Bến Tre là một tỉnh thuộc Vùng Đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích tự nhiên là: 2.360,2 km2, được hình thành bởi cù lao An Hoá, cù lao Bảo, cù lao Minh và do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long bồi tụ mà thành (gồm sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông, sông Cổ Chiên). Điểm cực bắc của Bến Tre nằm trên vĩ độ 9048' bắc, điểm cực Nam nằm trên vĩ độ 10020' Bắc, điểm cực đông nằm trên kinh độ 106048' đông, điểm cực Tây nằm trên kinh độ 105057' Đông. Bến Tre tiếp giáp với biển Đông, có bờ biển dài 65 km. Phía bắc giáp Tiền Giang, phía tây và tây nam giáp Vĩnh Long, phía nam giáp Trà Vinh. Thị xã Bến Tre cách Thành phố Hồ Chí Minh 85 km. Với vị trí như vậy tỉnh Bến Tre có tiềm năng lớn trong việc nuôi trồng thủy sản.
12 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2343 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Quy hoạch vùng nuôi tôm thẻ chân trắng tỉnh Bến Tre, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA MÔI TRƯỜNG
&
CHUYÊN ĐỀ
QUY HOẠCH VÙNG NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG TỈNH BẾN TRE
Môn Quản Lý MT NN và NT
GVHD : Th.S Trần Thị Mai Phương
SVTH: Dương Chánh Phát 0717079
Lê Hữu Lợi – 0717051
Nguyễn Lê Anh Thảo- 07170
TP Hồ Chí Minh , tháng 12 năm 2010
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ NGUỒN LỢI THỦY SẢN TỈNH BẾN TRE……………………………………………………………………………….3
I Điều kiện tự nhiên………………………………………………………3
1 Vị trí địa lý.......................................................................................3
2 Khí hậu…………………………………………………………….3
3 Đặc điểm địa hình………………………………………………….4
4 Tài nguyên thiên nhiên…………………………………………….4
II Nguồn lợi thủy sản và thủy sinh vật……………………………………7
CHƯƠNG 2 ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI LIÊN QUAN ĐẾN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN CỦA TỈNH…………………………………………………………10
1 Phát triển kinh tế……………………………………………………….10
2.Chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế………………………….10
3. Cơ cấu GDP và vốn đầu tư………………………………………….14
CHƯƠNG 3 HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG
1 Tình hình phát triển chung của tỉnh Bến Tre………………………..14
2 Tình hình phát triển của huyện……………………………………….15
3 Hiện trạng nuôi tôm ven biển các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long...16
a.Tỉnh Tiền Giang…………………………………………………16
b.Tỉnh Trà Vinh……………………………………………………17
CHƯƠNG 4 QUY HOẠCH VÙNG NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG TỈNH BẾN TRE……………………………………………………………………………..18
1 Định hướng quy hoạch phát triển chung…………………………..18
2 Một số mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng …………………………25
3 Một số bệnh thường gặp và biện pháp phòng ngừa trong nuôi tôm thẻ chân trắng…………………………………………………………………………..27
CHƯƠNG 5 CÁC GIẢI PHÁP TRIỂN KHAI THỰC HIỆN QUY HOẠCH
I Tính nguyên tắc………………………………………………………30
II Các giải pháp………………………………………………………..30
III Thực hiện chính sách………………………………………………32
IV Tổ chức thực hiện…………………………………………………..34
CHƯƠNG 1 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ NGUỒN LỢI THỦY SẢN TỈNH
BẾN TRE
Điều kiện tự nhiên:
1.Vị trí địa lý:
Bến Tre là một tỉnh thuộc Vùng Đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích tự nhiên là: 2.360,2 km2, được hình thành bởi cù lao An Hoá, cù lao Bảo, cù lao Minh và do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long bồi tụ mà thành (gồm sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông, sông Cổ Chiên). Điểm cực bắc của Bến Tre nằm trên vĩ độ 9048' bắc, điểm cực Nam nằm trên vĩ độ 10020' Bắc, điểm cực đông nằm trên kinh độ 106048' đông, điểm cực Tây nằm trên kinh độ 105057' Đông. Bến Tre tiếp giáp với biển Đông, có bờ biển dài 65 km. Phía bắc giáp Tiền Giang, phía tây và tây nam giáp Vĩnh Long, phía nam giáp Trà Vinh. Thị xã Bến Tre cách Thành phố Hồ Chí Minh 85 km. Với vị trí như vậy tỉnh Bến Tre có tiềm năng lớn trong việc nuôi trồng thủy sản.
2.Khí hậu:
Bến Tre nằm trong miền khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nhưng lại nằm ngoài ảnh hưởng của gió mùa cực đới, nên nhiệt độ cao, ít biến đổi trong năm, nhiệt độ trung bình hằng năm từ 260C – 270C. Trong năm không có nhiệt độ tháng nào trung bình dưới 200C. Với vị trí nằm tiếp giáp với biển Đông, nhưng Bến Tre ít chịu ảnh hưởng của bão, vì nằm ngoài vĩ độ thấp (bão thường xảy ra từ vĩ độ 150 bắc trở lên). Ngoài ra, nhờ có gió đất liền, nên biên độ dao động ngày đêm giữa các khu vực bị giảm bớt.
Tỉnh Bến Tre chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau và gió mùa tây nam từ tháng 5 đến tháng 11, giữa 2 mùa gió tây nam và đông bắc là 2 thời kỳ chuyển tiếp có hướng gió thay đổi vào các tháng 11 và tháng 4 tạo nên 2 mùa rõ rệt. Mùa gió đông bắc là thời kỳ khô hạn, mùa gió tây nam là thời kỳ mưa ẩm. Lượng mưa trung bình hằng năm từ 1.250 mm – 1.500 mm. Trong mùa khô, lượng mưa vào khoảng 2 đến 6% tổng lượng mưa cả năm.
Khí hậu Bến Tre cũng cho thấy thích hợp với nhiều loại hình nuôi trồng thủy sản. Ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm thuận lợi cho sự phát triển của các loại thủy sản khác nhau. Tuy nhiên, ngoài thuận lợi trên, Bến Tre cũng gặp những khó khăn do thời tiết nóng ẩm nên thường có nạn dịch bệnh phát triển quanh năm.
Trở ngại đáng kể trong nông nghiệp là vào mùa khô, lượng nước từ thượng nguồn đổ về giảm nhiều và gió chướng mạnh đưa nước biển sâu vào nội địa, làm ảnh hưởng đến độ mặn đối với các huyện gần phía biển và ven biển vì ảnh ảnh hưởng lớn đến việc nuôi trồng.
3.Đặc điểm địa hình:
Địa hình của Bến Tre bằng phẳng, rải rác những giồng cát xen kẽ với ruộng vườn, không có rừng cây lớn, chỉ có một số rừng chồi và những dải rừng ngập mặn ở ven biển và các cửa sông. Nhìn từ trên cao xuống, Bến Tre có hình giẻ quạt, đầu nhọn nằm ở thượng nguồn, các nhánh sông lớn như hình nan quạt xòe rộng ở phía đông. Những con sông lớn nối từ biển Đông qua các cửa sông chính (cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiên), ngược về phía thượng nguồn đến tận Campuchia; cùng hệ thống kênh rạch chằng chịt khoảng 6.000 km đan vào nhau chở nặng phù sa chảy khắp ba dải cù lao. Với vị trí như vậy tạo điều kiện thuận lợi cho ngành thủy sản Bến Tre phát triển thong qua việc chuyể giao kĩ thuật công nghệ, trao đổi sản phẩm, giao lưu kinh tế với các vùng lân cận.
Địa hình tỉnh Bến Tre có thể chia thành 3 vùng nông nghiệp là vùng ngọt, vùng lợ và vùng mặn. Tại vùng lợ và mặn, có nhiều điều kiện thuận lợi phát triển mạnh nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy sản. Theo số liệu báo cáo, giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2009 tăng khá, đạt 7,706 tỷ đồng, bằng 103,18% kế hoạch trong đó thủy sản chiếm 33,07%.
4. Tài nguyên thiên nhiên:
a. Tài nguyên nước
Trên lãnh thổ Bến Tre có 4 con sông lớn chảy qua, đó là các sông Mỹ Tho, Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên. Tất cả đều chảy theo hướng tây bắc – đông nam và đổ ra biển hàng trăm tỷ mét khối nước mỗi năm. Trải qua hàng chục thế kỷ, dòng sông đã cần mẫn chuyên chở phù sa từ phía thượng nguồn, bồi tụ nên vùng Nam Bộ phì nhiêu, trong đó có đất Bến Tre. Bốn con sông này đã giữ một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hoá của nhân dân trong tỉnh: cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt và cho nông nghiệp, những thức ăn giàu đạm như tôm, cá, cua, ốc, góp phần làm tươi đẹp cảnh quan, điều hoà khí hậu của một vùng đất cù lao ba bề sông nước. Từ môi trường thuận lợi này, các con sông đóng vai trò quan trọng trong việc nuôi trồng thủy sản, là nguồn giữ nước và cấp nước dồi dào. Ngoài ra, các con sông này cũng đóng vai trò chứa lượng nước thải (nước thải đã qua xử lý) của quá trình nuôi trồng.
Ngoài bốn con sông chính trên, Bến Tre còn có một mạng lưới sông, rạch, kênh đào chằng chịt nối liền nhau, tạo thành một mạng lưới giao thông và thủy lợi rất thuận tiện. Trung bình đi dọc theo các sông chính, cứ cách khoảng 1 đến 2 km là có một con rạch hay kênh. Bến Tre có hàng trăm sông, rạch và kênh, trong khi đó có trên 60 con sông, rạch, kênh rộng từ 50 – 100 m.
c. Tài nguyên động vật – thực vật
Bến Tre là vùng đất trẻ có nhiều cửa biển, nằm ở cuối nguồn hệ sông lớn Cửu Long. Những cù lao lớn – cũng có nghĩa là phần lớn đất chính của Bến Tre – luôn luôn được phù sa bồi đắp và hàng năm vươn dài ra biển. Nằm ở giữa môi trường sông và biển, chịu ảnh hưởng của khí hậu gió mùa nhiệt đới nên cảnh quan tự nhiên của Bến Tre mang đặc trưng của miền địa lý động vật, thực vật của miền Tây Nam Bộ. Những con sông lớn và vùng biển Đông ở Bến Tre có nhiều loại thủy sản như cá vược, cá dứa, cá bạc má, cá thiều, cá mối, cá cơm, nghêu, cua biển và tôm he. Đây là sự thuận lợi lớn, nhờ vậy việc nuôi trông sẽ đa dạng về loại giống.
5. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu:
Ngày nay, dưới tác động của biến đổi khí hậu làm cho bão, lũ, hạn hán, tình hình xâm nhập mặn... diễn ra ngày càng gay gắt và phức tạp, gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân mà theo đánh giá của các nhà khoa học thì Bến Tre là một trong những tỉnh bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Do vậy, các biến động khí hậu này đã ảnh hưởng sâu sắc đến việc nuôi trồng thủy sản của tỉnh Bến Tre.
Trong những năm qua, hàng năm tỉnh Bến Tre đã tổ chức trồng mới thêm hàng trăm ha rừng tập trung và hàng triệu cây phân tán, nâng diện tích rừng của tỉnh lên 3.842 ha. Thông qua chính sách giao khoán rừng, đất rừng và cho người dân được hưởng lợi từ các sản phẩm từ rừng theo Quyết định 178 của Chính phủ; các mô hình sản xuất kết hợp với quản lý bảo vệ rừng có hiệu quả (nuôi tôm, sò huyết trong rừng…), góp phần cải thiện và nâng cao thu nhập cho người dân vùng ven biển. Mặc dù diện tích rừng ngập mặn của tỉnh không nhiều nhưng nó có vai trò rất quan trọng trong việc phòng hộ bảo vệ môi trường, phòng chống xói lở, cố định bãi bồi, đặc biệt là giữ vững sự cân bằng sinh thái vùng cửa sông ven biển, và góp phần lớn trong việc bảo vệ nguồn thủy sản khỏi những thiên tai.
Trồng rừng Đước kết hợp nuôi tôm
Chế độ thủy triều
Nằm kề bên biển Đông, những con sông Bến Tre không những tiếp nhận nguồn nước từ Biển Hồ đổ về, mà hằng ngày, hằng giờ còn tiếp nhận nguồn nước biển do thủy triều đẩy vào. Tuy mức độ mỗi sông, hoặc mỗi đoạn sông có khác nhau, song ở bất kỳ chỗ nào, từ Mỹ Thuận tới các cửa sông, mùa cạn hay mùa lũ, mực nước các sông hằng ngày đều có dao động theo sự chi phối của thủy triều. Sự lên xuống của thủy triều ảnh hưởng lớn đến độ mặn của đất và ảnh hưởng đến chất lượng thủy hải sản.
Biên độ thủy triều:
Vùng biển Bến Tre thuộc phạm vi khu vực bán nhật triều không đều. Hầu hết các ngày đều có 2 lần nước lên, 2 lần nước xuống. Chênh lệch giữa đỉnh – chân triều những ngày triều lớn có thể từ 2,5 tới 3,5 m. Chênh lệch giữa đỉnh – chân triều những ngày triều kém thường dưới hoặc xấp xỉ 1 m. Biên bộ hằng ngày kỳ triều cường thường lớn gấp 1,5 lần đến 2 lần kỳ triều kém, song với vùng bán nhật triều điều chênh lệch này không lớn.
Trong mỗi chu kỳ nửa tháng, bắt đầu là 1,2 ngày triều kém, đến giữa chu kỳ là triều cường, cuối chu kỳ là 1,2 ngày triều kém. Kỳ nước cường thường xảy ra sau ngày không trăng (đầu tháng âm lịch) hoặc ngày trăng tròn (rằm, khoảng 2 ngày).
Sự tiết giảm triều:
Càng vào sâu trong sông, biên độ triều càng giảm do sự nâng lên của chân sóng triều là chính. Trên sông Hàm Luông, mùa khô, sau khi truyền qua 45 km từ Tân Thủy đến Mỹ Hoà, độ lớn sóng triều giảm còn khoảng 92% và truyền thêm một khoảng 25 km nữa, tới Chợ Lách độ lớn sóng triều chỉ còn xấp xỉ 75%.
Mùa lũ, ảnh hưởng của nước nguồn không lớn, song cũng làm tiết giảm độ lớn sóng triều thêm khoảng 10 đến 20 cm tại Mỹ Hòa và 20 đến 40 cm tại Chợ Lách.
Tốc độ truyền sóng triều trong sông.
Sóng triều truyền vào sông với tốc độ trung bình trên dưới 30 km/giờ đối với các sông lớn. Còn đối với những sông nhỏ, hoặc màng lưới kênh rạch, sự truyền triều diễn ra phức tạp hơn. Ở đâu còn có hiện tượng giao thoa sóng triều tại những con sông có sự truyền triều từ hai phía.
Sự truyền triều vào trong sông tuy có gây một số khó khăn như đưa nước mặn vào nội địa, khiến cho vùng cửa sông thiếu nước ngọt nghiêm trọng vào mùa khô. Những ngày lũ lớn, nếu gặp kỳ triều cường, nước dâng to sẽ gây ngập lụt v.v... Song với vùng xa cửa sông, mặn không tới được thì dao động thủy triều trong ngày có tác dụng không nhỏ cho công việc tưới tiêu, thau chua, rửa mặn. Khi triều dâng, mực nước ngọt trong sông được đẩy lên cao, người ta có thể lợi dụng để lấy nước vào ruộng. Ngược lại, khi triều rút, mực nước xuống thấp, có thể xả nước, thau chua từ ruộng ra sông. Ngoài ra, người ta cũng còn lợi dụng nước lớn và lợi dụng dòng chảy hai chiều của sông rạch để đưa tàu thuyền có trọng tải lớn vào bến, hoặc đi lại theo chiều dòng chảy, tiết kiệm được nhiên liệu. Sự truyền triều vào sông cũng khiến cho nguồn thủy sinh vật vùng cửa sông phong phú thêm.
II. Nguồn lợi thủy sản và thủy sinh vật:
Với những nguồn lợi và hạn chế có sẵn, tỉnh đã đề ra biện pháp để quản lý và bảo vệ nguồn lợi thủy sinh vật như sau:
Thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững 7.833 ha đất được quy hoạch cho lâm nghiệp. Trong đó: Rừng phòng hộ 3.803 ha, Rừng đặc dụng 2.584 ha, Rừng sản xuất 1.446 ha. Đẩy mạnh công tác giao đất, giao rừng cho dân, mục tiêu từ nay đến năm 2020, phải bảo vệ tốt rừng hiện có đồng thời trồng mới thêm khoảng 1.100 ha để nâng diện tích rừng ngập mặn của tỉnh lên 4.900 ha. Đảm bảo cho lâm nghiệp đóng góp ngày càng tăng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, cung cấp các dịch vụ môi trường, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho người dân lâm nghiệp, đồng thời góp phần giữ vững an ninh, quốc phòng vùng ven biển của tỉnh.
Theo kết quả khảo sát của đề tài, hiện nay thảm thực vật vùng cửa sông ven biển của tỉnh đang bị đe doạ bởi sự suy giảm về diện tích và cấu trúc thảm thực vật, chỉ có 145 loài với 56 họ còn lại trong khu hệ thực vật đặc trưng cho hệ thực vật của rừng mưa nhiệt đới. Loài đặc trưng cho rừng ngập mặn ở vùng cửa sông ven biển là Mắm biển, Mắm trắng, Bần chua, Bần đắng, Giá và Su ổi. Thảm thực vật rừng ngập mặn hầu như không còn loài quý hiếm. Do đó, diện tích rừng còn lại cần được khoanh vùng và bảo vệ, đây là biện pháp duy nhất để bảo tồn tính đa dạng hiện có của rừng ở vùng cửa sông ven biển Bến Tre.
Đối với hệ động vật, thành phần và số lượng cá thể của các lớp động vật có xương sống trên cạn trong vùng cửa sông ven biển Bến Tre tương đối nghèo. Lớp chim còn lại số lượng nhiều nhất với 80 loài chim thuộc 11 bộ, 35 họ, đa số là các loài chim nước; số lượng các loài chim thuộc Bộ Hạc, họ Diệc chiếm số lượng lớn. Đặc biệt, có 2 loài chim nước quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng trên toàn cầu là Quắm Đen và Điểng Điểng. Số lượng các loài quý hiếm nhiều nhất thuộc lớp bò sát với 15 loài bò sát thuộc 10 họ, trong đó có 4 loài nằm trong sách đỏ Việt Nam gồm: Kỳ Đà Hoa, Rắn Hổ Chúa, Rắn Cạp Nong và Rắn Hổ Mang, 1 loài ở mức độ nguy cấp thuộc nhóm 1 (Rắn Hổ Chúa) là những loài bị cấm khai thác và sử dụng cho mục đích thương mại; 3 loài còn lại thuộc nhóm 2, là những loài hạn chế khai thác và sử dụng vì mục đích thương mại. Riêng lớp lưỡng thê có 5 loài thuộc 3 họ và 1 bộ, lớp này hầu như không có loài quý hiếm, chỉ còn ếch cây là có mặt ở nhiều nơi nhưng rất hiếm.
Kết quả thống kê trên đã cho thấy đa dạng sinh học về động vật rừng trong tỉnh đang ở trong tình trạng bị đe dọa tuyệt chủng. Sự giảm sút về số lượng các loài của khu hệ động vật phản ánh tình trạng khai thác, săn bắt các loài động vật quá mức và bừa bãi. Thêm vào đó các hoạt động phá rừng, các trảng cỏ làm ao nuôi thủy sản đã làm mất nơi cư trú của các loài động vật hoang dã. Vì thế, hành động cấp bách để bảo vệ khu hệ động vật vùng cửa sông ven biển hiện nay chính là tiến hành bảo vệ các khu vực có rừng, các trảng cỏ và vườn cây chặt chẽ, nghiêm cấm hoàn toàn các hoạt động chặt phá, làm thay đổi sinh cảnh của vùng cửa sông ven biển.
Bên cạnh đó, theo kết quả nghiên cứu về thành phần thủy sinh vật của đề tài về vùng cửa sông ven biển của tỉnh: có 226 loài thuộc 7 lớp, 5 ngành thực vật phiêu sinh. Hầu hết các loài tảo phản ánh tính chất môi trường nước ngọt, lợ. Có 87 loài tảo đặc trưng cho sự nhiễm bẩn, 21 loài gây mùi và vị cho nước, chỉ có 7 loài chỉ thị môi trường nước sạch, có 101 loài tảo có khả năng xử lý nước thải, cải thiện môi trường nước. Đa số các loài tảo là thức ăn cho tôm, cá, cho thấy nguồn thức ăn tự nhiên rất thuận lợi cho việc phát triển nguồn lợi thủy sản trong vùng; 105 loài động vật phiêu sinh thuộc 8 nhóm, trong đó nhóm chân chéo Copepoda phong phú nhất và có mặt ở hầu hết các điểm từ vùng cửa sông đến các sông rạch trong nội địa.
Để sử dụng và bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ nguồn lợi sinh vật vùng cửa sông ven biển tỉnh Bến Tre đề tài đã đề xuất các giải pháp cụ thể. Đối với cây lâm nghiệp cần quy hoạch sử dụng đất dựa theo điều kiện của thảm thực vật, điều kiện thổ nhưỡng, áp dụng lâm - ngư kết hợp, quản lý rừng chặt chẽ, động viên nhân dân tham gia bảo vệ rừng; đối với cây trồng nông nghiệp cần bảo tồn nguồn giống (cây ăn trái, hoa màu…). Đối với các loài động vật hoang dã, cần khoanh vùng sinh cảnh địa lý của các loài động vật quý hiếm trong tỉnh tạo nên hoàn cảnh sống thuận lợi và ổn định dần nơi sống của chúng, đặc biệt là chim và Bò sát, nghiêm cấm săn bắt trong các khu rừng và trảng cỏ, xây dựng các khu bảo tồn dẫn dụ chim để bảo tồn nguồn gen. Với nguồn lợi thủy sinh vật, cần tiến hành khoanh vùng các khu vực khai thác và nuôi trồng hợp lý nhằm bảo vệ, sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thủy sinh vật
Nguồn lợi thủy sinh
Đa dạng sinh học là nguồn tài nguyên sinh vật vô cùng quý giá và mang tính quyết định cho sự tồn tại của con người vì đây là nguồn cung cấp thực phẩm chính. Với địa thế tọa lạc giữa bốn con sông: Sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên, đã tạo ra tính đa dạng các loài rất cao trong các vùng cửa sông ven biển tỉnh Bến Tre. Đa dạng sinh học đóng vai trò rất quan trọng trong việc duy trì các ngành kinh tế trong tỉnh, đồng thời tạo ra sự ổn định, khả năng chống chịu cho nền kinh tế và các cơ hội để nâng cao sản lượng, phát triển các ngành nghề, tạo thu nhập cho các cộng đồng dân cư trong tỉnh. Tuy nhiên, những năm gần đây sự phát triển các ngành nghề theo cao trào, không theo quy hoạch hợp lý đã làm tổn thương nghiêm trọng đến nguồn tài nguyên sinh vật trong tỉnh do hậu quả của hoạt động khai phá đất đai, biến đổi cảnh quan, mất rừng…Vì thế, việc thống kê đa dạng sinh học là rất cần thiết, hoạt động này góp phần định hướng sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên sinh vật vùng cửa sông ven biển của tỉnh.
CHƯƠNG 2 ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI LIÊN QUAN ĐẾN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN CỦA TỈNH
1.Phát triển kinh tế:
Tốc độ phát triển kinh tế (GDP) năm sau cao hon năm trước, bình quân 5 năm 2001-2005 tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) đạt 9,22%/năm, cao hơn mức bình quân 5 năm trước (6,18%), vượt mức chỉ tiêu kế hoạch đề ra (NQ là 8-8,5%/năm). Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2005 đạt khoảng 473 USD (NQ 450 USD).
- Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế: Trong 5 năm qua, kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong GDP theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Tỷ trọng khu vực I từ 67,7% năm 2000, giảm còn 57,1%; tỷ trọng khu vực II từ 11,6% tăng lên 16,8% và khu vực III từ 20,8% tăng lên 25,7% năm 2005 (NQ tương ứng 55%, 20% và 25%)
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung vào việc nâng cao chất lượng phát triển, đã hình thành được nhiều vùng chuyển canh lúa, dừa, mía, cây ăn quả, nuôi thủy sản. Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong giá trị sản xuất toàn ngành nông lâm ngư nghiệp đã giảm từ 62,7% năm 2000 xuống còn 57,6% năm 2005; tỷ trọng ngành thủy sản tăng từ 36,2% lên 41,5%.
Cơ cấu sản xuất công nghiệp đã được chuyển dịch theo hướng gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ, tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến, tập trung chế biến các sản phẩm có lợi thế của tỉnh là hàng nông sản và thủy sản... để nâng cao giá trị sản phẩm xuất khẩu.
Cơ cấu các ngành dịch vụ có bước chuyển dịch tích cực theo hướng đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng đa dạng về sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống dân cư như dịch vụ thương mại, du lịch, vận tải, bưu chính viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm...
2.Chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế: Trong 5 năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Nghị quyết Trung ương 3, Trung ương 5, Luật doanh nghiệp và các cơ chế chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư trong và ngoài nước,... của tỉnh đã thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đã có sự dịch chuyển theo hướng sắp xếp lại và đổi mới khu vực kinh tế nhà nước; phát huy tiềm năng, huy động nguồn lực của các doanh nghiệp tư nhân, dân cư, kinh tế hợp tác và các thành phần kinh tế khác.
- Cơ cấu lao động đã chuyển dịch theo hướng tích cực cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do điều kiện đặc thù của tỉnh, kinh tế nông nghiệp vẫn là chủ lực nên tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động theo nhóm ngành kinh tế diễn ra chậm; trong những năm gần đây nuôi thủy sản nhất là vùng mặn phát triển mạnh nhưng sự chuyển dịch chủ yếu vẫn là trong nội bộ ngành nông nghiệp. Do đó sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ vẫn còn hạn chế. Cơ cấu lao động thay đổi