1. Tính cấp thiết của đề tài
Khoa học và công nghệ là nền tảng và là động lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước. Công nghệ hiện đại, sạch và thân thiện với môi trường cần được ưu tiên sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất, trước mắt cần được ưu tiên sử dụng ở các ngành và lĩnh vực sản xuất có tác dụng lan truyền mạnh, có khả năng thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành và lĩnh vực sản xuất trong xã hội. Chủ trương chuyển các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang hình thức doanh nghiệp khoa học và công nghệ nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các tổ chức này, đồng thời tăng cường ứng dụng những kết quả nghiên cứu của các cơ quan NC&PT, trường đại học vào sản xuất và đời sống cũng như việc hình thành mói các doanh nghiệp khoa học và công nghệ đã và đang là chủ đề tranh luận của nhiều nhà quản lý, nhà khoa học và doanh nghiệp, đặc biệt vấn đề này đã được đề cập trong đề án “đổi mới cơ chế quản lý KH&CN” do Chính phủ ban hành Quyết định 171/2004/QĐ – TTg ngày 28/9/2004, Nghị định số 115/2005/NĐ – CP “quy định cơ chế tự chủ, tự chịu tránh nhiệm của tổ chức KH&CN công lập” do Chính phủ ban hành ngày 05/09/2005.
Trong những năm qua, nguồn tài chính đầu tư cho KH&CN của nước ta không ngừng được cải thiện, Nhà nước ta quan tâm nhiều hơn nguồn lực tài chính cho KH&CN, không chỉ là nguồn NSNN mà còn có một phần không nhỏ nguồn ngoài NSNN. Chính điều này đã giúp Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV - một doanh nghiệp khoa học và công nghệ đã và đang đạt được những kết quả đáng khích lệ góp phần vào quá trình phát triển đất nước.
Mặc dù chi NSNN cho KH&CN đã tăng qua các năm nhưng vẫn chưa theo kịp và đáp ứng được những yêu cầu cấp thiết. Nguồn NSNN chưa thực sự trở thành đòn bẩy khuyến khích phát triển tối ưu Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV.Nguyên nhân của tình trạng trên là do cơ chế quản lý của Viện chưa thực sự phát huy được vai trò công tác huy động tài chính chưa thực sự được quan tâm và hỗ trợ tốt, chưa khai thác hết khả năng các nguồn lưc tài chính. Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn đó đề tài: “Tăng cường công tác huy động các nguồn lực tài chính tại Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV” được em lựa chọn và nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề án
- Tìm hiểu các nguồn lực tài chính của các doanh nghiệp KH&CN hiện nay.
- Đánh giá thực trạng huy động các nguồn lực tài chính của Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV trong thời gian qua và đưa ra vấn đề tồn tại cần phải tiếp tục hoàn thiên
- Đề xuất giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động các nguồn lực tài chính tại Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu công tác huy động các nguồn lực tài chính tại Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV.
- Thời gian nghiên cứu: Từ 2006 đến nay.
4.Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu: biện chứng, lịch sử, tổng hợp, và phân tích thống kê, kế thứa có cân nhắc, logic và quy nạp.
5. Kết cấu của đề án
- Nội dung đề án bao gồm 3 chương:
Chương I: Sự cần thiết phải tăng cường huy động các nguồn lực tài chính cho các doanh nghiệp khoa học và công nghệ hiện nay.
Chương II: Thực trạng tăng cường công tác huy động các nguồn lực tài chính tại Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV.
Chương III:Các giải pháp tăng cường công tác huy động các nguồn lực tài chính tại Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV
93 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2012 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tăng cường công tác huy động các nguồn lực tài chính tại viện khoa học công nghệ mỏ TKV, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi : Ban Chủ nhiệm Khoa Kế hoạch và Phát triển
Tên em là : Vũ Thị Thoa
Lớp : Kinh tế phát triển 47B
Sau một thời gian thực tập tại Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường – Bô Kế hoạch và Đầu tư dưới sự hướng dẫn của thầy giáo - Thạc sỹ, Phạm Thanh Hưng và Chú Đào Đình Tân, Phó vụ trưởng Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường. Em đã hoàn thành bản chuyên đề tốt nghiệp với nội dung “Tăng cường công tác huy động các nguồn lực tài chính tại Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV”.
Đây là đề tài Em chọn lựa sau một thời gian nghiên cứu tại Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường - Bộ Kế hoạch và Đầu tư và quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài có sự huớng dẫn của giáo viên hướng dẫn và các cán bộ nghiên cứu tại Vụ.
Về Bố cục cũng như nội dung bài viết tuy có sự tham khảo nhưng em xin cam đoan không có sự sao chép tài liệu nghiên cứu của Vụ hoặc bất kỳ đề tài nào trước đây.
Em xin chịu trách nhiệm về nội dung cam đoan trên.
Sinh viên
Vũ Thị Thoa
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực tập và thực hiện chuyên đề tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản thân, Em còn nhận được sự quan tâm, hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo trong khoa Kế hoạch và Phát triển, tập thể các cán bộ của Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường - Bộ Kế hoạch và Đầu tư và sự đóng góp chân thành của các bạn.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo - Thạc sỹ: Phạm Thanh Hưng và tập thể thầy cô giáo trong khoa Kế hoạch và Phát triển, trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ Em rất nhiều để thực hiện đề tài này. Đồng thời, Em cũng xin chân thành cảm ơn Chú: Đào Đình Tân – Phó Vụ trưởng và tập thể các cán bộ Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường – Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã giúp đỡ Em trong suốt thời gian thực tập vừa qua.
Mặc dù đã rất nỗ lực cố gắng song do kinh nghiệm của bản thân có hạn, thời gian không cho phép và cũng bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học nên đề tài không tránh khỏi thiếu sót.
Em rất mong nhận được sự đóng góp, hướng dẫn của thầy cô giáo để đề tài hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 7
CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN TÀI CHÍNH CHO CÁC DOANH NGHIỆP KH&CN HIỆN NAY 10
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP KH&CN. 10
1. Doanh nghiệp KH&CN 10
1.1. Khái niệm chung về doanh nghiệp KH&CN 10
1.2.Khái niệm về doanh nghiệp khoa học và công nghệ ở Việt Nam. 17
2. Vai trò của doanh nghiệp KH&CN 20
2.1. Kênh chuyển giao công nghệ 20
2.2. Tạo việc làm mới. 26
2.3. Tăng trưởng và đổi mới. 27
II. SỰ CẤN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG CÁC NGUỒN TÀI CHÍNH CHO CÁC DOANH NGHIỆP KH&CN. 28
1. Nhu cầu tài chính đặc biệt cho doanh nghiệp KH&CN 28
2. Các nguồn tài chính cho doanh nghiệp KH&CN của Việt Nam hiện nay. 30
2.1. Nguồn tài chính từ nguồn quỹ của Chính Phủ. 30
2.2. Các nguồn tài chính ngoài ngân quỹ của Chính Phủ. 32
III. KINH NGHIỆM QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN - TRƯỜNG HỢP TRUNG QUỐC 38
1. Sự phát triển doanh nghiệp KH&CN của Trung Quốc 38
2. Các thể chế hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp KH&CN ở Trung Quốc. 39
3. Vai trò của vốn mạo hiểm đối với doanh nghiệp KH&CN ở Trung Quốc 41
4. Quỹ đổi mới cho doanh nghiệp khoa học và công nghệ ở Trung Quốc 43
5. Nhận xét qua nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài 44
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ - VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ MỎ - TKV 46
I. GIỚI THIỆU VỀ DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHIỆP - VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHIỆP MỎ - TKV 46
1.Qúa trình hình thành và phát triển của Viện KHCN Mỏ - TKV. 46
2. Hình thức pháp lý và tư cách pháp nhân của Viện. 47
3. Tổ chức và hoạt động của Viện KHCN Mỏ - TKV. 49
2.1. Tình hình cơ cấu tổ chức và nhân sự của Viện KHCN Mỏ - TKV. 49
2.2. Lĩnh vực hoạt động, ngành nghề kinh doanh của Viện KHCN Mỏ. 53
II. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG NGUỒN TÀI CHÍNH TỪ NGÂN QUỸ CHÍNH PHỦ CỦA VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHIỆP MỎ - TKV. 54
1. Các chương trình hỗ trợ ưu đãi của Chính phủ 54
2. Nguồn ngân quỹ trực tiếp từ Chính phủ 58
3. Nhận xét về nguồn tài chính từ hỗ trợ của Chính phủ đối với Viện KHCN Mỏ - TKV. 59
III. THỰC TRẠNG NGUỒN VỐN NGOÀI NGÂN QUỸ CHÍNH PHỦ CHO VIỆN KHCN MỎ - TKV. 60
1. Nguồn vốn mạo hiểm ở Việt Nam thời gian qua - sự hình thành, phát triển và lĩnh vực đầu tư. 60
1.1. Giai đoạn 1990 – 2002 60
1.2. Từ năm 2002 đến nay. 63
2. Tình hình về vốn mạo hiểm tại Viện KHCN Mỏ - TKV. 66
3. Nguồn tài chính khác cho Viện KHCN Mỏ - TKV. 67
IV. NHỮNG KẾT QUẢ, NGUYÊN NHÂN VÀ HẠN CHẾ CỦA VIỆN KHCN MỎ - TKV TRONG HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH 70
1. Những kết quả đạt được của Viện KHCN Mỏ 70
2. Hạn chế. 73
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP CHO CÔNG TÁC TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH CHO VIỆN KHCN MỎ - TKV. 75
I. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ XÃ HỘI HIỆN NAY VÀ MỤC TIÊU HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH CỦA VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ - TKV 75
1.Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay. 75
2. Tình hình nguồn ngân sách nhà nước hiện nay. 78
3.Quan điểm phát triển của Viện. 78
II. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH CHO VIỆN KHCN MỎ - TKV. 79
1. Các giải pháp thu hút nguồn lực tài chính cho Viện KHCN Mỏ - TKV. 79
1.1. Các giải pháp từ phía Chính phủ, cấp Bộ ngành có liên quan. 79
1.2. Các giải pháp tăng cường huy động nguồn lực tài chính của Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV. 85
2. Các giải pháp tăng cường quản lý tài chính trong Viện KHCN Mỏ - TKV. 89
2.1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Viện. 89
2.2. Nâng cao cơ chế quản lý tài chính của Viện 90
KẾT LUẬN 92
DANH MỤCTÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1: Tiếp thu và chuyển giao tri thức bởi các doanh nghiệp khoa học và công nghệ (Theo Laranji, M. and Fontes, M. 1998). 23
Sơ đồ 2: Các giai đoạn phát triển trong vòng đời của doanh nghiệp. 28
Bảng 1. Phân biệt doanh nghiệp dựa trên khoa học và dựa trên công nghệ (theo Autio, E. 1997) 17
Bảng 2. Các giai đoạn phát triển doanh nghiệp và nhu cầu tài chính. 29
Bảng 3. Phân biệt giữa vốn mạo hiểm và vốn vay. 36
Bảng 4: Tổng quát về các loại công ty mạo hiểm Trung Quốc 44
Bảng 5: Số liệu về chất lượng lao động của Viện tính đến hết ngày 30/06/2008 như sau: 51
Bảng 6: Nguồn vốn từ NSNN cấp cho Viện Khoa học và công nghiệp Mỏ - KTV trong những năm sau: 59
Bảng 7: Một số thông tin về 4 Quỹ ĐTMH hoạt động tại Việt Nam 62
Bảng 8: Lĩnh vực đầu tư của một số Quỹ ĐTMH hoạt động ở Việt Nam (1991 – 2002) 64
Bảng 9: Vốn và tài sản tại Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV tại 30/06/2006. 68
Bảng 10: Các nguồn vốn của Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV năm 2007, 2008: 70
Bảng 11: Nguồn vốn đi vay trong TSCĐ và nguồn vốn đi vay hoạt động của Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV trong những năm gần đây. 70
Bảng 12: Kết quả hoạt động KHCN, sản xuất kinh doanh đạt được của Viện KHCN Mỏ 3 năm trước khi chuyển đổi như sau: 71
Bảng 13: Kết quả hoạt động KHCN, sản xuất kinh doanh đạt được của Viện KHCN Mỏ 3 năm sau khi chuuyển đổi: 72
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khoa học và công nghệ là nền tảng và là động lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước. Công nghệ hiện đại, sạch và thân thiện với môi trường cần được ưu tiên sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất, trước mắt cần được ưu tiên sử dụng ở các ngành và lĩnh vực sản xuất có tác dụng lan truyền mạnh, có khả năng thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành và lĩnh vực sản xuất trong xã hội. Chủ trương chuyển các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang hình thức doanh nghiệp khoa học và công nghệ nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các tổ chức này, đồng thời tăng cường ứng dụng những kết quả nghiên cứu của các cơ quan NC&PT, trường đại học vào sản xuất và đời sống cũng như việc hình thành mói các doanh nghiệp khoa học và công nghệ đã và đang là chủ đề tranh luận của nhiều nhà quản lý, nhà khoa học và doanh nghiệp, đặc biệt vấn đề này đã được đề cập trong đề án “đổi mới cơ chế quản lý KH&CN” do Chính phủ ban hành Quyết định 171/2004/QĐ – TTg ngày 28/9/2004, Nghị định số 115/2005/NĐ – CP “quy định cơ chế tự chủ, tự chịu tránh nhiệm của tổ chức KH&CN công lập” do Chính phủ ban hành ngày 05/09/2005.
Trong những năm qua, nguồn tài chính đầu tư cho KH&CN của nước ta không ngừng được cải thiện, Nhà nước ta quan tâm nhiều hơn nguồn lực tài chính cho KH&CN, không chỉ là nguồn NSNN mà còn có một phần không nhỏ nguồn ngoài NSNN. Chính điều này đã giúp Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV - một doanh nghiệp khoa học và công nghệ đã và đang đạt được những kết quả đáng khích lệ góp phần vào quá trình phát triển đất nước.
Mặc dù chi NSNN cho KH&CN đã tăng qua các năm nhưng vẫn chưa theo kịp và đáp ứng được những yêu cầu cấp thiết. Nguồn NSNN chưa thực sự trở thành đòn bẩy khuyến khích phát triển tối ưu Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV.Nguyên nhân của tình trạng trên là do cơ chế quản lý của Viện chưa thực sự phát huy được vai trò công tác huy động tài chính chưa thực sự được quan tâm và hỗ trợ tốt, chưa khai thác hết khả năng các nguồn lưc tài chính. Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn đó đề tài: “Tăng cường công tác huy động các nguồn lực tài chính tại Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV” được em lựa chọn và nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề án
- Tìm hiểu các nguồn lực tài chính của các doanh nghiệp KH&CN hiện nay.
- Đánh giá thực trạng huy động các nguồn lực tài chính của Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV trong thời gian qua và đưa ra vấn đề tồn tại cần phải tiếp tục hoàn thiên
- Đề xuất giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động các nguồn lực tài chính tại Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu công tác huy động các nguồn lực tài chính tại Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV.
- Thời gian nghiên cứu: Từ 2006 đến nay.
4.Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu: biện chứng, lịch sử, tổng hợp, và phân tích thống kê, kế thứa có cân nhắc, logic và quy nạp.
5. Kết cấu của đề án
- Nội dung đề án bao gồm 3 chương:
Chương I: Sự cần thiết phải tăng cường huy động các nguồn lực tài chính cho các doanh nghiệp khoa học và công nghệ hiện nay.
Chương II: Thực trạng tăng cường công tác huy động các nguồn lực tài chính tại Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV.
Chương III:Các giải pháp tăng cường công tác huy động các nguồn lực tài chính tại Viện Khoa học Công nghệ Mỏ - TKV
CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN TÀI CHÍNH CHO CÁC DOANH NGHIỆP KH&CN HIỆN NAY
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP KH&CN.
1. Doanh nghiệp KH&CN
1.1. Khái niệm chung về doanh nghiệp KH&CN
Doanh nghiệp khoa học và công nghệ có rất nhiều thuật ngữ khác nhau: doanh nghiệp dựa trên tri thức, doanh nghiệp dựa trên khoa học, doanh nghiệp dựa trên công nghệ mới (cao), doanh nghiệp vệ tinh hàn lâm (academic spin – off/ spin – out)…
Chỉ riêng bản than tên doanh nghiệp dựa trên tri thức, dựa trên khoa học và công nghệ đã ngụ ý, đó là những doanh nghiệp mà việc sản xuất những hang hoá và dịch vụ đặc biệt chủ yếu dựa vào sự phát triển, sở hữu tri thức và áp dụng tri thức. Không có ngành công nghiệp nào tri thức là không quan trọng nhưng có một số lĩnh vực tri thức được áp dụng nhiều hơn trong quá trình sản xuất. Tương tự như vậy có những ngành công nghiệp sử dụng nhiều đất đai như nông nghiệp hoặc những ngành công nghiệp sử dụng nhiều năng lượng như luyện kim. Không giống như đất đai, năng lượng vốn và lao động, tri thức không thể đánh giá một cách dễ dàng bằng các phương pháp kinh tế chuẩn.
Nếu không có những đánh giá này thì chúng ta hoặc là không thể xem xét bao nhiêu tri thức cần thiết bởi một ngành công nghiệp so sánh với ngành khác hoặc tri thức quan trọng như thế nào khi so sánh với các nhân tố khác của việc sản xuất, kinh doanh thong thường.
Tuy nhiên, đa số các quốc gia và các học giả trên thế giới sử dụng hai hình thức sau để chỉ doanh nghiệp khoa học và công nghiệp:
Doanh nghiệp vệ tinh hàn lâm:
Đây là những doanh nghiệp được hình thành do một (nhóm) sang lập viên có tinh thần kinh thương rời khỏi tổ chức “mẹ” (trường đại học; viện nghiên cứu; phòng thí nghiệm quốc gia hay thậm chí doanh nghiệp) để bắt đầu một sự kinh doanh độc lập, mới. Sự thành lập doanh nghiệp trên cơ sở kỹ năng và tri thức đặc biệt được hình thành trong tổ chức mẹ. Tổ chức mẹ hỗ trợ cho doanh nghiệp bằng cách cho phép chuyển giao tri thức, năng lực và/ hoặc các phương tiện trực tiếp.
Thorburn, L.(2000), Y. và cộng sự (2000) định nghĩa doanh nghiệp vệ tinh hàn lâm là những doanh nghiệp được tạo ra để thương mại hoá bí quyết kỹ thuật do tổ chức nghiên cứu và phát triển sở hữu ( nơi mà cán bộ khoa học tách ra thành lập doanh nghiệp mới ). Tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp giấy phép sở hữu trí tụê cho cán bộ nghiên cứu và trên cơ sở đó hình thành sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp. Như vậy chuyển giao công nghệ diễn ra dưới hai hình thức chính thức (giấy phép li – xăng) và không chính thức (chuyển giao tri thức ngầm hoặc là thông qua chuyển giao cán bộ hoặc thông qua các mối quan hệ vốn có giữa doanh nghiệp mới và tổ chức nghiên cứu mẹ). Như vậy doanh nghiệp vệ tinh hàn lâm là thực thể chuyển từ khu vực công sang khu vực tư và có thể hình thành một cầu nối giữa hai nhóm bằng hoạt động của mạng lưới không chính thức của các sang lập viên.
Theo tổng hợp của Yencken, J.(2002), doanh nghiệp vệ tinh hàn lâm có thể chia thành các loại sau:
- Doanh nghiệp spin – off nghiên cứu trực tiếp: là những doanh nghiệp được tạo ra để thương mại hoá sở hữu trí tuệ (SHTT) xuất phát từ tổ chức nghiên cứu. SHTT ở đây thông qua pa – tăng từ viện nghiên cứu mẹ đến doanh nghiệp mới hình thành SHTT của doanh nghiệp và các thành viên có thể làm việc chính nhiệm hoặc kiêm nhiệm từ viện nghiên cứu mẹ đến doanh nghiệp mới.
- Doanh nghiệp chuyển giao công nghệ: là những doanh nghiệp được thành lập để thương mại một cách ngầm định tri thức và bí quyết kỹ thuật của trường đại học. Thông thường quá trình chuyển giao ngầm định là không đơn giản, một khi việc sản xuất sản phẩm mới theo SHTT được bảo hộ.
- Doanh nghiệp spin – off gián tiếp: là những doanh nghiệp được thành lập bởi các cán bộ và/ hoặc sinh viên trường đại học trước đây hoặc hiện tại dựa trên kinh nghiệm của họ nhận được trong thời gian làm việc hoặc học tập tại trường nhưng không có giấy phép SHTT chính chức hoặc những quan hệ tương tự với trường đại học.
Mô hình định hướng công nghệ: đặc điểm của loại này là không tham gia marketing các sản phẩm cuối cùng và trong đa số trường hợp cũng không tiến hành chế tạo các sản phẩm đó. Các doanh nghiệp loại này chú trọng phát triển những công nghệ để rồi thương mại hoá tiếp theo và có thể hình thành doanh nghiệp mới trên cơ sở cấp giấy phép, liên doanh hay các loại liên kết khác.
Doanh nghiệp dựa trên công nghệ ( mới hoặc cao)
Doanh nghiệp dựa trên công nghệ là một doanh nghiệp tập trung nhiều vào nghiên cứu và phát triển hoặc chú trọng vào việc khai thác tri thức kỹ thuật mới.
Storey, D.J. and Tether, B.S. (1998) xác định doanh nghiệp dựa trên công nghệ như một doanh nghiệp độc lập, có thời gian từ khi thành lập dưới 5 năm và dựa trên sự khai thác sáng chế hoặc đổi mới công nghệ với độ rủi ro về mặt công nghệ rất lớn. Những tác giả khác như Shearman and Burrell (1998), Delapierre và cộng sự (1998) thì cho rằng doanh nghiệp dựa trên công nghệ mới được xác định như các doanh nghiệp độc lập với mục tiêu khai thác một sang chế hoặc một công nghệ mới.
Tuy nhiên, các tác giả cũng nhận thấy rằng định nghĩa này rất khó để thống kê các doanh nghiệp dựa trên công nghệ. Điều này giải thích rằng rất khó để xác định liệu có hay không một doanh nghiệp đổi mới. Thật vậy, trong một số trường hợp liệu rằng từ “mới” có hàm ý là doanh nghiệp hoặc công nghệ mới hoặc cả hai. Ngay cả khái niệm “doanh nghiệp mới” cũng gây ra những bất cập bởi vì cần phân biệt giữa doanh nghiệp thực sự là doanh nghiệp mới với doanh nghiệp là kết quả của sự sáp nhập nhiều doanh nghiệp đang tồn tại hay thậm chí việc thay đổi sở hữu cũng dẫn đến khái niệm mới. Thêm nữa, khái niệm “độc lập” cũng chỉ là tương đối bởi khi một doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào khách hang thì nó bị chi phối bởi các khách hang đó và khái niệm độc lập ở đây là không thích hợp.
Một số tác giả đã sử dụng thuật ngữ doanh nghiệp dựa trên công nghệ mới cho một số lượng lớn các doanh nghiệp, định nghĩa rộng hơn bao gồm tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực “công nghệ cao”. Tuy nhiên việc xác định “công nghệ cao” cũng là một vấn đề mặc dù Burchart (1987) đã xác định – là các lĩnh vực mà có chi tiêu trung bình vào nghiên cứu và phát triển trên tổng doanh thu cao hơn các lĩnh vực khác hoặc là các doanh nghiệp sử dụng tỷ lệ “nhà khoa học và kỹ sư có chất lượng” cao hơn các doanh nghiệp khác – và ông gọi các doanh nghiệp loại này như là “các doanh nghiệp vừa và nhỏ công nghệ cao”.
Tài liệu của các quốc gia cũng có những định nghĩa khác nhau về doanh nghiệp dựa trên công nghệ mới. Pháp và Phần Lan thì sử dụng cả khái niệm rộng (phân tích tất cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ công nghệ cao) và khái niệm hẹp (điều tra khảo sát). Đức chủ yếu dựa trên khái niệm rộng còn Bồ Đào Nha dựa trên điều tra khảo sát và như vậy là sử dụng khái niệm hẹp.
Totterman, H. (2004) thì xác định doanh nghiệp trên công nghệ mới là doanh nghiệp được thành lập do một cá nhân hoặc một nhóm người có tinh thần kinh thương. Những doanh nghiệp như vậy được thành lập để khai thác tri thức công nghệ mới và như vậy chúng đầu tư một cách mạnh mẽ vào nghiên cứu và phát triển. Thêm nữa, các doanh nghiệp này tham gia vào thị trường với sự đổi mới công nghệ của chính mình. Doanh nghiệp được coi là doanh nghiệp dựa trên công nghệ mới chừng nào chúng chủ yếu được sở hữu và quản lý bởi những người có tinh thần kinh thương độc lập.
Autio, E. (2000) thì cho rằng doanh nghiệp được gọi là dựa trên công nghệ mới phải đáp ứng các chỉ tiêu:
“Mới thành lập” tức là không quá 5 năm;
Dựa trên việc khai thác một phát minh tiềm năng hoặc một năng lực công nghệ đặc biệt;
Do một cá nhân hoặc một nhóm cá nhân thành lập; và
Tiến hành các hoạt động như những công việc trong tổ chức ươm tạo hoặc chuyên chuyển giao công nghệ nguồn từ các tổ chức ươm tạo
Theo McGee and Dowling (Canada) doanh nghiệp được gọi là dựa trên công nghệ mới nếu đáp ứng các điều kiện sau:
“Mới thành lập” tức là không quá 8 năm, độc lập;
Hoạt động trong khu vực công nghiệp CNC do Quỹ Khoa học Quốc gia xác định.
Trong nghiên cứu của mình, Bozkaya, A. và cộng sự (2003) đưa ra định nghĩa về doanh nghiệp khoa học và công nghệ là doanh nghiệp mà sản phẩm hoặc dịch vụ của nó phụ thuộc chủ yếu vào việc áp dụng tri thức khoa học hoặc tri thức công nghệ, hoặc một doanh nghiệp mà các hoạt động của nó theo đuổi một thành phần công nghệ có ý nghĩa như là một nguồn lợi thế cạnh tranh. Các doanh nghiệp này nói chung tập trung vào các ngành công nghiệp như hang không, truyền thông, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, điện tử và khoa học sự sống/ y dược
Phòng thương mại và công nghệ Anh thì xác định doanh nghiệp khoa học và công nghệ là doanh nghiệp:
(mới) thành lập chưa quá 3 năm;
Bản chất đổi mới, tham gia vào nghiên cứu và phát triển có hướng tiếp cận đến bí quyết kỹ thuật hoặc là thông qua những nỗ lực của chính doanh nghiệp hoặc bên thứ ba hoặc là hợp đồng nghiên cứu và phát triển;
Sử dụng nhiều vốn hơn (xét tương đối ) so với doanh nghiệp khởi nghiệp thông thường.
Ngoài ra, Autio, E. (1997) còn phân biệt doanh nghiệp dựa trên khoa học và doanh nghiệp dựa trên công nghệ. Theo ông doanh nghiệp dựa trên khoa học là các doanh nghiệp sử dụng các kết quả nghiên cứu cơ bản bằng việc chuyển chúng thành các công nghệ nguồn và các công nghệ cụ thể, bằng việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ rất phức tạp trên một phạm vi ứng dụng rộng rãi. Các doanh nghiệp dựa trên công nghệ là các doanh nghiệp áp dụng các công nghệ nguồn vào việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu cụ thể của khách hang.
Có thể nói rằ