ trong việc sửa đổi các quy định tín dụng chưa hoặc không còn phù hợp với điều kiện thực tế cũng làm cho ngân hàng gặp phải khó khăn khi xử lý tài sản đảm bảo cho các khoản vay.Ví dụ, đối với các khoản cho vay dựa trên tài sản đảm bảo là bất động sản, việc định giá tài sản cao hơn giá trị thị trường, thiêu chính xác (không tính đến khả năng rủi ro thị trường bất động sản đóng băng) thì việc xử lý tài sản đảm bảo kó khăn, kéo dài dây dưa, phát sinh nhiều tốn kém cho ngân hàng. Với chính sách mở rộng tín dụng để chiếm thị phần, các Ngân hàng thương mại có thể đơn giản hoá các thủ tục cho vay, hạ thấp các tiêu chuẩn đánh giá khách hàng, tìm cách lách hàng rào kiểm soát, thông tin sai lệch nên dễ gặp phải rủi ro. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt,một số ngân hàng còn coi đây là cách để thu hút khách hàng. c. Hệ thống pháp luật chưa đầy đủ và đồng bộ. Hệ thống pháp luật của Việt Nam vừa thiếu vừa không ổn định đôi khi lại không rõ ràng nên đôi khi có kết luận rồi
Luận văn liên quan