Chuyên đề Tăng cường huy động vốn từ dân cư tại Sở giao dịch III ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

Trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế nói chung, các hoạt động tài chính nói riêng thì các hoạt động của các ngân hàng có rất nhiều vấn đề mới cần được nghiên cứu và triển khai cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn và thông lệ quốc tế. Việc nghiên cứu, áp dụng các giải pháp về huy động vốn nói chung và huy động vốn từ dân cư nói riêng là chủ đề rất quan trọng và cấp thiết nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, đảm bảo an toàn về vốn và tạo điều kiện để Sở Giao dịch 3 tồn tại và phát triển trong môi trường kinh tế thời kỳ mở cửa. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan như tình hình lạm phát, giá vàng, xăng dầu tăng cao, sự điều hành chính sách vĩ mô của nhà nước và khả năng nội lực của NHTM nên trong hoạt động huy động vốn từ dân cư của các NHTM còn gặp những khó khăn nhất định. Vì vậy với những kiến thức tổng quan về hoạt động huy động vốn cũng như những giải pháp được nêu ra trong chuyên đề dựa trên thực trạng của các NHTM không hẳn là hoàn thiện, nhưng có thể góp phần ít nhiều cho việc gia tăng nguồn vốn huy động từ dân cư của Sở Giao dịch 3 nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng như đáp ứng nhu cầu vốn cho sự phát triển kinh tế Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu, bám sát mục tiêu, phạm vi nghiên cứu bài chuyên đề này đã hoàn thành được một số nhiệm vụ đặt ra: - Nêu lên một số luận chứng khoa học về huy động vốn. - Nghiên cứu tổng quát về tình hình huy động vốn từ dân cư tại Sở Giao dịch 3 trong thời gian gần đây, qua đó đánh giá khả năng huy động vốn của ngân hàng và những định hướng trong tương lai để hoạt động huy động vốn hiệu quả hơn. - Nêu ra một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn đối với Sở Giao dịch 3

doc75 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2313 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tăng cường huy động vốn từ dân cư tại Sở giao dịch III ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI HUY ĐỘNG VỐN ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 1 I.CÁC NGUỒN HÌNH THÀNH VỐN ĐẦU TƯ 1 1.Vốn đầu tư: 1 1.1 Khái niệm: 1 3. Các nguồn hình thành vốn đầu tư: 3 3.1 Tiết kiệm trong nước: 3 3.2 Đầu tư nước ngoài 6 II. NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 14 1.Khái niệm vốn huy động trong ngân hàng thương mại 14 2.Tầm quan trọng của vốn huy động đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 15 3. Các nguồn vốn huy động 17 3.1 Nguồn tiền gửi 17 3.2 Nguồn đi vay 19 3.3. Nguồn khác 21 III. HUY ĐỘNG VỐN TỪ DÂN CƯ CỦA NHTM 21 1. Khái quát hoạt động Huy động vốn từ dân cư của NHTM 21 1.1 Đặc điểm của tiền gửi dân cư tại NHTM 22 1.2 Vai trò của huy động vốn từ dân cư 23 1.3 Hình thức huy động vốn từ dân cư 23 2 Các chỉ tiêu phản ánh hoạt động huy động vốn từ dân cư của NHTM 24 2.1. Nhóm chỉ tiêu định lượng 24 2.2. Nhóm chỉ tiêu định tính 27 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn từ dân cư của NHTM 28 3.1 Nhân tố khách quan. 28 3.2 Nhân tố chủ quan 30 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TỪ KHU VỰC DÂN CƯ TẠI SỞ GIAO DỊCH 3, NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 34 1.Khái quát về Sơ giao dịch 3, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 34 1.1 Quá trình hình thành và phát triển 34 2.1 Thực trạng huy động vốn từ dân cư tại Sở giao dịch 3,Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 39 2.1.1 Quy mô của lượng vốn huy động: 46 2.1.2 Cơ cấu vốn huy động 48 2.1.3 Tỷ lệ tổng huy động vốn dân cư / tổng vốn huy động của toàn ngân hàng 52 2.1.4 Chi phí huy động / quy mô huy động 53 2.3 Đánh giá hoạt động huy động vốn từ dân cư tại Sở giao dịch 3 55 2.3.1Những thành tựu: 55 2.3.2Những hạn chế: 56 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TỪ DÂN CƯ TẠI SỞ GIAO DỊCH 3, NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 59 I .Định hướng phát triển hoạt động huy động vốn từ dân cư tại Sơ giao dịch 3, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 59 II. Giải pháp tăng cường huy động vốn từ dân cư tại Sơ giao dịch 3, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 60 1. Tiếp tục đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, tăng nhanh nguồn vốn kinh doanh 60 2. Áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt 64 3. Nâng cao chất lượng sử dụng vốn 65 4.Mở rộng và cải tiến các dịch vụ 65 5. Nâng cao chất lượng phục vụ, củng cố uy tín của ngân hàng 66 6. .Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng 68 III. Kiến nghị 68 1. Đối với chính phủ 68 2 Đối với Ngân hàng Nhà nước 69 3 Đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 70 KẾT LUẬN 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 73 CHƯƠNG I SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI HUY ĐỘNG VỐN ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ I.CÁC NGUỒN HÌNH THÀNH VỐN ĐẦU TƯ 1.Vốn đầu tư: 1.1 Khái niệm: + Vốn đầu tư sản xuất: Vốn đầu tư sản xuất là toàn bộ các khoản chi phí nhằm duy trì hoặc gia tăng mức vốn sản xuất. Vốn đầu tư sản xuất được chia thành vốn đầu tư vào tài sản cố định và vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Đến lượt mình, vốn đầu tư vào tài sản cố định lại chia thành vốn đầu tư cơ bản và vốn đầu tư sửa chữa lớn. Vốn đầu tư cơ bản làm tăng khối lượng thực thể của tài sản cố định, bảo đảm bù đắp số tài sản cố định bị hao mòn và tăng thêm phần xây lắp dở dang. Còn vốn sửa chữa lớn không làm tăng khối lượng thực thể của tài sản, do đó nó không có trong thành phần của vốn đầu tư cơ bản. Nhưng vai trò kinh tế của vốn sửa chữa lớn tài sản cố định cũng giống như vai trò kinh tế của vốn đầu tư cơ bản là nhẳm bảo đảm thay thế tài sản bị hư hỏng. Như vậy, hoạt động đầu tư cho sản xuất là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực sản xuất cũ và tạo thêm năng lực sản xuất mới, nói một cách khác, đó là quá trình thực hiện tái sản xuất các loại tài sản sản xuất.Hoạt động đầu tư là hết sức cần thiết,xuất phát từ 3 lý do: - Thứ nhất là, do đặc điểm của việc sử dụng tài sản cố định tham gia nhiều lần vào quá trình sản xuất, giá trị bị giảm dần và chuyển dần từng phần vào trong giá trị sản phẩm. Trái lại đối với tài sản lưu động lại tham gia một lần vào quá trình sản xuất và chuyển toàn bộ giá trị vào trong giá trị sản phẩm. Vì vậy, phải tiến hành đầu tư để bù đắp giá trị tài sản cố định bị hao mòn và duy trì dự trữ ngyên vật liệu cho quá trình sản xuất tiếp theo. Nói cách khác, đầu tư nhằm thực hiện tái sản xuất giản đơn tài sản sản xuất. - Thứ hai là, nhu cầu quy mô sản xuất xã hội ngày cành mở rộng đòi hỏi phải tiến hành đầu tư nhằm tăng thêm tài sản cố định mới và tăng thêm dự trữ tài sản lưu động. Tức là, thực hiện tái sản xuất mở rộng tài sản sản xuất. - Thứ ba là, trong thời đại của tiến bộ công nghệ diễn ra rất mạng mẽ, nhiều máy móc, thiết bị … nhanh chóng bị rời vào trạng thái lạc hậy công nghệ. Do đó, phải tiến hành đầu tư mới, nhằm thay thế các tài sản sản xuất đã bị hao mòn vô hình. Tái sản xuất tài sản cố định được xem là một hoạt động hết sức quan trọng, có tính chất lâu dài và có những mối quan hệ ổn định, ảnh hưởng đến tất cả các ngành, các khâu và các yếu tố trong nền kinh tế. Tái sản xuất tài sản cổ định và năng lực sản xuất mới, bao gồm ba giai đoạn của một quá trình đầu tư thống nhất: Giai đoạn một – hình thành nguồn, khối lượng và cơ cấu cốn đầu tư cơ bản; giai đoạn hai – giai đoạn “chín muồi” của vốn đầu tư cơ bản và biến vốn đó thành việc đưa tài sản cố định bà năng lực sản xuất mới vào hoạt động; giai đoạn ba – hoạt động của tài sản cố định và năng lực sản xuất mới trong thời hạn phục vụ của chúng. Hoạt động đầu tư thường được tiến hàng dưới hai hình thức đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiệp. Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư mà người có vốn tham gia trực tiếp vào quá trình hoạt động và quản lý đầu tư, họ biết được mục tiêu đầu tư cũng như phương thức hoạt động của các loại vốn mà họ bỏ ra. Hoạt động đầu tư này có thể được thực hiện dưới các dạng: hợp đồng, liên doanh, cồn ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Đầu tư gián tiếp là hình thức bỏ vốn vào hoạt động kinh tế nhằm đem lại hiệu quả cho bản thân người có vốn cũng như cho xã hội, những người có vốn không trực tiếp thường được thực hiện dưới dạng: cổ phiếu, tín phiếu…Hình thức đầu tư này thường ít gặp rủi ro hơn so với đầu tư trực tiếp. + Vốn đầu tư phi sản xuất 3. Các nguồn hình thành vốn đầu tư: 3.1 Tiết kiệm trong nước: -Tiết kiệm hộ gia đình: Tiết kiệm của dân cư phụ thuộc vào chi tiêu của hộ gia đình. Thu nhập của hộ gia đình bao gồm thu nhập có thể sử dụng ( DI ) và các khoản thu nhập khác. Chúng ta đã biết cách xác định thu nhập có thể sử dụng từ thu nhập quốc dân sản xuất ( NI ) : DI =NI – T + S Trong đó: Td là thuế thu nhập (bao gồm cả thuế thu nhập của công ty Tde và thuế thu nhập của dân cư Tdh ) T = T + T S là các khoản trợ cấp của Chính phủ. Các khoản thu nhập khác có thể từ rất nhiều nguồn như được viện trợ, thừa kế, bán tài sản, trúng vé xổ số, thậm chí là các khoản đi vay… Chi tiêu của hộ gia đình bao gồm : Các khoản chi mua hàng hóa và dịch vụ. Chi mua hàng hóa đó là chi về lương thực, thực phẩm,quần áo, phương tiện đi lại và các hàng hóa tiêu dùng lâu bền khác…; Chi cho hoạt động dịch vụ là chi cho du lịch, chi cho các hoạt động văn hóa , thể dục, thể thao … -Chi trả lại suất các khoản tiền vay. Khác với chi tiêu của Chính phủ, tất cả các khoản chi tiêu của hộ gia đình đều được coi là yếu tố cấu thành GDP. Mối quan hệ giữa các khoản thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình có thể được mô tả qua hàm chi tiêu. Hàm chi tiêu C có dạng : C =a + b.DI Trong đó : a là các khoản chi tiêu cố định b là xu hướng tiêu dùng cận biên (MPC) phản ánh độ dốc của hàm chi tiêu. b=  =MPC Tại D1 , mức thu nhập có thể sử dụng nhỏ hơn mức chi tiêu (DI<C ). Tại đó, để có đủ tiền chi tiêu dân cư phải sử dụng các khoản thu nhập khác a1 . Tại D0, mức thu nhập có thể sử dụng vừa bằng mức chi tiêu ( DI=C ) .Điểm 0 được gọi là điểm vừa đủ. Tại D2, mức thu nhập có thể sử dụng lớn hơn mức chi tiêu (DI>C ). Tại đây dân cư mới có tiết kiệm S2 Hình 1.0 Hàm chi tiêu của các hộ gia đình ` Thu nhập ở mức D0 là thu nhập vừa đủ đạp ứng nhu cầu tiêu dùng của các hộ gia đình. Nếu các hộ gia đình có mức thu nhập D1, tại đó sẽ không có tiết kiệm, mà còn thiếu hụt so với nhu cầu tiêu dùng một lượng a1 . Chỉ khi các hộ gia đình có mức thu nhập lớn hơn D1 , ví dụ ở mức D2 , sẽ có mức tiết kiệm S2 . Thu nhập càng tăng tỷ lệ tiết kiệm càng lớn, còn tỷ lệ tiêu dùng giảm xuống. Qua Hình 1.0 có thể thấy rằng , khi thu nhập gia tăng, tỷ lệ tiết kiệm sẽ tăng dần, có nghĩa là trong một nước, những gia đình có thu nhập cao hơn sẽ có tỷ lệ tiết kiệm lớn hơn. Và tất nhiên, những nước giàu hơn sẽ có tỷ lệ tiết kiệm để đầu tư cao hơn so với các nước có mức thu nhập thấp. -Tiết kiệm các doanh nghiệp Tiết kiệm của cá doanh nghiệp được xác định dựa trên cơ sở doanh thu của các công ty và các khoản chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh.Doanh thu của công ty ( TR ) là các khoản thu nhập của công ty do tiêu thụ hàng hóa hoặc các dịch vụ sau khi đã trừ đi các chi phí trung gian trong quá trình sản xuất. Tổng chi phí (TC ) thường bao gồm các khoản: trả tiền công, trả tiền thuê đất đai, trả lãi suất tiền vay và thuế kinh doanh. Khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí được gọi là lợi nhuận của công ty trước thuế. Pr trước thuế = TR - TC Lợi nhuận trước thuế sau khi đóng thuế lới tức sẽ còn lại lợi nhuận của công ty sau thuế. Pr sau thuế = Pr trước thuế - Tde Tde là thuế thu nhập của công ty. Đối với các công ty cổ phần thì lợi nhuận sau thuế còn phải chia cho các cổ đông, do đó còn xuất hiện thêm khái niệm lợi nhuận để lại công ty (hay còn gọi là lợi nhuận không chia). Lợi nhuận để lại công ty cùng với quỹ khấu hao trở thành nguồn vốn đầu tư của công ty. -Tiết kiệm của chính phủ Theo tính chất sở hữu, tiết kiệm của Chính phủ bao gồm tiết kiệm của ngân sách nhà nước và tiết kiệm của các công ty nhà nước. Theo tổ chức kinh tế, thì tiết kiệm của các công ty nhà nước. Theo tổ chức kinh tế, thì tiết kiệm của các công ty tư nhân được kết hợp chung là tiết kiệm các công ty. Do vậy, tiết kiệm của Chính phủ ở đây chỉ giới hạn trong phạm tiết kiệm của ngân sách nhà nước. Về nguyên tắc, tiết kiệm được tính bằng cách lấy tổng số thu nhập trừ đi các khoản chi tiêu. Thu ngân sách của Chính phủ chủ yếu là khoản thu thuế, ngoài ra còn có các khoản thu phí và lệ phí có tính chất thuế. Nhưng đối với Chính phủ, đặc biệt là Chính phủ các nước phát triển, chi cho đầu tư phát triển là một nhiệm vụ quan trọng, do đó tình trạng phổ biến thường là bội chi ngân sách. Các khoản chi ngân sách của Chính phủ bao gồm: -Chi mua hàng hóa và dịch vụ. Chi cho hoạt động dịch ở Việt Nam được gọi là “ chi thường xuyên” bao gồm: chi cho bộ máy quản lý nhà nước; chi cho văn hóa, giáo dục , y tế; chi cho hoạt động khoa học; chi cho an ninh, quốc phòng. Chi mua hàng hóa chính là khoản “ chi đầu thư phát triển ” bao gồm: chi xây dựng cơ sở hạ tầng; chi phát triển một số nghành mũi nhọn có ý nghĩa quan trọng,tác động tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. -Chi cho các khoản trợ cấp. -Chi trả lãi suất các khoản tiền vay của Chính phủ. Điều đáng chú ý là, trong các khoản chi tiêu của Chính phủ qua ngân sách chỉ có khoản chi mua hàng hóa dịch vụ được tính vào GDP, còn chi trợ cấp là khoản sẽ tính vào cho thu nhập của các hộ gia đình và chi trả lãi suất tiền vay của Chính phủ được coi là thanh toán chuyển khoản, không phải là yếu tố cấu thành của GDP. 3.2 Đầu tư nước ngoài + Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Nguồn vốn FDI là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài để đầu tư cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ nhăm mục đích thu lợi nhuận . Đây là một nguồn vốn lớn, có nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Trong lịch sử thế giới FDI đã tồn tại từ lâu, ngay từ thời tiền tư bản. Các công ty của Anh , Hà lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… là những công ty đi đầu trong lĩnh vực đầu tư FDI dưới hình thức đầu tư vốn vào các nước châu Á để khai thác đồn điền nhằm cung cấp nguyên liệu cho các nghành công nghiệp của chính quốc. Cùng với các nghành khai thác đồn điền là các nghành khai thác khoáng sản, tài nguyên trong lòng đất đưa về chính quốc. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai , FDI đã có sự thay đổi rõ rệt với sự đầu tư ồ ạt của các nhà đầu tư Mỹ vào châu Âu theo kế hoạch Marshall để vực dậy phần lục địa bị chiến tranh tàn phá này. Sau đó là sự đầu tư lẫn nhau giữa các nước Châu âu theo kế hoạch Marshall để vực dậy phần lục địa bị chiến tranh tàn phá này. Sau đó là sự đầu tư lẫn nhau giữa các nước Châu Âu, thực hiện sự liên minh tư bản, tăng cường khả năng kinh tế, chống độc quyền của các nhà đầu tư Mỹ. Từ đó, việc đầu tư trực tiếp nước ngoài trở nên thường xuyên hơn và được sử dụng phối hợp với các hình thức xuất khẩu tư bản khác trở thành vũ khí lợi hại của các nước phương Tây trong việc thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, nhất là với các nước đang phát triển. Ngày nay , FDI trở thành một tất yếu kinh tế trong điều kiện quốc tế hóa sản xuất và lưu thông. Không có một quốc gia nào, dù lớn hay nhỏ, dù phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa lại không cần đến nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tất cả đều coi đó là nguồn lực quốc tế quan trọng cần khai thác để từng bước hòa nhập vào cộng đồng quốc tế. Ngay cả những quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh như Mỹ, Nhật, dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ hiện nay cũng không thể tự mình giải quyết được những vấn đề kinh tế, xã hội đã, đang và sẽ tiếp tục đặt ra. Chỉ có con đường hợp tác, trong đó có FDI là loại hình đầu tư , hợp tác có hiệu quả. Đầu tư FDI tồn tại dưới nhiều hình thức, song những hình thức chủ yếu là hợp đồng hợp tác kinh doanh; doanh nghiệp liên doanh; doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên (gọi là bên hợp doanh) quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư mà không thành lập một pháp nhân. Doanh nghiệp liên doanh là loại hình doanh nghiệp do hai bên hoặc các bên nước ngoài hợp tác với nước tieps nhận đầu tư cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ vốn góp. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư( tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước tiếp nhận đầu tư, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh, kinh doanh. Vai trò của nguồn vốn FDI: Trước hết , nói đến vai trò của FDI đối với các nước đi đầu tư thể hiện ở một số ích lợi sau: -Thông qua đầu tư FDI, cá nước đi đầu tư tận dụng được những lợi thế về chi phí sản xuất thấp của các nước nhận đầu tư( giá nhân công rẻ, chi phí khai thác tài nguyên, vật liệu tại chỗ thấp) để hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí vận chuyển đối với việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu ở các nước tiếp nhận đầu tư. Nhờ đó, mà nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư. -Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho phép các công ty có thể kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm đã được sản xuất và tiêu thụ ở thị trường trong nước. Thông qua FDI, các công ty của các nước phát triển chuyển được một phần các sản phẩm công nghiệp ở giai đoạn cuối của chu kỳ sống sản phẩm sang các nước nhận đầu tư để tiếp tục sử dụng chúng như những sản phẩm mới ở các nước này, tạo thêm lợi nhuận cho nhà đầu tư. -Giúp các công ty chính quốc tạo dựng được thị trường cung cấp nguyên, vật liệu dồi dào, ổn định với giá rẻ. -Cho phép chủ đầu tư bành trướng sức mạnh về kinh tế, tăng cường khả năng ảnh hưởng của mình trên thị trường quốc tế, nhờ mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, lại tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước nhận đầu tư, giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh với các hàng hóa nhập từ các nước khác. Đối với các nước tiếp nhận đầu tư( chủ yếu là các nước đang phát triển), nguồn vốn FDI có những tác dụng sau: -FDI giải quyết tình trạng thiếu vốn cho phát triển kinh tế xã hội do tích lũy nội bộ thấp, cản trở đầu tư và đổi mới kỹ thuật trong điều kiện khoa học kỹ thuật thế giới phát triển mạnh. Các nước NICs trong gần 30 năm qua, nhờ nhận được trên 50 tỷ USD đầu tư nước ngoài cùng với chính sách kinh tế năng động, hiệu quả đã trở thành những con rồng châu Á. - Cùng với việc cung cấp vốn, thông qua FDI các công ty nước ngoài đã chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc nước khác sang cho nước tiếp nhận đầu tư, do đó các nước tiếp nhận đầu tư có thể nhận được những công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại ( thực tế, có những công nghệ không thể mua được bằng quan hệ thương mại đơn thuần), những kinh nghiệm quản lý, năng lực marketing, đội ngũ lao động được đào tạo, rèn luyện về mọi mặt (trình độ kỹ thuật, phương pháp làm việc, kỷ luật lao động…) . -Đầu tư FDI làm cho các hoạt động đầu tư trong nước phát triển, thúc đẩy tính năng động và khả năng cạnh tranh trong nước, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các tiềm năng của đất nước. Điều đó có tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. -Với việc tiếp nhận FDI, không đẩy các nước vào cảnh nợ nần, không chịu những ràng buộc về chính trị, xã hội. FDI góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc đánh thuế vào các công ty nước ngoài. Thông qua hợp tác với nước ngoài, nước tiếp nhận đầu tư có điều kiện thâm nhập vào thị trường thế giới. Như vậy các nước có khả năng tốt hơn trong việc huy động tài chính cho các dự án phát triển. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các nước tiếp nhận đầu tư, bên cạnh những ưu điểm thì FDI cũng có những hạn chế nhất định. Đó là, nếu đầu tư vào nơi có môi trường bất ổn về kinh tế và chính trị, thì nhà đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn. Còn đối với nước sở tại , nếu không có quy hoạch cho đầu tư cụ thể và khoa học thì sẽ dẫn tới chỗ đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. + Vốn viện trợ phát triển chính thức ODA Hỗ trợ phát triển chính thức (hay ODA, viết tắt của cụm từ Official Development Assistance), là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là Hỗ trợ bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là Phát triển vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi là Chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay. Ưu điểm của ODA Lãi suất thấp (dưới 2%, trung bình từ 0.25%năm) Thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới phải hoàn trả và thời gian ân hạn 8-10 năm) Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là 25% của tổng số vốn ODA. Bất lợi khi nhận ODA Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới).Ví dụ: Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến h
Luận văn liên quan