a/ Tài sản có: là toàn bộ tài sản của ngân hàng được tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể (sự hiện 
hữu của tài sản) bao gồm: Tiền, vàng, ngoại tệ, các tài sản cố định hữu hình, vô hình, các loại 
công cụ dụng cụ dùng trong quản lý kinh doanh ngân hàng. Số dư các khoản cho vay và đầu 
tư tồn tại dưới dạng tài sản tài chính và những tài sản hiện hữu khác.
Đứng ở góc độ kinh tế thì tài sản Có là giá trị biểu hiện bằng tiền của các loại tài sản mà ngân 
hàng đang có quyền sở hữu một cách hợp pháp. Đó là những tài sản hiện đang được sử dụng 
cho những mục đích khác nhau nhằm mang lại thu nhập cho ngân hàng. Đứng ở góc độ Kế 
toán Thống kê, thì tài sản Có là nhữn g tài sản bằng hiện vật hoặc hiện kim, tồn tại bằng hữu 
hình hoặc vô hình được thể hiện ở bên Có của Bảng Cân đối kế toán, bất kể nó được tạo ra từ 
nguồn nào.
 Tài sản Có = Vốn chủ sở hữu + Nợ phải trả
 Tài sản Có = Nguồn vốn huy động + Nguồn vốn tự có của NH
Theo một cách tiếp cận khác thì tài sản Có là kết quả của việc sử dụng vốn của ngân hàng, là 
những tài sản được hình thành từ các nguồn vốn của ngân hàng trong quá trình hoạt động 
như dùng vốn của ngân hàng trong quá trình hoạt động như dùn g vốn tự có để xây dựng, mua 
sắm tài sản Cố định, các công cụ dụng cụ quản lý, các vật liệu giấy tờ, văn phòng phẩm, 
dùng các nguồn vốn để cho vay, đầu tư tài chính Tài sản Có trong các ngân hàng thương 
mại bao gồm tài sản Có nội bảng (Tài sản được phản ánh trong bảng cân đối kế toán) và tài 
sản Có ngoại bảng (Tài sản Có nằm ngoài bảng cân đối kế toán).
b/ Quản trị tài sản Có: Quản trị tài sản có là việc xác lập một cơ chế để phân bổ việc sử dụng 
nguồn vốn vào các khoản mục khác nhau của tài sản Có sao cho hợp lý và tối ưu nhất, để vừa 
đảm bảo hiệu quả cao nhưng lại vừa đảm bảo an toàn
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 25 trang
25 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 5594 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Quản trị tài sản có trong các ngân hàng thương mại thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HỒ CHÍ MINH 
Chuyên đề 
QUẢN TRỊ TÀI SẢN CÓ TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 
SVTH: Nhóm 4 
GVHD: Thầy Nguyễn Đăng Dờn 
Lớp: Tài chính doanh nghiệp-Đêm 4 
Khóa: 19 
TP.Hồ Chí Minh - năm 2010
Quản trị tài sản có trong các ngân hang thương mại – Thực trạng và giải pháp 
GVHD: Thầy Nguyễn Đăng Dờn Trang 2 
I. TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ TÀI SẢN CÓ CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG 
MẠI 
1. Các khái niệm 
a/ Tài sản có: là toàn bộ tài sản của ngân hàng được tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể (sự hiện 
hữu của tài sản) bao gồm: Tiền, vàng, ngoại tệ, các tài sản cố định hữu hình, vô hình, các loại 
công cụ dụng cụ dùng trong quản lý kinh doanh ngân hàng. Số dư các khoản cho vay và đầu 
tư tồn tại dưới dạng tài sản tài chính và những tài sản hiện hữu khác. 
Đứng ở góc độ kinh tế thì tài sản Có là giá trị biểu hiện bằng tiền của các loại tài sản mà ngân 
hàng đang có quyền sở hữu một cách hợp pháp. Đó là những tài sản hiện đang được sử dụng 
cho những mục đích khác nhau nhằm mang lại thu nhập cho ngân hàng. Đứng ở góc độ Kế 
toán Thống kê, thì tài sản Có là những tài sản bằng hiện vật hoặc hiện kim, tồn tại bằng hữu 
hình hoặc vô hình được thể hiện ở bên Có của Bảng Cân đối kế toán, bất kể nó được tạo ra từ 
nguồn nào. 
 Tài sản Có = Vốn chủ sở hữu + Nợ phải trả 
 Tài sản Có = Nguồn vốn huy động + Nguồn vốn tự có của NH 
Theo một cách tiếp cận khác thì tài sản Có là kết quả của việc sử dụng vốn của ngân hàng, là 
những tài sản được hình thành từ các nguồn vốn của ngân hàng trong quá trình hoạt động 
như dùng vốn của ngân hàng trong quá trình hoạt động như dùng vốn tự có để xây dựng, mua 
sắm tài sản Cố định, các công cụ dụng cụ quản lý, các vật liệu giấy tờ, văn phòng phẩm, 
dùng các nguồn vốn để cho vay, đầu tư tài chính…Tài sản Có trong các ngân hàng thương 
mại bao gồm tài sản Có nội bảng (Tài sản được phản ánh trong bảng cân đối kế toán) và tài 
sản Có ngoại bảng (Tài sản Có nằm ngoài bảng cân đối kế toán). 
b/ Quản trị tài sản Có: Quản trị tài sản có là việc xác lập một cơ chế để phân bổ việc sử dụng 
nguồn vốn vào các khoản mục khác nhau của tài sản Có sao cho hợp lý và tối ưu nhất, để vừa 
đảm bảo hiệu quả cao nhưng lại vừa đảm bảo an toàn. 
Quản trị tài sản có trong các ngân hang thương mại – Thực trạng và giải pháp 
GVHD: Thầy Nguyễn Đăng Dờn Trang 3 
Nói cách khác: Quản trị tài sản có là việc quản lý các danh mục sử dụng vốn của ngân hàng 
nhằm tạo một cơ cấu tài sản hợp lý nhất gồm ngân quỹ, tín dụng, đầu tư và các tài sản khác. 
Đảm bảo cho ngân hàng hoạt động kinh doanh ổn định vững chắc vừa an toàn vừa có hiệu 
quả cao nhất. 
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, với mục tiêu lợi nhuận càng nhiều 
càng tốt thì vấn đề quản trị tài sản Có có vị trí đặc biệt quan trọng. Quản trị tài sản Có không 
chỉ đơn thuần là quản lý tài sản, mà là việc phân bổ nguồn lực để tạo ra những tài sản có 
khả năng sinh lời cao, đồng thời tạo sự an toàn cao trong phân bổ và sử dụng tài sản. Quản 
trị tài sản có đóng vai trò trung tâm, chi phối các lĩnh vực quản trị khác trong ngân hàng 
thương mại. Chính vì vậy, các nguồn lực về con người, về cơ sở hạ tầng công nghệ, và tất cả 
nguồn vốn cũng đều hướng đến quản trị tài sản Có sao cho đạt hiệu quả tối ưu. Quản trị tài 
sản Có gắn liền với quản trị kinh doanh, thực chất của quản trị tài sản Có là quản trị kinh 
doanh với mục đích an toàn và hiệu quả. 
 Các yếu tố tác động và chi phối đến quản trị tài sản Có: 
a/ Yếu tố pháp lý: Hoạt động kinh doanh của ngân hàng là hoạt động kinh doanh có điều 
kiện, chính vì vậy mọi lĩnh vực và khía cạnh trong hoạt động đó đều phải dựa vào yếu tố 
pháp lý. Quản trị tài sản Có, không những là hoạt động có liên quan đến quá trình và kết quả 
kinh doanh mà còn liên quan đến những vấn đề rủi ro, và vì vậy ảnh hưởng đến toàn bộ hệ 
thống ngân hàng thương mại. Do đó yếu tố pháp lý sẽ ảnh hưởng và chi phối rất mạnh đến 
hoạt động quản trị nói chung và quản trị tài sản Có nói riêng, hoạt động quản trị luôn dựa vào 
các văn bản của pháp luật: Bộ luật Dân sự, Luật TCTD, Luật Đất đai, Luật các Công cụ 
Chuyển nhượng, Luật Thừa kế, Luật Doanh nghiệp. Các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn 
thực hiện các luật liên quan. Các quyết định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các Thông 
tư hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật… 
b/ Yếu tố về quan hệ hai chiều: Quản trị tài sản Có, với trọng tâm là quản trị Tín dụng và 
quản trị hoạt động đầu tư. Các hoạt động này đều phải giải quyết mối liên hệ thông qua giữa 
ngân hàng với khách hàng, lợi ích của hai bên đều phải được tôn trọng và xử lý thỏa đáng, 
Quản trị tài sản có trong các ngân hang thương mại – Thực trạng và giải pháp 
GVHD: Thầy Nguyễn Đăng Dờn Trang 4 
không được coi trọng hay xem nhẹ lợi ích của một bên, có như vậy mới tạo ra sự vững chắc 
và lâu bền. 
c/ Yếu tố về hiệu quả và sự an toàn của Ngân hàng trong hoạt động kinh doanh: 
Hoạt động kinh doanh nói chung và kinh doanh tiền tệ nói riêng bao giờ cũng hướng đến 
hiệu quả tài chính cuối cùng, đó chính là lợi nhuận. Nhưng hoạt động kinh doanh ngân hàng 
lại liên quan rộng rãi đến mọi đối tượng trong xã hội, có ảnh hưởng đến hầu hết các ngành, 
các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, điều này đòi hỏi phải giải quyết hài hòa vấn đề hiệu 
quả và vấn đề an toàn. Tạo ra hiệu quả nhưng phải đảm bảo an toàn là tư tưởng xuyên suốt 
trong công tác quản trị tài sản Có. 
2. Các thành phần của tài sản có 
2.1 Tài sản Có nội bảng (Tài sản có phản ánh trong bảng cân đối kế toán) 
 a. Ngân quỹ 
Ngân quỹ là khoản mục tài sản Có, có tính thanh khoản cao mà ngân hàng phải duy trì để 
đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh, bao gồm tiền mặt tại quỹ và tiền gửi tại các 
ngân hàng khác. Thông thường đây là những tài sản không sinh lời, được duy trì chủ yếu để 
đáp ứng nhu cấu chi trả cho khách hàng gửi tiền, chi phí hoạt động của ngân hàng, bù đắp 
thiếu hụt trong thanh toán bù trừ và thực hiện dự trữ bắt buộc theo quy định của ngân hàng 
Nhà nước. Trung bình hiện nay, ngân quỹ chiếm khoảng 15% tới 30% tổng tài sản Có của 
các ngân hàng và trong tương lai khoản mục này có xu hướng ngày càng giảm vì sự phát 
triển của thanh toán không dùng tiền mặt và trình độ quản lý của ngân hàng. 
 Tiền mặt 
 Tiền mặt là tài sản có không sinh lời, nhưng luôn phải duy trì để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu 
rút tiền mặt của khách hàng. Đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt, tức là đáp ứng nhu cầu thanh 
khoản, đây là yêu cầu có tính chất bắt buộc và là yêu cầu cao nhất trong quản trị ngân hàng 
nói chung và quản trị tài sản nói riêng. 
Quản trị tài sản có trong các ngân hang thương mại – Thực trạng và giải pháp 
GVHD: Thầy Nguyễn Đăng Dờn Trang 5 
 Tính toán xác định khối lượng tiền mặt tối thiểu phải duy trì:các ngân hàng luôn phải tính 
toán, xác định một dư lượng tiền mặt ngân quỹ sao cho đủ đáp ứng nhu cầu nhưng không 
quá dư thừa làm sụt giảm hiệu quả kinh doanh. 
 Tùy tình hình thực tế mà tăng giảm tồn quỹ một cách hợp lý. 
 Tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước 
Tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước nằm trong khoản mục tài sản dự trữ sơ cấp, nhưng lại là tài 
sản có sinh lời, nhưng điều quan trọng không phải là ở chỗ đó, quan trọng là để phục vụ cho 
các giao dịch thanh toán vốn giữa các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng với nhau. 
Tiền gửi tại NHNN bao gồm: 
 Tiền gửi để duy trì dự trữ bắt buộc theo tỷ lệ quy định 
 Tiền gửi để đáp ứng nhu cấu giao dịch và thanh toán bù trừ 
 Tiền gửi khác 
Tiền gửi tại các Tổ chức tín dụng khác 
Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại luôn có phát sinh giao dịch thanh toán 
vốn giữa các ngân hàng với nhau, điều này đòi hỏi các ngân hàng phải mở tài khoản tiền gửi 
để đáp ứng nhu cầu giao dịch thanh toán song phương với nhau. 
 b. Cho vay các Tổ chức tín dụng khác 
Trong quá trình kinh doanh các ngân hàng thương mại có thể phát sinh trường hợp thiếu vốn 
khả dụng hoặc mất khả năng thanh khoản, trong những trường hợp như vậy, các ngân hàng 
sẽ giúp đỡ, hỗ trợ, và cho vay lẫn nhau qua thị trường liên ngân hàng. 
 c. Cho vay các tổ chức kinh tế và cá nhân 
 Khoản mục cho vay các tổ chức kinh tế và cá nhân là khoản mục chủ yếu, chiếm tỷ trọng 
lớn nhất trong toàn bộ tài sản Có của bất kỳ một ngân hàng thương mại nào. 
 Cho vay các tổ chức kinh tế và cá nhân đồng thời là khoản mục tài sản có sinh lời lớn nhất 
của các ngân hàng thương mại. 
 Khoản mục cho vay các tổ chức kinh tế và cá nhân cũng là khoản mục thường xuyên phát 
sinh rủi ro, và có độ rủi ro cao nhất trong tổng tài sản có của NHTM 
Quản trị tài sản có trong các ngân hang thương mại – Thực trạng và giải pháp 
GVHD: Thầy Nguyễn Đăng Dờn Trang 6 
Vì vậy, khoản mục này được chú ý và quan tâm hàng đầu trong quản trị tài sản Có. Khoản 
mục này phải được theo dõi, quản lý chặt chẽ để phòng ngừa, ngăn chặn và có biện pháp xử 
lý khi có rủi ro xảy ra. 
Có thể phân biệt khoản mục này thành hai loại: 
Cho vay trực tiếp 
Người xin vay tiến hành các thủ tục vay vốn, ngân hàng sau khi thẩm định kiểm tra hồ sơ vay 
vốn của khách hàng, nếu nhu cấu vay vốn hợp lệ có khả năng trả nợ, có tài sản đảm bảo (nếu 
không được vay bằng tín chấp) thì ngân hàng sẽ thực hiện cho vay. Khách hàng muốn nhận 
được vốn vay đều phải ký khế ước. Khi đến hạn, khách hàng vay vốn trả nợ gốc và lãi cho 
ngân hàng, nếu đến hạn khách hàng không trả nợ thì ngân hàng được quyền phát mãi tài sản 
hoặc áp dụng các chế tài khác để thu nợ. Nghiệp vụ này được gọi là cho vay trực tiếp vì 
người đi vay và người trả nợ là một chủ thể. 
 Nếu căn cứ vào thời hạn, cho vay được chia làm 3 loại: 
- Cho vay ngắn hạn: Thời gian từ một ngày đến một năm 
- Cho vay trung hạn: Thời hạn từ một năm đến năm năm 
- Cho vay dài hạn: Thời hạn trên năm năm 
- Cho vay ngắn hạn chủ yếu để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh (vốn luân chuyển) trong khi 
cho vay trung hạn, dài hạn để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho các đơn vị, các tổ chức kinh 
tế. 
 Nếu căn cứ vào tính chất bảo đảm của khoản vay, nó được chia làm 2 loại: 
- Cho vay có bảo đảm: đây là loại cho vay áp dụng với những khách hàng chưa quen (vay 
vốn lần đầu) hoặc khách hàng chưa có uy tín với ngân hàng…Đối với những khách hàng vay 
vốn thuộc loại này, bắt buộc phải có tài sản làm bảo đảm. 
- Cho vay bằng tín chấp: Áp dụng đối với những khách hàng truyền thống có quan hệ tín 
dụng với ngân hàng lâu năm, đồng thời đó là những khách hàng có tình trạng tài chính vững 
Quản trị tài sản có trong các ngân hang thương mại – Thực trạng và giải pháp 
GVHD: Thầy Nguyễn Đăng Dờn Trang 7 
chắc, sản xuất kinh doanh ổn định, có lãi, có quan hệ tốt trong giao dịch với khách hàng và 
ngân hàng – nợ nần được thanh toán sòng phẳng, kịp thời. 
 Nếu căn cứ vào tính chất sử dụng vốn, ta chia thành hai loại: 
- Cho vay có tính chất sản xuất kinh doanh (cho vay đối với các đơn vị kinh tế) 
- Cho vay tiêu dùng (cho vay trả góp, cho vay xây dựng sửa chữa nhà, cho vay thanh toán 
thẻ…) cho vay tiêu dùng chủ yếu áp dụng đối với cá nhân. 
Cho vay gián tiếp 
Cho vay gián tiếp là khoản cho vay được thực hiện bằng cách chiết khấu chứng từ có giá, 
hoặc mua lại các chứng từ nợ thương mại theo thoả thuận giữa ngân hàng với khách hàng. 
Cho vay gián tiếp được thực hiện dưới các loại hình sau: 
 Chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá: Ngân hàng mua các thương phiếu và chứng 
từ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán gọi là chiết khấu. Nếu khách hàng là người chủ 
sở hữu các thương phiếu và chứng từ có giá, chưa đến hạn thanh toán, cần phải có tiền 
ngay thì có thể đến ngân hàng xin chiết khấu, tức là xin nhận tiền trước theo cách khấu trừ 
tiền lãi và phải chuyển quyền sở hữu chứng từ cho ngân hàng chiết khấu. Khi chứng từ đến 
hạn ngân hàng sẽ xuất trình cho người trả tiền, và người trả tiền thanh toán toàn bộ số tiền 
tệ chứng từ cho ngân hàng chiết khấu. 
 Nghiệp vụ bao thanh toán: 
Trong nghiệp vụ này NHTM (thông qua công ty con của mình) sẽ đứng ra mua nợ trên cở sở 
hoá đơn, chứng từ của người bán hàng (giá mua bao giờ cũng nhỏ hơn giá trị thực của khoản 
nợ), nhờ đó người bán (người chủ nợ có được tiền ngay để đáp ứng nhu cầu. Khi đến hạn 
người mua (con nợ) phải thanh toán toán bộ số tiền cho ngân hàng (người mua nợ và là chủ 
nợ mới. Nghiệp vụ này giống với nghiệp vụ chiết khấu – nhưng số tiền khấu trừ trong nghiệp 
vụ bao thanh toán cao hơn nhiều so với nghiệp vụ chiết khấu bởi vì nó có hệ số rủi ro cao 
hơn. 
Bảo lãnh ngân hàng 
Quản trị tài sản có trong các ngân hang thương mại – Thực trạng và giải pháp 
GVHD: Thầy Nguyễn Đăng Dờn Trang 8 
Bảo lãnh ngân hàng là tín dụng bằng chữ ký, nhờ chứng thư bảo lãnh của nhà ngân hàng, mà 
người được bảo lãnh có thể ký kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế, thương mại, hợp đồng 
tài chính một cách thuận lợi. Tuy bảo lãnh là nghiệp vụ tín dụng không xuất vốn nhưng lại có 
rủi ro vì ngân hàng bảo lãnh buộc phải thực hiện cam kết bảo lãnh, khi người bảo lãnh vì lý 
do gì đó đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình, nghĩa là ngân 
hàng bảo lãnh phải đứng ra trả tiền thay cho người được bảo lãnh. 
Khoản mục tín dụng là khoản mục rất quan trọng vì không những nó là khoản mục tài sản có 
sinh lời lớn mà còn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản Có của ngân hàng. Khoản mục 
này thu hút hầu hết các nguồn vốn của ngân hàng, tạo ra phần lớn thu nhập của ngân hàng và 
đồng thời là khoản mục chứa rất nhiều rủi ro. 
Giá trị của các danh mục của khoản mục tín dụng cao hay thấp tuỳ thuộc vào các yếu tố sau: 
- Đặc điểm của khu vực thị trường nơi ngân hàng đang hoạt động. 
- Quy mô của ngân hàng, đặc biệt là quy mô vốn tự có. 
- Kinh nghiệm và trình độ quản lý 
- Lợi nhuận mong đợi của một khoản tín dụng 
 d. Các khoản đầu tư: 
Khoản mục đầu tư là khoản mục tài sản Có sinh lời lớn thứ hai sau khoản mục cho vay, chính 
vì vậy đây là khoản mục mà nhiều ngân hàng phải tập trung quản lý. 
Nó bao gồm các hình thức: 
Đầu tư trực tiếp: 
Là hình thức đầu tư trong đó chủ đầu tư tham gia đầu tư trực tiếp, tham gia quản lý kinh 
doanh tại cơ sở đầu tư. Kết quả đầu tư có lãi thì được hưởng theo tỷ lệ vốn tham gia, nếu bị 
thua lỗ, sẽ cùng nhau gánh chịu. Đầu tư t rực tiếp bao gồm: 
Quản trị tài sản có trong các ngân hang thương mại – Thực trạng và giải pháp 
GVHD: Thầy Nguyễn Đăng Dờn Trang 9 
 Góp vốn liên doanh: Các ngân hàng có thể tham gia đầu tư trực tiếp bằng cách góp vốn 
liên doanh để thành lập Ngân hàng liên doanh, tổ chức tài chính liên doanh, hoặc các tổ 
chức kinh tế liên doanh ngoài ngành. 
 Góp vốn mua cổ phần: Các ngân hàng thương mại có thể góp vốn mua cổ phần của các tổ 
chức tín dụng hoặc của các tổ chức kinh tế. 
 Cấp vốn thành lập công ty trực thuộc (Công ty con): Chính sách này không những làm cho 
hoạt động kinh doanh với nhiều trụ cột để đảm bảo tính vững chắc, ổn định trong điều kiện 
cạnh tranh khá gay gắt của thể chế thị trường tài chính, mà còn có xu hướng để từng bước 
hình thành tập đoàn tài chính – ngân hàng đa năng. 
Trong đầu tư t rực tiếp, các ngân hàng cần lưu ý những điều sau: 
- Chỉ được sử dụng vốn tự có bao gồm vốn điều lệ, và quỹ dự trữ để đầu tư trực tiếp 
- Tổng mức đầu tư t rực tiếp không được vượt quá 40% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của ngân 
hàng tính đến thời điểm đầu tư. 
- Mức đầu tư riêng biệt không được vượt quá 11% vốn điều lệ của Doanh nghiệp hoặc giá trị 
dự án, quỹ đầu tư (không kể tham gia liên doanh trong ngân hàng) 
- Toàn bộ vốn đầu tư sẽ bị loại ra khỏi vốn tự có khi tính các tỷ lệ an toàn. 
Đầu tư tài chính (Đầu tư gián tiếp) 
Các ngân hàng thực hiện đầu tư bằng cách mua các chứng khoán nợ dài hạn như: Trái phiếu 
chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu ngân hàng, trái phiếu công ty. Hoặc mua các chứng từ 
có giá ngắn hạn như: Tín phiếu Kho bạc, Tín phiếu NHTW, kỳ phiếu, thương phiếu. Các 
công cụ trên thị trường tiền tệ được các ngân tham gia đầu tư khá phổ biến có hai loại: 
 Tín phiếu kho bạc: 
Là giấy nhận nợ ngắn hạn do Kho Bạc Nhà nước phát hành để huy động và bù đắp thiếu hụt 
tạm thời của Ngân sách Nhà nước. Với các ngân hàng thương mại, tín phiếu kho bạc là công 
cụ đầu tư hấp dẫn bởi vì có độ can toàn cao, thị giá thị trường khá ổn định, và đặc biệt được 
Quản trị tài sản có trong các ngân hang thương mại – Thực trạng và giải pháp 
GVHD: Thầy Nguyễn Đăng Dờn Trang 10 
mua bán phổ biến trên Thị trường Mở, trên thị trường liên ngân hàng, được dùng làm tài sản 
bảo đảm để vay vốn từ ngân hàng trung ương. 
 Tín phiếu ngân hàng Nhà nước: 
Là giấy nhận nợ có kỳ hạn của NHNN Việt Nam đổi với người mua tín phiếu. Khi đến hạn 
NHNN thanh toán cho người mua Tín phiếu cả vốn và lãi (nếu lãi trả sau) hoặc thanh toán 
theo mệnh giá (nếu lãi trả trước). 
Các công cụ trên thị trường vốn được các ngân hàng đầu tư phổ biến gồm có: 
- Trái phiếu chính phủ 
- Trái phiếu đô thị 
- Kỳ phiếu ngân hàng có thời hạn trên một năm 
- Trái phiếu công ty, kể cả trái phiếu ngân hàng 
Đầu tư gián tiếp nhằm mục đích: 
- Hưởng thu nhập và ổn định thu nhập: Thu nhập do đầu tư tài chính mang lại thường có tính 
ổn định cao vì các chứng khoán nợ có lãi suất ổn định. Điều này không những giúp ngân 
hàng có được thu nhập mà còn giúp ngân hàng ổn định thu nhập. 
- Tạo ra tài sản sinh lời và giảm thiểu rủi ro tín dụng: Tài sản có sinh lời trong ngân hàng 
thương mại có hai khoản mục là Tín dụng và Đầu tư. Trong đó tín dụng mang lại tỷ suất thu 
nhập cao hơn, nhưng lại có mức độ rủi ro lớn, trong khi đó khoản mục đầu tư có tỷ suất thu 
nhập thấp hơn nhưng lại có mức độ rủi ro thấp hơn. Chính vì vậy phải phân bổ tài sản có sinh 
lời một cách hợp lý nhất để phân tán rủi ro. 
- Kịp thời điều chỉnh thanh khoản và chuyển đổi tài sản có một cách linh hoạt 
Các ngân hàng có thể sử dụng vốn tự có để đầu tư gián tiếp cũng có thể sử dụng các nguồn 
vốn khác, nhưng những nguồn này phải có tính ổn định cao để tránh tình trạng mất khả năng 
thanh khoản. 
Quản trị tài sản có trong các ngân hang thương mại – Thực trạng và giải pháp 
GVHD: Thầy Nguyễn Đăng Dờn Trang 11 
e. Tài sản cố định và tài sản khác: 
Là các tài sản mà ngân hàng bắt buộc phải xây dựng, mua sắm để tạo ra cơ sở hạ tầng kỹ 
thuật cho mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 
f. Tài sản có khác (công cụ, dụng cụ, các khoản phải thu, chi phí chưa kết chuyển…) 
2.2 Tài sản có ngoại bảng: 
Là những tài sản chưa định hình, do đó chưa được phản ánh vào các khoản mục trong Bảng 
cân đối kế toán, gồm có: 
 Các cam kết bảo lãnh cho khách hàng 
 Phát hành thư Tín dụng 
 Chấp nhận hối phiếu thương mại 
 Các cam kết giao dịch hối đoái 
 Các hợp động giao dịch lãi suất 
3. Các nguyên tắc quản trị tài sản Có: 
a/ Chấp hành đúng các quy định về các giới hạn sử dụng vốn: 
 Giới hạn cho vay: 
- Tổng dư nợ cho vay một khách hàng ≤ 15% Vốn tự có của Ngân hàng 
- Tổng dư nợ và tổng mức Bảo lãnh cho một khách hàng ≤ 25% Vốn tự có của Ngân hàng 
- Tổng dư nợ cho vay một nhóm khách hàng ≤ 50% Vốn tự có của Ngân hàng 
- Tổng dư nợ và tổng mức Bảo lãnh cho một nhóm khách hàng ≤60% Vốn tự có của Ngân 
hàng. 
 Giới hạn cho thuê tài chính: không vượt quá 40% vốn của Ngân hàng 
 Giới hạn đầu tư thương mại: Không được vượt quá 40% vốn của Ngân hàng 
 Tỷ lệ tối đa sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn 
- Đối với các NHTM: tỷ lệ này là 40% 
Quản trị tài sản có trong các ngân hang thương mại – Thực trạng và giải pháp 
GVHD: Thầy Nguyễn Đăng Dờn Trang 12 
- Đối với các tổ chức tín dụng khác: tỷ lệ này là 30% 
b/ Đa dạng hóa các khoản mục tài sản có: 
Theo nguyên tắc này, tài sản có phải được phân bổ ra nhiều khoản mục, không nên tập trung 
quá lớn vào một khoản mục nhất định. Sự phân bổ như vậy không phải là một phép chia bình 
quân thuần túy, mà là một sự phân bổ có cơ sở, theo những mục đích xác định trong từng 
thời kỳ kinh doanh. 
 Tuân thủ nguyên tắc này, quản trị tài sản Có cần làm phong phú tài sản có như: 
- Các khoản mục dự trữ: Dự trữ sơ cấp (Tiền