Chuyên đề quản lý nguồn nước mặt

Tài nguyên nước mặt: Là nước phân bố trên mặt đất, nước trong các đại dương, sông, suối, ao hồ, đầm lầy. Đặc điểm của tài nguyên nước mặt là chịu ảnh hưởng lớn từ điều kiện khí hậu và các tác động khác do hoạt động kinh tế của con người; nước mặt dễ bị ô nhiễm và thành phần hóa lý của nước thường bị thay đổi; khả năng hồi phục trữ lượng của nước nhanh nhất ở vùng thường có mưa. Tổng lượng dòng chảy sông ngòi trung bình hàng năm của nước ta bằng khoảng 847 km3, trong đó tổng lượng ngoài vùng chảy vào là 507 km3 chiếm 60% và dòng chảy nội địa là 340 km3, chiếm 40%. Nếu xét chung cho cả nước, thì tài nguyên nước mặt của nước ta tương đối phong phú, chiếm khoảng 2% tổng lượng dòng chảy của các sông trên thế giới, trong khi đó diện tích đất liền nước ta chỉ chiếm khoảng 1,35% của thế giới. Tuy nhiên, một đặc điểm quan trọng của tài nguyên nước mặt là những biến đổi mạnh mẽ theo thời gian (dao động giữa các năm và phân phối không đều trong năm) và còn phân bố rất không đều giữa các hệ thống sông và các vùng. Tổng lượng dòng chảy năm của sông Mê Kông bằng khoảng 500 km3, chiếm tới 59% tổng lượng dòng chảy năm của các sông trong cả nước, sau đó đến hệ thống sông Hồng 126,5 km3 (14,9%), hệ thống sông Đồng Nai 36,3 km3 (4,3%), sông Mã, Cả, Thu Bồn có tổng lượng dòng chảy xấp xỉ nhau, khoảng trên dưới 20 km3 (2,3 - 2,6%), các hệ thống sông Kỳ Cùng, Thái Bình và sông Ba cũng xấp xỉ nhau, khoảng 9 km3 (1%), các sông còn lại là 94,5 km3 (11,1%).

doc53 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 8241 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề quản lý nguồn nước mặt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÀI NGUYÊN NƯỚC VÀ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC 1.1. Giới thiệu chung về tài nguyên nước 1.1.1. Khái niệm nguồn nước mặt Tài nguyên nước mặt: Là nước phân bố trên mặt đất, nước trong các đại dương, sông, suối, ao hồ, đầm lầy. Đặc điểm của tài nguyên nước mặt là chịu ảnh hưởng lớn từ điều kiện khí hậu và các tác động khác do hoạt động kinh tế của con người; nước mặt dễ bị ô nhiễm và thành phần hóa lý của nước thường bị thay đổi; khả năng hồi phục trữ lượng của nước nhanh nhất ở vùng thường có mưa. Tổng lượng dòng chảy sông ngòi trung bình hàng năm của nước ta bằng khoảng 847 km3, trong đó tổng lượng ngoài vùng chảy vào là 507 km3 chiếm 60% và dòng chảy nội địa là 340 km3, chiếm 40%.            Nếu xét chung cho cả nước, thì tài nguyên nước mặt của nước ta tương đối phong phú, chiếm khoảng 2% tổng lượng dòng chảy của các sông trên thế giới, trong khi đó diện tích đất liền nước ta chỉ chiếm khoảng 1,35% của thế giới. Tuy nhiên, một đặc điểm quan trọng của tài nguyên nước mặt là những biến đổi mạnh mẽ theo thời gian (dao động giữa các năm và phân phối không đều trong năm) và còn phân bố rất không đều giữa các hệ thống sông và các vùng. Tổng lượng dòng chảy năm của sông Mê Kông bằng khoảng 500 km3, chiếm tới 59% tổng lượng dòng chảy năm của các sông trong cả nước, sau đó đến hệ thống sông Hồng 126,5 km3 (14,9%), hệ thống sông Đồng Nai 36,3 km3 (4,3%), sông Mã, Cả, Thu Bồn có tổng lượng dòng chảy xấp xỉ nhau, khoảng trên dưới 20 km3 (2,3 - 2,6%), các hệ thống sông Kỳ Cùng, Thái Bình và sông Ba cũng xấp xỉ nhau, khoảng 9 km3 (1%), các sông còn lại là 94,5 km3 (11,1%). Một đặc điểm quan trọng nữa của tài nguyên nước sông của nước ta là phần lớn nước sông (khoảng 60%) lại được hình thành trên phần lưu vực nằm ở nước ngoài, trong đó hệ thống sông Mê Kông chiếm nhiều nhất (447 km3, 88%). Nếu chỉ xét thành phần lượng nước sông được hình thành trong lãnh thổ nước ta, thì hệ thống sông Hồng có tổng lượng dòng chảy lớn nhất (81,3 km3) chiếm 23,9%, sau đó đến hệ thống sông Mê Kông (53 km3, 15,6%), hệ thống sông Đồng Nai (32,8 km3, 9,6%). 1.1.2. Đánh giá tài nguyên nước: dựa trên 3 đặc trưng là: lượng (quantiy), chất (quality) và động thái (dynamic). Lượng là đặc trưng biểu thị mức độ phong phú của tài nguyên nước trên một lãnh thổ. Chất bao gồm các đặc trưng về hàm lượng các hòa tan hoặc không hoà tan trong nước (có lợi hoặc có hại theo tiêu chuẩn của đối tượng sử dụng). Động thái của nước được đánh giá bởi sự thay đổi của các đặc trưng dòng chảy theo thời gian, sự trao đổi nước giữa các khu vực chứa nước, sự chuyển động của nước dưới đất, các quá trình trao đổi các chất hòa tan, truyền mặn, … 1.1.3. Quản lý tổng hợp và thống nhất tài nguyên nước Phát triển tài nguyên nước: Là các hoạt động đưa tới việc sử dụng hữu hiệu tài nguyên nước cho một hay nhiều mục đích. Quy hoạch tài nguyên nước: Là quy hoạch, bảo vệ, phân phối nguồn nước giữa các ngành dùng nước và các hoạt động kinh tế xã hội; cân đối giữa nguồn nước khai thác và nhu cầu dùng nước; xem xét các mục tiêu, các khó khăn, trở ngại và quyền lợi của các đối tượng có liên quan. Quản lý tài nguyên nước: Là toàn bộ các hoạt động vận hành, pháp lý, quản lý, thể chế và kỹ thuật cần thiết để quy hoạch, vận hành và quản lý tài nguyên nước. Hay nói một cách khác; QLTNN là một quá trình bao gồm cả các hoạt động quy hoạch, thiết kế, xây dựng, và vận hành hệ thống tài nguyên nước Quản lý tổng hợp và thống nhất tài nguyên nước (Integrated Water Resource Management - IWRM) được phổ biến trên toàn cầu như một giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề chủ yếu liên quan đến tài nguyên nước và đảm bảo khả năng sử dụng bền vững nguồn tài nguyên này. Những người thuộc các lĩnh vực khác nhau có cách hiểu chưa thống nhất về quản lý tổng hợp và thống nhất tài nguyên nước. Đối với các nhà sinh thái học và môi trường, quản lý tài nguyên nước thường gắn liền với những tác động gây ô nhiễm nguồn nước, suy giảm hệ sinh thái, suy thoái đất và phá hoại các vùng đất ngập nước. Đối với các nhà thủy lợi, nói đến tài nguyên nước là nói đến các hồ chứa, đập, chuyển nước, phòng chống lũ, chỉnh trị sông, xử lý nước và kênh mương hóa. Đối với các nhà kinh tế, quản lý tài nguyên nước liên quan đến hiệu quả kinh tế, hoàn vốn và việc đạt được các mục tiêu quốc gia. Với các nhà làm luật, vấn đề chủ yếu của tài nguyên nước là quyền sở hữu nước, hệ thống quyền dùng nước, ưu tiên sử dụng nước, thị trường nước, các vấn đề pháp lý và thể chế về nước… Có thể nói rằng IWRM là một lĩnh vực đa ngành. Để tạo thuận lợi cho công tác quản lý và hợp tác trong quản lý tài nguyên nước, đặc biệt là các lưu vực sông đa quốc gia, người ta thường thực hiện và phát triển chiến lược IWRM ở đơn vị một lưu vực sông (river basin). 1.1.4. Quản lý lưu vực Lưu vực: là một phạm vi gồm nhiều nhánh sông gồm một dòng chính và nhiều nhánh phụ bao gồm vùng nhận nước và chuyển giao nước từ con sông đó (bao gồm cả đất liền). Mỗi lưu vực là một hệ thống, mỗi tác động gây ra trên lưu vực đều có ảnh hưởng đến các yếu tố khác, vì vậy quản lý nguồn nước phải gắn liền với quản lý và bảo vệ lưu vực. 1.2. Hiện trạng sử dụng tài nguyên nước trên thế giới 1.2.1. Nước sử dụng cho đô thị Sử dụng nước đô thị liên quan trực tiếp đến số lượng nước thu vào (quantity of water withdrawn) phục vụ cho số dân của các thành phố, thị trấn, khu dân cư, các công trình dịch vụ công ích. Cấp nước cộng đồng còn bao gồm nước phục vụ sản xuất công nghiệp, cung cấp trực tiếp cho các nhu cầu dân số đô thị và những nhu cầu này còn tiêu thụ lượng nước chất lượng cao từ hệ thống cấp nước thành phố. Trong nhiều thành phố, một lượng nước đáng kể còn cấp cho dịch vụ vệ sinh chợ, công viên và tưới cây xanh trên đường. Lượng nước sử dụng phục vụ cộng đồng tùy thuộc vào dân số của thành phố, những tiện ích và dịch vụ vệ sinh như quy mô mạng lưới cấp và thoát nước hay hệ thống nước nóng tập trung. Ngoài ra, lượng nước sử dụng còn tùy thuộc vào các điều kiện khí hậu. Trong nhiều thành phố lớn, lượng nước thu hiện nay tiêu thụ lên đến 300 – 600 lít/người/ngày. Những năm cuối thế kỷ 20, lượng nước thu vào của những quốc gia phát triển ở Bắc Mỹ và châu Âu lên đến 500 – 1.000 lít/người/ngày. Đối với các quốc gia đang phát triển ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh, lượng nước sử dụng chỉ từ 50 – 100 lít/người/ngày. Ở một số vùng thiếu tài nguyên nước, lượng nước sử dụng là không quá 10 – 40 lít/người/ngày. Nếu hệ thống cống thoát nước thành phố hoạt động đạt hiệu quả cao, phần lớn lượng nước thải này được đưa trở lại hệ thống sông rạch sau khi sử dụng, lượng nước thải này có thể đã xử lý hoặc chưa. Những nguồn tiêu hao chính bao gồm lượng nước mất đi do hệ thống cấp và thoát nước bị rò rỉ, do bốc hơi từ các nhà máy nước, vùng tái tạo, rửa đường và tưới công viên. Ngoài ra, mức độ tiêu hao còn tùy thuộc vào điều kiện khí hậu. Ở những vùng khô, nóng, lượng nước tiêu hao chắc chắn lớn hơn những vùng lạnh, ẩm: lượng nước tiêu hao cho nhu cầu tiêu thụ cá nhân (ăn/uống) không đáng kể so với lượng nước tiêu hao do bốc hơi. Các giá trị tương đối về tiêu hao nước thường thể hiện bằng phần trăm lượng nước thu vào và tuỳ thuộc vào quy mô của khối lượng nước thu cho cấp nước công cộng. Như vậy, ở những thành phố hiện đại có các hệ thống cấp và thoát nước tập trung đạt hiệu quả cao, lượng nước thu vào có thể đạt 400 – 600 lít/người/ngày, thường lượng nước tiêu hao không vượt quá 5 -10% lượng nước thu vào. Ở những thành phố nhỏ không có hệ thống cấp và thoát nước tập trung với lượng nước đạt 100 – 150 lít/người/ngày. Tuy nhiên, mức tiêu hao tăng đáng kể khu vực này và có thể đạt đến 40 – 60%, giá trị này thấp hơn ở những vùng lạnh, ẩm và cao hơn ở vùng khô, nóng. Xu hướng hiện đại hóa trong cấp nước công cộng trên toàn thế giới là xây dựng hệ thống cấp và thoát nước tập trung hiệu quả cao ở cả thành phồ lớn cũng như thành phố nhỏ. Trong tương lai, lượng nước thu vào có xu hướng tăng lên, trong khi mức tiêu hao có xu hướng giảm đáng kể. 1.2.2. Nước sử dụng trong công nghiệp Nước sử dụng trong công nghiệp được dùng cho mục đích làm mát, vận chuyển, tẩy rửa và đôi khi là sản phẩm cuối cùng. Các nhà máy điện nguyên tử và nhiệt điện được đưa vào danh sách các đối tượng sử dụng chính. Nó yêu cầu một lượng nước lớn để làm mát thiết bị. Lượng nước thu vào phục vụ hoạt động sản xuất công nghiệp tùy thuộc vào đặc thù của từng ngành công nghiệp. Nó còn phụ thuộc các loại sản phẩm khác nhau của ngành, công nghệ sản xuất và điều kiện khí hậu. Ngoài các nhà máy nhiệt điện ra, những đối tượng sử dụng nước công nghiệp cơ bản khác là các nhà máy hóa dầu và hóa chất, luyện kim sắt và không sắt, công nghiệp giấy và bột gỗ, dệt nhuộm và thuộc da, công nghệ chế biến, công nghiệp cơ khí... Các đặc điểm chính của sử dụng nước ngọt – khối lượng nước ngọt thu vào, lượng nước tiêu hao – tùy thuộc rất lớn vào hệ thống cấp nước trong sử dụng. Lượng nước tiêu hao cho sản xuất công nghiệp thường là chiếm tỷ lệ không đáng kể so với lượng nước thu vào. Đối với các nhà máy nhiệt điện, mức tiêu hao chỉ khoảng 0,5 – 3,0%, nhưng có thể lên đến 30 – 40% đối với các quy trình công nghiệp đặc biệt. Sự phát triển lượng nước thu vào phục vụ sản xuất công nghiệp là một trong những nguyên nhân chính gây ô nhiễm nước trên thế giới. Điều này có thể giải thích là do sự phát triển công nghiệp nhanh trong nhiều quốc gia và mức ô nhiễm ngày càng trầm trọng do nước thải xả vào thủy vực tự nhiên mà hầu hết lượng thải nước này không được xử lý hay chỉ được làm sạch một phần. Để khắc phục những vấn đề ô nhiễm này, rất nhiều quốc gia thực hiện các giải pháp mạnh để giảm lượng nước thu vào phục vụ sản xuất công nghiệp và xả thải. Từ những năm 70 và 80 của thế kỷ trước, một xu hướng tiến tới ổn định và ngay cả giảm nhu cầu sử dụng nước. Trong tương lai hầu hết các quốc gia sử dụng hệ thống cấp nước tuần hoàn và xu hướng ở nhiều quốc gia sẽ phát triển công nghệ khô và công nghệ không thải. 1.2.3. Nước sử dụng trong nông nghiệp Ngày nay, các hoạt động sản xuất nông nghiệp vẫn là đối tượng tiêu thụ nước lớn nhất. Trước những năm cuối thập niên 70 của thế kỷ trước, chuyên canh được phát triển mạnh ở các quốc gia phát triển và họ tập trung mở rộng những vùng đất tăng vụ. Tuy nhiên trong những năm 80, nước sử dụng tưới tiêu cũng tăng cả ở các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển. Những nguyên nhân làm cho chi phí dẫn nước tăng cao là do mặn hoá đất vì thiếu hệ thống dẫn hợp lý, suy giảm các nguồn cấp nước tưới tiêu và các vấn đề liên quan đến bảo vệ môi trường. Trong một số các quốc gia phát triển, diện tích đất canh tác đã ổn dịnh và có xu hướng giảm xuống. Ở thế giới hiện đại, dân số tăng cao, dẫn nước tưới tiêu đóng một vai trò cực kỳ quan trọng nhằm phát triển các trang trại chuyên canh để tăng sản phẩm lương thực và phát triển đàn gia súc – gia cầm. Những giá trị thu nước đặc trưng thường rất khác nhau. Trong tương lai chúng sẽ thay đổi đáng kể tùy thuộc vào hệ thống kênh dẫn tiên tiến, những yêu cầu, kỹ thuật và cơ chế cải tiến tưới... Ở Bắc Âu, lượng nước sử dụng tưới tiêu là thấp nhất, biến thiên từ 300 -5.000 m3/ha. Trong khi đó, ở Nam và Đông Âu, lượng nước này biến thiên từ 7.000 – 11.000 m3/ha. Lượng nước hoàn lưu về các thủy vực ước tính từ 20 – 30% lượng nước thu vào. Ở Hoa Kỳ, lượng nước thu phục vụ tưới tiêu ước tính khoảng 8.000 – 10.000 m3/ha và lượng nước hoàn lưu về thủy vực là khoảng 40 – 50%. Ở các quốc gia châu Á, châu Phi, Trung và Nam Mỹ có sự khác biệt rất lớn về điều kiện khí hậu, thành phần canh tác, kỹ thuật tưới tiêu, giá trị thu nước đặc biệt biến thiên từ 5.000 – 6.000 m3/h đến 15.000 – 17.000 m3/h và một số vùng đặc biệt ở châu Phi, lên đến 20.000 – 25.000 m3/ha. 1.2.4. Dự báo nhu cầu sử dụng tài nguyên nước mặt trên thế giới Việc xây dựng hồ chứa dẫn đến sự thay đổi dòng sông theo không gian và thời gian, và tăng tài nguyên nước trong những thời kỳ mùa khô và những năm hạn hán. Kết quả là một vùng rộng lớn sẽ bị ngập nước, hồ chứa còn đóng góp đáng kể lượng bốc hơi từ nước mặt đến những vùng khô hạn. Điều này dẫn đến tổng tài nguyên nước giảm và như vậy hồ chứa là một trong những đối tượng sử dụng nước lớn nhất. Mặc dù hồ chứa đã được xây dựng từ thiên niên kỷ trước, nhưng phải đến nửa sau của thế kỷ 20 chúng mới phổ biến trên toàn thế giới. Tuy nhiên, những hồ chứa có thể tích lớn hơn 50 km3 chỉ mới xuất hiện cách đây khoảng hơn 40 năm. Hiện nay, tổng khối lượng nước của hồ chứa trên toàn thế giới là khoảng 6.000 km3 và chiếm diện tích lên đến 500.000 km2. Việc xây dựng hồ chứa tập trung vào khoảng từ thập niên 50 – 70 của thế kỷ trước ở các quốc gia phát triển, ở đây có những quy định đầy đủ về sông nước chảy. Rồi sau đó tỷ lệ xây dựng hồ chứa giảm dần, mặc dù nó vẫn còn rất cao ở các quốc gia giàu có tài nguyên nước chảy. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do vai trò khá quan trọng của các nhà máy thủy điện, đặc biệt ở những vùng thiếu nhiên liệu dầu mỏ. Ngoài ra, hồ chứa cung cấp một lượng nước rất lớn cho sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, nuôi thủy sản... Về cơ bản, chúng là các hệ thống quản lý nước quy mô lớn điều chỉnh dòng chảy sông cũng như bảo vệ những khu đông dân cư khỏi các trận lũ và ngập lụt. Tuy nhiên, trong tương lai hồ chứa sẽ không chỉ xây dựng ở vùng núi hay trong những vùng kém phát triển, mà không lâu nữa những vùng đất màu mỡ phục vụ canh tác nông nghiệp cũng bị sử dụng xây đập. 1.3. Hiện trạng gây ô nhiểm tài nguyên nước mặt ở Việt Nam và các tác động của chúng 1.3.1. Hiện trạng Hiện nay ở Việt Nam, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường, nhưng tình trạng ô nhiễm nước là vấn đề rất đáng lo ngại. Tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá khá nhanh và sự gia tăng dân số gây áp lực ngày càng nặng nề dối với tài nguyên nước trong vùng lãnh thổ. Môi trường nước ở nhiều đô thị, khu công nghiệp và làng nghề ngày càng bị ô nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất thải rắn. Ở các thành phố lớn, hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp đang gây ô nhiễm môi trường nước do không có công trình và thiết bị xử lý chất thải hoặc có mà không đạt tiêu chuẩn quy định. Ô nhiễm nước do sản xuất công nghiệp là rất nặng. Ví dụ: ở ngành công nghiệp dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột giấy, nước thải thường có độ pH trung bình từ 9-11; chỉ số nhu cầu ô xy sinh hoá (BOD), nhu cầu ô xy hoá học (COD) có thể lên đến 700mg/1 và 2.500mg/1; hàm lượng chất rắn lơ lửng... cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép. Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa xyanua (CN-) vượt đến 84 lần, H2S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH3 vượt 84 lần tiêu chuẩn cho phép nên đã gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt trong vùng dân cư. Mức độ ô nhiễm nước ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp tập trung là rất lớn. Tại cụm công nghiệp Tham Lương thành phố Hồ Chí Minh, nguồn nước bị nhiễm bẩn bởi nước thải công nghiệp với tổng lượng nước thải ước tính 500.000 m3/ngày từ các nhà máy giấy, bột giặt, nhuộm, dệt. ở thành phố Thái Nguyên, nước thải công nghiệp thải ra từ các cơ sở sản xuất giấy, luyện gang thép, luyện kim màu, khai thác than; về mùa cạn tổng lượng nước thải khu vực thành phố Thái Nguyên chiếm khoảng 15% lưu lượng sông Cầu; nước thải từ sản xuất giấy có pH từ 8,4-9 và hàm lượng NH4 là 4mg/1, hàm lượng chất hữu cơ cao, nước thải có màu nâu, mùi khó chịu… Khảo sát một số làng nghề sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, giấy, dệt nhuộm ở Bắc Ninh cho thấy có lượng nước thải hàng ngàn m3/ ngày không qua xử lý, gây ô nhiễm nguồn nước và môi trường trong khu vực. Tình trạng ô nhiễm nước ở các đô thị thấy rõ nhất là ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. ở các thành phố này, nước thải sinh hoạt thường không có hệ thống xử lý tập trung mà trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận (sông, hồ, kênh, mương). Mặt khác, còn rất nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước thải, phần lớn các bệnh viện và cơ sở y tế lớn chưa có hệ thống xử lý nước thải; một lượng rác thải rắn lớn trong thành phố không thu gom hết được… là những nguồn quan trọng gây ra ô nhiễm nước. Hiện nay, mức độ ô nhiễm trong các kênh, sông, hồ ở các thành phố lớn là rất nặng. Ở thành phố Hà Nội, tổng lượng nước thải của thành phố lên tới 300.000 - 400.000 m3/ngày; hiện mới chỉ có 5/31 bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải, chiếm 25% lượng nước thải bệnh viện; 36/400 cơ sở sản xuất có xử lý nước thải; lượng rác thải sinh hoại chưa được thu gom khoảng 1.200m3/ngày đang xả vào các khu đất ven các hồ, kênh, mương trong nội thành; chỉ số BOD, oxy hoà tan, các chất NH4, NO2, NO3 ở các sông, hồ, mương nội thành đều vượt quá quy định cho phép ở thành phố Hồ Chí Minh thì lượng rác thải lên tới gần 4.000 tấn/ngày; chỉ có 24/142 cơ sở y tế lớn là có xử lý nước thải; khoảng 3.000 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm thuộc diện phải di dời. Không chỉ ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh mà ở các đô thị khác như Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định, Hải Dương… nước thải sinh hoạt cũng không được xử lý độ ô nhiễm nguồn nước nơi tiếp nhận nước thải đều vượt quá tiểu chuẩn cho phép (TCCP), các thông số chất lơ lửng (SS), BOD; COD; Ô xy hoà tan (DO) đều vượt từ 5-10 lần, thậm chí 20 lần TCCP. Về tình trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp, hiện nay Việt Nam có gần 76% dân số đang sinh sống ở nông thôn là nơi cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia súc không được xử lý nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô nhiễm nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số vi khuẩn Feca coliform trung bình biến đổi từ 1.500-3.500MNP/100ml ở các vùng ven sông Tiền và sông Hậu, tăng lên tới 3800-12.500MNP/100ML ở các kênh tưới tiêu. Trong sản xuất nông nghiệp, do lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, các nguồn nước ở sông, hồ, kênh, mương bị ô nhiễm, ảnh hưởng lớn đến môi trường nước và sức khoẻ nhân dân. Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản, tổng diện tích mặt nước sử dụng cho nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2001 của cả nước là 751.999 ha. Do nuôi trồng thuỷ sản ồ ạt, thiếu quy hoạch, không tuân theo quy trình kỹ thuật nên đã gây nhiều tác động tiêu cực tới môi trường nước. Cùng với việc sử dụng nhiều và không đúng cách các loại hoá chất trong nuôi trồng thuỷ sản, thì các thức ăn dư lắng xuống đáy ao, hồ, lòng sông làm cho môi trường nước bị ô nhiễm các chất hữu cơ, làm phát triển một số loài sinh vật gây bệnh và xuất hiện một số tảo độc; thậm chí đã có dấu hiệu xuất hiện thuỷ triều đỏ ở một số vùng ven biển Việt Nam. Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nước, như sự gia tăng dân số, mặt trái của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu: nhận thức của người dân về vấn đề môi trường còn chưa cao… Đáng chú ý là sự bất cập trong hoạt động quản lý, bảo vệ môi trường. Nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ quan quản lý, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi trường nước chưa sâu sắc và đầy đủ; chưa thấy rõ ô nhiễm môi trường nước là loại ô nhiễm gây nguy hiểm trực tiếp, hàng ngày và khó khắc phục đối với đời sống con người cũng như sự phát triển bền vững của đất nước. Các quy định về quản lý và bảo vệ môi trường nước còn thiếu (chẳng hạn như chưa có các quy định và quy trình kỹ thuật phục vụ cho công tác quản lý và bảo vệ nguồn nước). Cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan, các ngành và địa phương chưa đồng bộ, còn chồng chéo, chưa quy định trách nhiệm rõ ràng. Chưa có chiến lược, quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước theo lưu vực và các vùng lãnh thổ lớn. Chưa có các quy định hợp lý trong việc đóng góp tài chính để quản lý và bảo vệ môi trường nước, gây nên tình trạng thiếu hụt tài chính, thu không đủ chi cho bảo vệ môi trường nước. Ngân sách đầu tư cho bảo vệ môi trường nước còn rất thấp (một số nước ASEAN đã đầu tư ngân sách cho bảo vệ môi trường là 1% GDP, còn ở Việt Nam mới chỉ đạt 0,1%). Các chương trình giáo dục cộng đồng về môi trường nói chung và môi trường nước nói riêng còn quá ít. Đội ngũ cán bộ quản lý môi trường nước còn thiếu về số lượng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docqu7843n l ngu7891n n4327899c m7863t.doc
  • pptChuyn __ 23.ppt
Luận văn liên quan