Trong suốt thập niên 50 và 60 của thế kỷ 20, Timex là Hãng sản xuất đồng hồ lớn nhất
thế giới. Một sự thành công phi thường. Cho tới năm 1970, cứ hai chiếc đồng hồ được bán ra
ở Mỹ thì một là sản phẩm của Timex. Công ty đã nhanh chóng mở rộng thị phần ra nước
ngoài. Vào thời gian đó, giữa thập niên 90, cái tên được hầu hết mọi người hợp tác trong lĩnh
vực thiết kế đồng hồ để đáp ứng nhu cầu của một thị trường lớn như Mỹ là Seiko, Citizen,
Pulsar, Accutron, hay Swatch, cái tên Timex không được nhắc đến nhiều lúc đó. Điều gì đã
diễn ra với ngành công nghiệp chế tạo đồng hồ trong suốt những năm 70 ở cả thị trường Mỹ
và nước ngoài?
Dù cho có ấn tượng được ghi nhận ban đầu về công ty, sự thuận lợi trong cạnh tranh
dài hạn của Timex không được đảm bảo. Một bước phát triển xuất phát với nguồn lực dồi dào
trong đầu những năm 80 đã đe doạ tới sự thành công liên tục của công ty. Những chiếc đồng
hồ điện tử bắt đầu xuất hiện trên thị trường. Trong khi chúng v ẫn khá đắt đỏ (hơn 200 đô la
Mỹ/ chiếc năm 1970 và chỉ có 20 đến 30 đô la Mỹ cho 1 chiếc đồng hồ Timex), đồng hồ điện
tử nhanh chóng phải trải qua giai đoạn sụt giá ở khắp nơi cuối những năm 70 và đầu những
năm 80 vì chúng b ị lấn át trên thương trường bởi đồng hồ cơ và đồng hồ chạy bằng pin. Có
thể nhận thức được mối đe doạ tới sự kinh doanh đồng hồ cơ còn non trẻ của Timex một
ngày nào đó.
Để đánh giá mức độ ảnh hưởng của những chiếc đồng hồ cơ Timex, cần thiết phải
nghiên cứu những khâu trọng yếu trong chế tạo đồng hồ. Một chiếc đồng hồ gồm có 4 thành
phần chính: phần nguồn năng lượng, bộ phận truyền động, bộ phận hồi, và một hệ thống hiển
thị. Những phần này đã được chú thích ở hình minh ho ạ 5-1. Trong một chiếc đồng hồ cơ học,
phần nguồn cơ học (nguồn năng lượng) điều khiển một bánh răng truyền động (hệ thống
truy ền động). Những chuyển động được truyền bởi hệ thống bánh răng (cơ cấu hồi) tới kim
đồng hồ (bộ phận hiển thị). Đối với đồng hồ điện tử có 1 pin (phần nguồn) làm hoạt động một
tinh thể thạch anh (cơ cấu xung động). Những xung động được một vi mạch (bộ phận hồi)
truy ền đến mặt hiển thị điện tử (bộ phận hiển thị). Đồng hồ điện tử sử dụng những thành phần
khác với trong đồng hồ cơ. Nó được chế tạo từ những vật liệu (vật chất mới như thạch anh,
điốt phát sáng (LEDs) thay cho kim loại và các bánh răng). Kỹ thuật chính cũng có đòi hỏi
khác nhau (thiết kế điện tử tinh vi và công nghệ hoá tinh thể thay vì luyện kim), cùng với
những kỹ xảo thiết kế khác nhau (tăng tốc của các truyền động và các vi mạch). Thậm chí cơ
cấu cũng đòi hỏi khác nhau (linh kiện để chế tạo pin, tinh thể thạch anh, và chất bán dẫn tích
hợp-mạch cơ sở thay cho máy khoan và tiện kim loại). Sản xuất đồng hồ điện tử theo đó đòi
hỏi tập hợp các kỹ năng theo xu thế hoàn toàn mới thúc đẩy thị trường đồng hồ truyền thống
nghiên cứu những khuynh hướng khoa học kỹ thuật mới, tăng thêm giá trị tinh x ảo, và tiến
đến thương mại hoá và phát triển sản phẩm.
26 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1868 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Sự dịch chuyển trong lợi thế cạnh tranh: Cách ứng xử hay phản ứng của doanh nghiệp đối với sự thay đổi của môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài tập quản lý chiến lược
Nhóm 5: lớp QTKD2- 2009 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
CHUYÊN ĐỀ QUẢN LÝ CHIẾN LƯỢC
Đề tài:
SỰ DỊCH CHUYỂN TRONG LỢI THẾ CẠNH TRANH:
CÁCH ỨNG XỬ HAY PHẢN ỨNG CỦA DOANH NGHIỆP
ĐỐI VỚI SỰ THAY ĐỔI CỦA MÔI TRƯỜNG
Giáo viên hướng dẫn:
Nhóm thực hiện:
Lớp:
TS. Nguyễn Văn Nghiến
1. Nguyễn Minh Việt
2. Lê Minh Thanh
3. Lê Văn Thành
4. Đào Minh phương
Cao học QTKD2 - 2009
Hà Nội , 09/2010
Bài tập quản lý chiến lược
Nhóm 5: lớp QTKD2- 2009 2
TÌNH HUỐNG 1: TIMEX VÀ CUỘC CÁCH MẠNG ĐIỆN TỬ
Trong suốt thập niên 50 và 60 của thế kỷ 20, Timex là Hãng sản xuất đồng hồ lớn nhất
thế giới. Một sự thành công phi thường. Cho tới năm 1970, cứ hai chiếc đồng hồ được bán ra
ở Mỹ thì một là sản phẩm của Timex. Công ty đã nhanh chóng mở rộng thị phần ra nước
ngoài. Vào thời gian đó, giữa thập niên 90, cái tên được hầu hết mọi người hợp tác trong lĩnh
vực thiết kế đồng hồ để đáp ứng nhu cầu của một thị trường lớn như Mỹ là Seiko, Citizen,
Pulsar, Accutron, hay Swatch, cái tên Timex không được nhắc đến nhiều lúc đó. Điều gì đã
diễn ra với ngành công nghiệp chế tạo đồng hồ trong suốt những năm 70 ở cả thị trường Mỹ
và nước ngoài?
Dù cho có ấn tượng được ghi nhận ban đầu về công ty, sự thuận lợi trong cạnh tranh
dài hạn của Timex không được đảm bảo. Một bước phát triển xuất phát với nguồn lực dồi dào
trong đầu những năm 80 đã đe doạ tới sự thành công liên tục của công ty. Những chiếc đồng
hồ điện tử bắt đầu xuất hiện trên thị trường. Trong khi chúng vẫn khá đắt đỏ (hơn 200 đô la
Mỹ/ chiếc năm 1970 và chỉ có 20 đến 30 đô la Mỹ cho 1 chiếc đồng hồ Timex), đồng hồ điện
tử nhanh chóng phải trải qua giai đoạn sụt giá ở khắp nơi cuối những năm 70 và đầu những
năm 80 vì chúng bị lấn át trên thương trường bởi đồng hồ cơ và đồng hồ chạy bằng pin. Có
thể nhận thức được mối đe doạ tới sự kinh doanh đồng hồ cơ còn non trẻ của Timex một
ngày nào đó.
Để đánh giá mức độ ảnh hưởng của những chiếc đồng hồ cơ Timex, cần thiết phải
nghiên cứu những khâu trọng yếu trong chế tạo đồng hồ. Một chiếc đồng hồ gồm có 4 thành
phần chính: phần nguồn năng lượng, bộ phận truyền động, bộ phận hồi, và một hệ thống hiển
thị. Những phần này đã được chú thích ở hình minh hoạ 5-1. Trong một chiếc đồng hồ cơ học,
phần nguồn cơ học (nguồn năng lượng) điều khiển một bánh răng truyền động (hệ thống
truyền động). Những chuyển động được truyền bởi hệ thống bánh răng (cơ cấu hồi) tới kim
đồng hồ (bộ phận hiển thị). Đối với đồng hồ điện tử có 1 pin (phần nguồn) làm hoạt động một
tinh thể thạch anh (cơ cấu xung động). Những xung động được một vi mạch (bộ phận hồi)
truyền đến mặt hiển thị điện tử (bộ phận hiển thị). Đồng hồ điện tử sử dụng những thành phần
khác với trong đồng hồ cơ. Nó được chế tạo từ những vật liệu (vật chất mới như thạch anh,
điốt phát sáng (LEDs) thay cho kim loại và các bánh răng). Kỹ thuật chính cũng có đòi hỏi
khác nhau (thiết kế điện tử tinh vi và công nghệ hoá tinh thể thay vì luyện kim), cùng với
những kỹ xảo thiết kế khác nhau (tăng tốc của các truyền động và các vi mạch). Thậm chí cơ
cấu cũng đòi hỏi khác nhau (linh kiện để chế tạo pin, tinh thể thạch anh, và chất bán dẫn tích
hợp-mạch cơ sở thay cho máy khoan và tiện kim loại). Sản xuất đồng hồ điện tử theo đó đòi
hỏi tập hợp các kỹ năng theo xu thế hoàn toàn mới thúc đẩy thị trường đồng hồ truyền thống
nghiên cứu những khuynh hướng khoa học kỹ thuật mới, tăng thêm giá trị tinh xảo, và tiến
đến thương mại hoá và phát triển sản phẩm.
Trong mỗi bộ phận chủ yếu của đồng hồ, những kỹ thuật mới và hình thức phân phối
tách Timex khỏi thị trường. Sự đổi mới về kỹ thuật hoá tinh thể thạch anh và LED (điốt phát
sáng) đã làm Timex lạc hậu. LED, thạch anh, và những linh kiện khác đưa các doanh nghiệp
Nhật Bản như Citizen, Seiko, Casio nổi danh về chất lượng. Như nhãn hiệu Citizen của Nhật
đã nghiên cứu rất nhiều về kỹ thuật chế tạo đồng hồ từ đối thủ đáng gờm của Timex là
Bulova, các nhà phân phối khác của Mỹ đã đối mặt với những khó khăn tương tự trong việc
thích ứng với một thị phần còn bỏ ngỏ là những chiếc đồng hồ điện tử nhỏ gọn những năm 70
và 80. Bulova đánh giá Citizen như một dòng rẻ tiền chất lượng cao, nhưng không nỗ lực tái
phát minh tạo ra thế hệ kế cận cho những bộ phận cấu thành đồng hồ, để thích ứng với những
vi mạch tích hợp và quá trình sản xuất hiện đại. Dần dần điều này đã tạo cho Citizen một sự
canh tranh dữ dội của doanh nghiệp Nhật Bản mài giũa các kỹ năng và giới thiệu dòng sản
phẩm mới của họ tại Mỹ. Thiết kế đồng hồ điện tử mới của Citizen, Seiko, và những kẻ mới
vào nghề rời bỏ ngành sản xuất lâu đời của Timex và tiêu biểu cho chất lượng ở Mỹ. Những
đối thủ cạnh tranh cần đánh giá lại kênh phân phối để chúng trở nên phổ biến hơn nữa ở các
cửa hàng, giới thiệu sản phẩm, các cửa hàng đồ trang sức nơi những chiếc đồng hồ thanh lịch
Bài tập quản lý chiến lược
Nhóm 5: lớp QTKD2- 2009 3
trở nên đắt giá hơn cùng với những vật dụng cá nhân khác. Khách hàng ngày càng kỹ tính và
đòi hỏi chất lượng cao hơn. Các hãng đầu tư vào công nghệ mới, phát triển các kỹ xảo đặc
biệt, các kỹ năng để mở rộng kỹ thuật, cạnh tranh trên các đấu trường khác. Ví dụ như, kỹ
thuật chế tạo đồng hồ mới chỉ ứng dụng trong âm thoa, trong phòng thí nghiệm và thử nghiệm
thiết bị, chế tạo người máy, thiết bị điện tử tinh vi thậm chí cả hệ thống điều khiển. Những sản
phẩm khác chia sẻ trình độ kỹ thuật bao gồm máy tính, VCRs, hệ thống thí nghiệm, lò vi
sóng, máy tính cá nhân. Do đó Timex phải đối mặt với một tình thế khó khăn hơn. Nếu thất
bại trong phát triển đồng hồ điện tử sẽ dẫn đến nguy cơ mất vị thế dẫn đầu ngành công
nghiệp. Tuy nhiên, kỹ thuật điện tử còn mới với Timex, và những nỗ lực nhằm phát triển sự
thành thạo ở lĩnh vực này có lẽ xa vời, thật khó để thích nghi cho công ty. Hơn nữa, trình độ
tay nghề ở khu vực mới có được kế thừa hay không được bảo đảm bởi Timex. Nếu đồng hồ
điện tử không thể tìm được chỗ đứng thích hợp, hoặc Timex thất bại trong nghiên cứu các kỹ
xảo cần thiết, sự đầu tư này là tổn thất to lớn.
Những bộ phận chính của đồng hồ
Nguồn Truyền động Hồi Hiển thị
ĐH cơ bộ phận đàn hồi bánh răng ăn khớp lực truyền động kim đồng hồ
ĐH điện tử pin tinh thể thạch anh vi mạch kim hoặc mặt hiển thị điện tử
Thực tế, Timex là 1 trong những hãng đầu tiên chào bán chiếc đồng hồ điện tử. Tuy
nhiên, hãng đã thất bại khi xúc tiến sản phẩm, có lẽ vì lo sợ rằng rút đi nhiều vốn đầu tư từ
trước và công cụ thiết kế cho đồng hồ cơ. Điều này đã đưa đến cơ hội phát triển phân đoạn
thị trường mới cho những hãng khác. Quyết định này bước đầu đã có ít tác động trực tiếp vào
vận may của Timex ngay trong thập niên 1970. Doanh thu và lợi nhuận của công ty trong
đồng hồ cơ tiếp tục phát triển trong suốt thập kỷ này, và thậm chí vào đầu những năm 1980.
Tuy nhiên, các “chiến trường” cho đồng hồ và các thiết bị tương tự thay đổi dần theo bóng
Timex's trên thị trường. Thạch anh và các công nghệ màn hình kỹ thuật số đã trở nên rẻ hơn,
và các ứng dụng thương mại càng phổ biến hơn. Mỗi quá trình mới và cải tiến mới làm giảm
chi phí sản phẩm.
Timex tiếp tục đạt được lợi nhuận kỷ lục vào cuối những năm 1970, nhưng tình hình
thay đổi nhanh chóng khi các công ty Nhật Bản thành lập một công ty điện tử tại Hoa Kỳ
năm đầu thập niên 1980. Với doanh số đột ngột sụt giảm, nỗ lực của Timex để xây dựng
ngành đồng hồ điện tử đã bị chậm. Ngay sau đó, nó đã bị vượt xa phía sau về chi phí sản xuất
và kinh nghiệm để phù hợp với đối thủ cạnh tranh về giá và chất lượng. Sau nhiều năm thiệt
hại nghiêm trọng, nỗ lực của Timex cuối cùng đã thực hiện trên của một nhóm chủ sở hữu
mới. Các chủ sở hữu mới làm việc chăm chỉ để xây dựng kinh doanh điện tử của Timex. Nỗ
lực của họ đã đạt được một số thành công khiêm tốn. Tuy nhiên, Timex đã không được có
thể lấy lại được vị trí lãnh đạo đó một lần nữa. Các thương hiệu hiện tại được công nhận là
Citizen, Casio và Seiko. Trong thực tế, các nhà sản xuất Nhật Bản đang ngày càng trở nên
thận trọng đối với sự xuất hiện của các nhãn hiệu mới phổ biến như Swatch và Fossil, mà sản
phẩm được tạo ra để phục vụ mục đích thời trang hơn là chỉ đơn giản là một “đồng hồ”.
Bài tập quản lý chiến lược
Nhóm 5: lớp QTKD2- 2009 4
TÌNH HUỐNG 2: EASTMAN KODAK VÀ KỸ THUẬT CHỤP ẢNH SỐ
Khi chúng ta bước vào thế kỷ tiếp theo, người tiêu dùng chụp ảnh cũng trải qua một
cuộc cách mạng công nghệ. Nó cũng theo cùng một khuôn mẫu như ngành công nghiệp đồng
hồ. Eastman Kodak là một nhà tiên phong trong việc phát triển toàn cầu hóa dựa trên công
nghệ phim hoá học. Mặc dù đối thủ cạnh tranh lớn nhất, Fuji Photo của Nhật Bản, bán thấp
hơn giá phim, như gần đây là năm 1996, Kodak chiếm 60 phần trăm của thị trường Mỹ cho
cung cấp phim cho người tiêu dùng. Cổ phiếu của Kodak thậm chí cao hơn trong các phân
đoạn cung cấp phim cho ngành công nghiệp và y tế. Tuy vậy trong suốt những năm 1990,
tăng trưởng hai con số trong thị trường phim hoá học chậm lại đáng kể, Kodak trong một cuộc
đấu tranh thực sự để xác định lại công nghệ cốt lõi và các sản phẩm của nó trong sự trỗi dậy
của thay đổi công nghệ, đối thủ cạnh tranh hồi sinh, sự ra đời của Internet và thị hiếu của
khách hàng khác nhau.
Kodak bây giờ phải đối phó với những thách thức lớn bởi sự xuất hiện của các đối thủ cạnh
tranh mới đang đẩy nhanh quá trình chuyển đổi của các chất hóa học dựa trên hình ảnh các kỹ
thuật chụp ảnh mới điện tử và kỹ thuật số sẽ thay đổi cách người tiêu dùng sử dụng máy ảnh
của họ và làm thế nào liên kết đến các nhà sản xuất máy ảnh với khác ứng dụng công nghệ.
Kodak Mặc dù vẫn còn giữ một số lượng lớn các bằng sáng chế bảo vệ cả công nghệ cốt lõi
của nó, công nghệ phim bạc và các cải tiến trong hình ảnh kỹ thuật số, công ty bây giờ phải
đối mặt thách thức từ các công nghệ mới đe dọa công nghệ phim hóa học của nó - khoản đầu
tư trong thế kỷ qua.
Hai tác nhân cụ thể làm thay đổi công nghệ truyền thống của Kodak. Đầu tiên là việc
sử dụng ngày càng tăng của chất bán dẫn trong máy ảnh và thiết bị chụp ảnh khác. Trong
những năm 1990, máy ảnh kết hợp chip bán dẫn mạnh hơn để cải thiện chất lượng hình ảnh
và hiệu năng sản phẩm. Đặc biệt, sự xuất hiện của bộ nhớ flash đã trở thành một thay thế trực
tiếp cho các phim hóa học. Bộ nhớ Flash để lưu giữ một loạt các hình ảnh trên một đĩa hoặc
thẻ nhớ sau đó sẽ dễ dàng lắp vào một máy tính cá nhân để lưu trữ lâu dài, thao tác chụp ảnh,
và in ấn cuối cùng. Máy ảnh và các chip sử dụng bộ vi xử lý và vi điều khiển để kiểm soát
tiêu cự và tốc độ màn trập. Khi sử dụng các chip cải tiến đó, các máy ảnh mới đã được nhiếp
ảnh nghiệp dư sử dụng cuối tuần với chất lượng như các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp.
Sự phát triển thứ hai đối mặt với Kodak là sự xuất hiện của công nghệ hình ảnh kỹ
thuật số. Quan trọng hơn, tiến bộ mới trong điện tử bây giờ có nghĩa là máy ảnh và thiết bị
chụp ảnh khác, như chụp X-quang, có thể lưu trữ hình ảnh như là kỹ thuật số, mã nhị phân.
Bằng cách lưu trữ hình ảnh kỹ thuật số, mã nhị phân, con người có thể chuyển tải hình ảnh và
hình ảnh của mình lên đĩa quang học tương tự như được sử dụng trong các máy tính cá nhân
hiện nay. Khả năng này có nghĩa là khách hàng có thể thao tác hình ảnh cho hình ảnh rõ nét
hơn, bóng accentuate hoặc đường, và thậm chí làm thay đổi căn bản nền tảng của hình ảnh.
Việc sử dụng các thuật toán nén video cùng với một loại thiết bị điện tử heralds mới của công
nghệ hình ảnh, theo đó các hình ảnh kỹ thuật số có thể được lưu với mức độ khác nhau rõ nét
và độ phân giải, phụ thuộc vào các ứng dụng được sử dụng sau này sẽ nhanh hơn, thông minh
hơn. Trong thực tế, nhiều hình ảnh kỹ thuật số có thể không chỉ được lưu trữ trên một máy
tính hay đĩa quang, mà cũng có thể được tải về và chia sẻ thông qua Internet. Do đó, việc sản
xuất và sử dụng máy ảnh và các phương pháp phát triển phim đang ngày càng trở nên giống
như các công nghệ sử dụng để tạo đĩa nhỏ gọn, đĩa quang học, chất bán dẫn, và các kỹ thuật
phần mềm, ngay cả cho các thao tác hình ảnh. Những công nghệ này quyết định sự phát triển
của các máy tính cá nhân, điện tử tiêu dùng, ngành công nghiệp máy tính và thiết bị ngoại vi.
Sức mạnh để chỉnh sửa một bức ảnh trên màn hình máy tính hoặc truyền hình, ví dụ, có nghĩa
là 1 nhiếp ảnh gia có thể tùy chỉnh và lắp ráp các ý tưởng của riêng mình lên hình ảnh, chỉ có
trí tưởng tượng của những người sử dụng mới có thể quyết định công nghệ này có thể được áp
dụng như thế nào. Buff Camera, nhà quảng cáo, biên tập viên sao chép, chuẩn đoán y tế, công
nghiệp và người dùng khác sẽ tìm thấy nhiều ứng dụng mới cho các phương pháp hình ảnh kỹ
thuật số để chụp, lưu trữ, và thao tác các hình ảnh. Trong đó, khả năng nhanh chóng để số hoá
Bài tập quản lý chiến lược
Nhóm 5: lớp QTKD2- 2009 5
một hình ảnh và gửi nó qua mạng Internet cho phép chụp nhanh và dịch thuật các hình ảnh
cho các ứng dụng y tế (ý kiến thứ hai), bảo hiểm, bất động sản (bán hàng ảo), và các hình thức
truyền tải video.
Hiện nay, Công nghệ ảnh điện tử và kỹ thuật số có thể không đạt được mức độ tốt của
độ phân giải như phim hóa học. Số lượng các chấm nhỏ gọi là điểm ảnh ở trong khu vực
vuông sẽ xác định độ rõ nét của hình ảnh. Càng dày đặc các điểm ảnh, độ phân giải sẽ tốt hơn.
Mặc dù phim hóa học vẫn hơn ảnh kỹ thuật số về độ hình ảnh rõ nét và độ mịn, nhiều công ty
đang dần nâng cao tính thiết bị phức hợp (CCD's), kỹ thuật nén kỹ thuật số, thuật toán, bộ nhớ
flash mật độ, và kỹ thuật suy phần mềm sẽ làm cho nó có thể cho hình ảnh điện tử để giảm
khoảng cách chất lượng với các phim hoá học. Một số nhà phân tích đã dự đoán rằng khoảng
cách chất lượng cho tất cả các loại phim thực tế đã không còn tồn tại. Một khi công nghệ kỹ
thuật số bắt kịp, khách hàng tiêu dùng cá nhân và khách hàng công nghiệpsẽ không còn phải
chờ đợi để phát triển hình ảnh của họ. Người tiêu dùng đã được dùng và phát triển hình ảnh
của họ với máy ảnh kỹ thuật số không dùng film.
Sự đe doạ của các công nghệ mới hoàn toàn làm cho Kodak rất khó nắm bắt. Nhiều
đối thủ đầu tư vào công nghệ mới bao gồm ngành điện tử Nhật Bản Canon, Toshiba, Ricoh,
Sony, Epson, và Sharp. Epson, đặc biệt, đã phát triển dòng riêng của máy ảnh kỹ thuật số
dưới thương hiệu máy ảnh, trong đó thẻ bộ nhớ flash là trực tiếp chèn vào một giao diện máy
tính cá nhân của thẻ phụ kiện để chụp ảnh ngay lập tức. Các đối thủ khác đã chứng tỏ một lợi
ích, hấp dẫn mạnh mẽ ở ngành này bao gồm Hewlett Packard, Polaroid, Motorola, IBM, và
Intel, tất cả đều có mạng bán dẫn và / hoặc công nghệ hình ảnh của riêng họ. Phần mềm tiên
tiến của Hewlett Packard và chip điều khiển đã được sử dụng trong các máy in laser và máy in
mực, trong khi bộ nhớ flash của Intel và các công nghệ vi xử lý có tiềm năng ứng dụng vào
các ngành công nghiệp chụp ảnh kỹ thuật số. Ngay cả công ty hóa chất khổng lồ Mỹ DuPont
đã bày tỏ sự quan tâm trong công nghệ hình ảnh đó tận dụng thế mạnh mới của nó trong vật
liệu tiên tiến liên quan đến hình ảnh. Dù bằng cách nào, Kodak phải đối mặt với đối thủ cạnh
tranh cả trong nước và nước ngoài đã nắm và sử dụng các kỹ thuật chụp ảnh kỹ thuật số cao
cấp học được từ các doanh nghiệp tương ứng. Những công nghệ này, lần lượt, có thể được sử
dụng để thiết kế và sản xuất mới, máy ảnh điện tử "thông minh" hoặc kỹ thuật số lưu trữ hình
ảnh trên chip bán dẫn. Trong thực tế, sớm nhất là năm 1984, Sony đã cố gắng để giới thiệu
máy ảnh kỹ thuật số của nó được gọi là Mavica Sony. Nó thất bại vì hình ảnh ngèo nàn của
công nghệ ở thế hệ đầu tiên. Tuy nhiên, sản phẩm này cho thấy độ “chín” của các kỹ năng của
Sony và cam kết thương mại hóa các công nghệ mới này. Thế hệ mới nhất của Mavica của
Sony, giới thiệu lại vào năm 1997, đã chứng minh là rất phổ biến kể từ khi hình ảnh được lưu
trữ trực tiếp vào một đĩa mềm.
Do đó, Eastman Kodak trong suốt những năm 1990 đối mặt với một thách thức tương
tự và tiến thoái lưỡng nan tương tự như Timex trong thập niên 1970. Kodak bây giờ phải học
hỏi về bán dẫn và công nghệ kỹ thuật số dựa trên nền tảng của công nghệ hóa học và công
nghệ truyền thống. Trong trường hợp cực đoan nhất của mối đe dọa này, người tiêu dùng thực
tế có thể chụp ảnh với máy ảnh kỹ thuật số không film và tải về những hình ảnh trực tiếp trên
Internet, do đó hoàn toàn bỏ qua tất cả các dịch vụ kinh doanh truyền thống của Kodak phim.
Để bắt đầu đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người sử dụng điện tử/chụp ảnh kỹ thuật số,
Kodak thậm chí đã bắt đầu di chuyển và thay đổi bằng công nghệ ảnh đĩa CD. Ảnh đĩa CD
cho phép khách hàng đặt phim âm bản của họ trên đĩa quang học, mà sau đó có thể được xem
trên màn hình TV. Tuy nhiên, từ quan điểm tiếp thị của Kodak, quá trình này rất đắt tiền và
không chắc chắn, như hình ảnh vẫn phải được liên kết mật thiết với đĩa CD-khó để sử dụng.
So sánh với thẻ nhớ flash có thể tạo ra lợi ích của người tiêu dùng hơn đáng kể.
Giai đoạn tiếp theo của nhiếp ảnh và phát triển của phim đã bắt đầu mở ra. Kodak đã
phát triển một trang web Internet, cho phép khách hàng để lưu phim của họ tại một phòng thí
nghiệm hoàn thiện, chỉ có những hình ảnh có sẵn cho họ trên Internet thông qua một tài khoản
web đặc biệt với Kodak. Dịch vụ trực tuyến này, được gọi là PhotoNet, cho phép khách hàng
để phát triển phim của họ hoặc phim âm bản được quét vào hệ thống, có thể được truy cập
Bài tập quản lý chiến lược
Nhóm 5: lớp QTKD2- 2009 6
vào ngày hôm sau trên Internet. Khách hàng có thể tải về các hình ảnh vào máy tính của họ
hoặc gửi chúng cho bạn bè và gia đình thông qua e-mail.
Để giúp tìm hiểu làm thế nào để cạnh tranh tốt hơn trong bán dẫn và hình ảnh kỹ thuật
số, Kodak đã thành lập một liên doanh với Intel tháng 5 năm 1998 để hợp tác và phát triển bộ
nhớ flash cho các ứng dụng hình ảnh kỹ thuật số. Nó đồng thời làm việc với Motorola để phát
triển bộ nhớ flash công nghệ cao. Những thẻ nhớ flash sẽ mở đường cho Kodak để cạnh tranh
trực tiếp hơn với Epson, Sony, và các công ty khác có tham vọng tương tự. Kodak đã thúc đẩy
một sản phẩm flash phái sinh mới sử dụng đĩa mềm 3,5 inch thông thường như là bộ phim kỹ
thuật số để nắm bắt hình ảnh, mặc dù dung lượng lưu trữ của nó vẫn còn hạn chế vì vào thời
gian này, Sony vẫn dẫn đầu. Kodak cũng đã thiết lập các mối quan hệ với Microsoft, Adobe
Systems, Hewlett-Packard, và thậm chí một vài doanh nghiệp trong Thung lũng Silicon (ví
dụ, Live Picture) để hiểu hơn một công nghệ mới sẽ tiến triển như thế nào. Nó có quyền sở
hữu cổ phần đáng kể trong một công ty mới nổi được gọi là ảnh Tầm nhìn, mà đã phát triển
một hệ thống cho phép một bộ phim của người tiêu dùng sẽ được phát triển bởi một phòng thí
nghiệm photofinishing và sau đó chuyển giao cho khách hàng thông qua Website của Kodak
trên Internet. Để tăng cường hơn nữa sự nắm giữ thị phần của nó qua công nghệ này, Kodak
cũng đã hợp tác với America Online để đảm bảo rằng trang web của nó là có hiển thị nổi bật
cho khách hàng tiềm năng.
Những thay đổi đó thể hiện cho các bước học tập quan trọng của Kodak khôi phục lại
những kỹ năng của mình cùng với một loạt các công nghệ mới. Kinh nghiệm phát triển của
Kodak với làm đĩa mới hơn và bộ nhớ flash, thiết bị liên quan sẽ giúp nó cạnh tranh trong thị
trường video chuyên nghiệp. Nếu Kodak thực sự thành công trong việc học và ứng dụng công
nghệ mới, công nghệ hình ảnh kỹ thuật số, thì sau đó người khổng lồ nhiếp ảnh có thể trở
thành một thành phần quan trọng trong ngành công nghiệp vừa nổi lên như đa phương tiện,
dựa trên Internet, cải tiến máy in màu…
Bài tập quản lý chiến lược
Nhóm 5: lớp QTKD2- 2009 7
LỜI GIỚI THIỆU
Như chúng ta đã biết qua rất nhiều ví dụ, các công ty đã xây dựng được nguồn lực lợi
thế cạnh tranh đáng kể luôn mong muốn thu lại lợi nhuận cao. Vòng đời của một sản phẩm
chính là công cụ hiệu quả mô tả cách mà doanh nghiệp giải quyết