Hoạt động xuất bản vừa là hoạt động văn hoá, tư tưởng, vừa là hoạt động sản xuất vật chất. Nó là kết quả lao động sáng tạo của con người, là phương tiện quan trọng phản ánh đời sống tinh thần, bộ mặt văn hoá của mỗi dân tộc ở mọi thời đại. Mặt khác, từ khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp thì xuất bản không chỉ đóng vai trò phản ánh đời sống tinh thần và vật chất của con người mà còn mang tính giai cấp ngày càng rõ rệt, là nguồn lực và vũ khí sắc bén của đấu tranh giai cấp.
Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Đảng và Nhà nước ta luôn thực thi chính sách nhất quán, đặc biệt coi trọng quyền tự do, dân chủ của nhân dân, trong đó có quyền tự do xuất bản. Hiến pháp Nhà nước Việt Nam và một loạt các điều luật, hệ thống văn bản dưới luật lần lượt ra đời nhằm xây dựng một hành lang pháp lý hoàn chỉnh, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động xuất bản phát triển đúng hướng, trên nền táng luật pháp. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, hệ thống pháp luật nhiều năm tồn tại đã dần dần bộc lộ những thiếu sót, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới.
Thực tiễn đã chứng minh việc sử dụng pháp luật để điều chỉnh hoạt động xuất bản là điều chỉnh hoạt động kinh tế trong lĩnh vực văn hoá - tư tưởng, đồng thời cũng chính là điều chỉnh hoạt động văn hoá - tư tưởng trong cơ chế thị trường. Bài viết sau đây có thể phần nào khái quát về pháp luật xuất bản ở Việt Nam, một lĩnh vực hoạt động đa dạng và hết sức phong phú.
68 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2323 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng, đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong quản lý Nhà nước về xuất bản ở Việt Nam hiện nay: Phương hướng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương I: KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM 3
I. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT VỀ XUẤT BẢN 3
1. Nhận thức chung về xuất bản 3
1.1. Khái niệm 3
1.2. Vị trí của xuất bản trong đời sống xã hội 6
1.3. Vai trò của xuất bản 7
1.4. Đặc điểm của xuất bản 10
2. Hiệu quả và những đặc trưng cơ bản về quản lý Nhà nước bằng pháp luật về xuất bản 15
2.1. Hiệu quả của quản lý Nhà nước bằng pháp luật về xuất bản 15
2.2. Những đặc trưng cơ bản của quản lý Nhà nước bằng pháp luật về xuất bản 20
II. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT BẢN 23
1. Pháp luật - phương tiện quản lý Nhà nước về xuất bản 23
1.1. Pháp luật - phương tiện tạo lập môi trường tự do sáng tạo, bình đẳng cho các chủ thể trong hoạt động xuất bản 23
1.2. Pháp luật bảo vệ lợi ích hợp pháp của những người sáng tạo ra tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học 23
1.3. Pháp luật đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động xuất bản 24
1.4. Pháp luật - phương tiện nâng cao hiệu quả chính trị - kinh tế, xã hội trong xuất bản, chống thương mại hoá xuất bản 25
1.5. Pháp luật - phương tiện bảo vệ lợi ích người tiêu dùng xuất bản phẩm 26
2. Nội dung điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản 27
2.1. Hoạch định chiến lược phát triển xuất bản theo định hướng xã hội chủ nghĩa 27
2.2. Quản lý Nhà nước bằng pháp luật trên các lính vực khác nhau của xuất bản 28
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 33
I. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM 33
1. Sự hình thành hoạt động quản lý Nhà nước bằng pháp luật ở Việt Nam 33
2. Pháp luật trong quản lý Nhà nước về xuất bản ở Việt Nam - Thực trạng 34
2.1. Về hoạt động lập pháp, lập quy 35
2.2. Về tổ chức và hoạt động quản lý Nhà nước 37
2.3. Hoạt động tư pháp 38
II. NHỮNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI, HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM 40
1. Về mặt lý luận 40
2. Về mặt thực tiến 42
Chương 3: ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP 44
I. HỆ THỐNG NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT BẢN 44
1. Pháp luật là phương tiện bảo đảm quyền tự do sáng tạo, công bố, phổ biến xuất bản phẩm 44
2. Pháp luật là phương tiện bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa đối với xuất bản trong điều kiện cơ chế thị trường 45
3. Pháp luật là phương tiện đảm bảo quyền bình đẳng và tự do trong hoạt động xuất bản 47
4. Pháp luật là phương tiện bảo đảm sự thống nhất trong các hoạt đông văn hoá - thông tin. 49
5. Mở rộng giao lưu quốc tế về văn hoá, phát triển xuất bản là hoà nhập vào pháp luật và thông lệ quốc tế 50
6. Đổi mới tư duy pháp lý trong quản lý nhà nước bằng pháp luật về xuất bản ở Việt Nam hiện nay 53
II. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT BẢN 55
1. Phương hướng đổi mới, và hoàn thiện pháp luật trong quản lý nhà nước về xuất bản 55
2. Các giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong quản lý Nhà nước về xuất bản 63
KẾT LUẬN 65
TẦI LIỆU THAM KHẢO 66
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động xuất bản vừa là hoạt động văn hoá, tư tưởng, vừa là hoạt động sản xuất vật chất. Nó là kết quả lao động sáng tạo của con người, là phương tiện quan trọng phản ánh đời sống tinh thần, bộ mặt văn hoá của mỗi dân tộc ở mọi thời đại. Mặt khác, từ khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp thì xuất bản không chỉ đóng vai trò phản ánh đời sống tinh thần và vật chất của con người mà còn mang tính giai cấp ngày càng rõ rệt, là nguồn lực và vũ khí sắc bén của đấu tranh giai cấp.
Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Đảng và Nhà nước ta luôn thực thi chính sách nhất quán, đặc biệt coi trọng quyền tự do, dân chủ của nhân dân, trong đó có quyền tự do xuất bản. Hiến pháp Nhà nước Việt Nam và một loạt các điều luật, hệ thống văn bản dưới luật lần lượt ra đời nhằm xây dựng một hành lang pháp lý hoàn chỉnh, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động xuất bản phát triển đúng hướng, trên nền táng luật pháp. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, hệ thống pháp luật nhiều năm tồn tại đã dần dần bộc lộ những thiếu sót, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới.
Thực tiễn đã chứng minh việc sử dụng pháp luật để điều chỉnh hoạt động xuất bản là điều chỉnh hoạt động kinh tế trong lĩnh vực văn hoá - tư tưởng, đồng thời cũng chính là điều chỉnh hoạt động văn hoá - tư tưởng trong cơ chế thị trường. Bài viết sau đây có thể phần nào khái quát về pháp luật xuất bản ở Việt Nam, một lĩnh vực hoạt động đa dạng và hết sức phong phú.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Khoa học quản lý, đặc biệt xin cảm ơn thầy giáo TS.Bùi Đức Thọ đã chỉ bảo tận tình và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề.
Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do khả năng và kinh nghiệm có hạn nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp và phê bình của các thầy cô.
Hà nội, tháng 4 năm 2008CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT XUẤT BẢN
Ở VIỆT NAM
I. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT VỀ XUẤT BẢN
1. Nhận thức chung về xuất bản
Để có những nhận thức chung và thống nhất về xuất bản, mà ở đó các quan hệ xã hội được hình thành, tạo nên đối tượng điều chỉnh của pháp luật xuất bản, phần này được trình bày khái quát từ khái niệm, đến vị trí, vai trò và đặc điểm của xuất bản.
1.1. Khái niệm
Trong quá trình tiến hoá, con người đã phát minh ra các phương tiện để phản ánh, lưu truyền các giá trị của đời sống sinh hoạt vật chất và tinh thần của mình. Sách là một phát minh kỳ diệu, trở thành phương tiện quan trọng trong các hoạt động văn hoá tinh thần của loài người.
Từ thời Cổ đại, những phát kiến về triết học, hoa học, văn học, nghệ thuật đã được con người ghi, chép trên vỏ cây (chỉ thảo, vách đá và chính trên da thịt mình, sau đó là thẻ tre, da thú, đất nung, v.v... Đó là hình thức sơ khai về sách mà con người đã sáng tạo ra. Việc ghi chép và lưu truyền trong cộng đồng các hình thức ban đầu đó của sách, đã hình thành nghề xuất bản sơ khai. Vào đầu thế kỷ thứ II sau công nguyên, tại Trung Quốc người ta đã chế tạo ra giấy, và khắc chữ trên các tấm ván gỗ để in. Tới thể kỷ XV, từ 1436 đến 1444 Johannes Gutenberg người Đức đã dùng khuôn đồng mô chế tạo ra chữ rời bằng hợp kim chì thiếc đồng, làm ra mực và in sách trên máy in bằng gỗ. Cuốn sách đầu tiên được Gutenberg in tại Mainz từ năm 1452 là cuốn Phúc âm, với số lượng 200 bản. Người ta còn gọi là cuốn Phúc âm 42 dòng, vì mỗi cột có 42 dòng. Đây là bước phát triển mới vượt bậc về in, dẫn đến một thời kỳ phát triển mới của xuất bản. Đúng như Ăngghen đã đánh giá về nghề in trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”: “Nghề in ra đời, đó là một bước ngoặt vĩ đại nhất trong tất cả các bước phát triển từ trước đến nay của thời đại chúng ta”.
Là hoạt động do con người sáng tạo ra, và chính nó phục vụ lợi ích của con người, xuất bản đã ứng dụng và phản ánh sự phát triển nhiều mặt của xã hội loài người, chính vì vậy xuất bản đã không ngừng phát triển. Từ chỗ chỉ là hoạt động của từng nhóm người có ảnh hưởng trong phạm vị hẹp, nó đã được xã hội hoá. Từ chỗ sản phẩm sách ở trình độ thô sơ, mộc mạc, tiến tới đa dạng, phong phú về hình thức, loại hình và nội dung. Sản phẩm của ngành xuất bản không chỉ có sách, mà còn bao gồm các loại hình khác đó là tranh, ảnh, bản đồ, địa đồ, khẩu hiệu, bưu ảnh v.v... Nghề làm sách từ chỗ đơn giản, thủ công qua nhiều bước phát triển, đã đạt tới trình độ tự động hoá. Lao động biên tập ở nhà xuất bản đã ứng dụng tiến bộ của công nghệ tin học, trong hoạt động sáng tạo và xử lý bản thảo, hoàn chỉnh bản mẫu để in hàng loạt. Hoạt động phổ biến, sau này gọi là phát hành sách với các cửa hàng tự chọn được quản lý bằng camera, và máy vi tính, với các loại xe chuyên dụng bán sách lưu động, bán sách đặt trước qua bưu điện, bán sách khuyến mại.
Ngày nay xuất bản đã trở thành ngành kinh tế - kỹ thuật phát triển. Bất cứ quốc gia nào cũng tận dụng khả năng của nó để nâng cao dân trí, phục vụ kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân, giao lưu văn hoá với các nước trên thế giới. Nhiều nước phát triển có những tập đoàn xuất bản - báo chí mạnh, đạt hiệu quả kinh tế cao. ở Nhật có tới 5000 nhà xuất bản, chiếm 1/200 tổng số giá trị sản phẩm của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tại Mỹ, ngành xuất bản đứng vị trí thứ 3 về tỷ lệ tăng trưởng giá trị sản phẩm.
ở Việt Nam xuất bản sách xuất hiện từ thời Cổ trung đại. Cơ sở đầu tiên của nghề xuất bản là sự ra đời của ngôn ngữ và chữ viết. Chữ Hán là thứ văn tự đầu tiên du nhập vào Việt Nam từ thời Triệu Đà (207-137 TCN). Chữ Nôm xuất hiện sau chữ Hán. Tới thế kỷ XVIII, XIX chữ Nôm phát triển cực thịnh, ở mức độ nào đó đã lấn át chữ Hán với “Truyện Kiều”, “Chinh Phụ Ngâm”, “Hịch Tây Sơn”...
Từ khoảng những năm 20 của thế kỷ XX, với sự xuất hiện của sách báo Macxit, sự nghiệp xuất bản Việt Nam chuyển sang thời kỳ mới. Xuất bản được phân chia thành nhiều khuynh hướng với những mục đích, quy mô và phương thức hoạt động khác nhau.
Hiện nay, ở Việt Nam xuất bản đã phát triển và đạt trình độ mới. Các nhà xuất bản chuyên lo việc tổ chức, hoàn chỉnh bản thảo, bản mẫu đưa in. Các nhà in lo việc tiếp nhận công nghệ mới, để thoả mãn nhu cầu về số lượng và chất lượng việc in nhân bản các ý tưởng của tác giả, của nhà xuất bản thành xuất bản phẩm. Phát hành là người chuyển tải các ý tưởng chứa đựng trong những xuất bản phẩm đến tay người sử dụng, thông qua hoạt động thương nghiệp.
Vậy xuất bản là gì?
Theo nghĩa rộng, xuất bản là hoạt động bao gồm các lĩnh vực xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm. Hoạt động xuất bản là quá trình tổ chức các nguồn lực xã hội trong việc sáng tạo tác phẩm, in nhân bản các tác phẩm, phổ biến đến nhiều người nhằm đạt hiệu quả kinh tế, chính trị và xã hội.
Hoạt động xuất bản còn là hoạt động thuộc lĩnh vực văn hoá tư tưởng, thông qua việc sản xuất, phổ biến những xuất bản phẩm đến nhiều người, không phải là hoạt động đơn thuần kinh doanh. Hoạt động xuất bản nhằm mục đích phổ biến những tác phẩm về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, công nghệ, văn học, nghệ thuật, pháp luật; giới thiệu di sản văn hoá dân tộc, tinh hoa văn hoá thế giới; nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân, mở rộng giao lưu văn hoá vớicác nước, góp phần vào sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bằng xuất bản phẩm của mình, đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoạ nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam.
Theo nghĩa hẹp, xuất bản là quá trình tổ chức việc sáng tạo, tác động vào quá trình sáng tạo của tác gải để có bản thảo tác phẩm, xử lý và hoàn chỉnh bản thảo, bản mẫu, in thành các xuất bản phẩm nhằm phục vụ nhiều người.
1.2. Vị trí của xuất bản trong đời sống xã hội
Hoạt động xuất bản vừa là hoạt động văn hoá, tư tưởng, vừa là hoạt động sản xuất vật chất. Về phương diện văn hoá tư tưởng, sách và các xuất bản phẩm do hoạt động xuất bản mang lại là sản phẩm tinh thần. Nó là kết quả lao động sáng tạo của con người, cho con người và vì con người. Các giá trị xã hội chứa đựng trong sách thể hiện và thoả mãn nhu cầu đa dạng, phong phú về nhiều mặt của đời sống xã hội. Nó là một bộ phận rất quan trọng phản ánh đời sống tinh thần, bộ mặt văn hoá của mỗi dân tộc, ở mọi thời đại. Nội dung chính trị - xã hội, pháp luật văn học - nghệ thuật, khoa học - công nghệ chứa đựng trong sách là ý tưởng của tác giả, nhà xuất bản nhằm truyền bá, bồi dưỡng và nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân, mở rộng giao lưu văn hoá với các nước. Giá trị cơ bản của sách nói riêng, xuất bản phẩm nói chung là giá trị văn hoá tinh thần, do lao động tinh thần của con người tạo ra. Mục đích chủ yếu, lý do tồn tại của nó là văn hoá, tư tưởng. ở Việt Nam, các nhà xuất bản là phương tiện, cong cụ của cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội thuộc hệ thống chính trị. Vì vậy, hoạt động xuất bản là hoạt động văn hoá, tư tưởng thuộc kiến trúc thượng tầng.
Về phương diện sản xuất vật chất, các giá trị tinh thần, do lao động tinh thần của con người mang lại chỉ trở thành sách và các xuất bản phẩm khác thông qua hoạt động sản xuất. Từ việc thừa nhận sách là sản phẩm tinh thần, trí tuệ, mọi người phải thừa nhận sách là sản phẩm vật chất, bởi nó là kết quả do lao động vật chất tạo ra. Cấu trúc của nó do chính các yếu tố vật chất tạo thành. Đó là các loại vật liệu chuyên dùng như: giấy, mực in, chỉ, thép, hồ dán, vải, ximili, caton, v.v... Thông qua quá trình sản xuất vật chất của nghề in, những vật liệu rời rạc đó cấu thành sản phẩm sách - cái “vỏ vật chất” chuyển tải nội dung tinh thần, trí tuệ của con người. Khi đã trở thành sản phẩm hoàn chỉnh và vào lưu thông, xuất bản phẩm trở thành hàng hoá. Nó mang đủ các thuộc tính của hàng hoá; chịu sự tác động của quy luật giá trị, giá cả, cung cầu, v.v... Những người mua ở đây là mua cái giá trị chứa đựng trong “cái vỏ vật chất”. Là người bán, nhà xuất bản cũng bán cái giá trị tinh thần bên trong, nhưng không chỉ thế mà còn quan tâm đến các vật liệu đã đầu tư. Vì vậy, sách là một loại hàng hoá đặc biệt xét về giá trị. Mặt khác, không phải ai cũng đọc sách và đọc bất kỳ sách nào, vì sách bao giờ cũng có đối tượng riêng. Người tiêu dùng sách, thưởng thức sách khác người tiêu dùng các sản phẩm vật chất khác ở yêu cầu có văn hoá. Tuỳ theo văn hoá cao, thấp, chuyên môn sâu, rộng của mình mà người tiêu dùng lựa chọn sách phù hợp.
Tóm lại hoạt động xuất bản là hoạt động văn hóa tinh thần có ảnh hưởng nhiều đến việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, dân trí, vì vậy nó thuộc thượng tầng kiến trúc, chịu sự chi phối của các quy luật phát triển văn hoá. Mặt khách hoạt động xuất bản là hoạt động sản xuất vật chất khác có vai trò quan trọng trong việc tạo thành, chuyển tải, nhân bản các giá trị tinh thần, trí tuệ, ý đồ của tác giả, nhà xuất bản thành xuất bản phẩm, vì vậy nó đồng thời chịu sự tác động của hệ thống quy luật kinh tế, nó thuộc hạ tầng cơ sở.
1.3. Vai trò của xuất bản
Vai trò thứ nhất: xuất bản - “bà đỡ” của các tác phẩm văn học, nghệ thuật, công trình khoa học công bố dưới hình thức xuất bản phẩm.
Các văn nghệ sĩ, nhà khoa học bằng lao động của mình đã sáng tạo ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật, công trình khoa học. Song, các thành tựu đó chỉ là những sản phẩm đơn chiếc. Việc phổ biến nó chỉ dừng lại ở phạm vi hẹp. Trong khi các tác giả muốn truyền bá ý tưởng sáng tạo của mình cho cả cộng đồng thưởng thức, áp dụng vào đời sống. Công chúng muốn được tiếp nhận nhanh và thuận tiện các giá trị chứa đựng trong các tác phẩm. Cùng với các hoạt động văn hoá khác, xuất bản đã ra đời để áp ứng yêu cầu khách quan đó của xã hội. Xuất bản phẩm nói chung, sách nói riêng là thể vật chất đã xã hội hoá các giá trị lao động của văn nghệ sĩ, trí thức từ tác phẩm của họ.
Là sản phẩm do lao động của tác giả tạo thành, các tác phẩm được xuất bản “đón rước, nâng niu”, được lao động biên tập góp phần hoàn thiện, nâng cao giá trị, các lao động chuyên môn khác tham gia vào quá trình vật chất hoá thành các loại hình xuất bản phẩm cụ thể. Vì vậy, người ta đã ví lao động biên tập -xuất bản như “bà đỡ” cho các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học và công nghệ công bố dưới hình thức xuất bản phẩm.
Vai trò thứ hai: xuất bản - Phương tiện phản ánh đời sống tinh thần của nhân loại, và mỗi quốc gia, bảo tồn và lưu truyền các sản phẩm văn hoá
Loài người từ khi sinh ra đã phải lao động và chống chọi với thiên nhiên để sinh tồn. Chính trong lao động, đấu tranh chinh phục thiên nhiên, và sau này đấu tranh giai cấp khi xã hội có giai cấp, họ đã sáng tạo ra các giá trịn tinh thần. Con người vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là chủ thể hưởng thụ các giá trị văn hoá tinh thần. Vì vậy, khi nó tới văn hoá là nói tới con người, tới việc phát huy những năng lực bản chất của con người, nhằm hoàn thiện và hướng con người tới chân, thiện, mỹ.
Văn hoá tinh thần của loài người, xét về cấu trúc là toàn bộ các giá trị do con người sáng tạo ra về khoa học, văn học, nghệ thuật, đạo đức, lối sống, pháp luật, tôn giáo, v.v... Các giá trị đó được thể hiện dưới các hình thức nhất định. Theo sự phát triển của xã hội, các hoạt động văn hoá được hình thành nhằm sản xuất, bảo toàn và lưu truyền các giá trị tinh thần.
Vai trò thứ ba: xuất bản - công cụ quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Xã hội được thay thế và chuyển tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thực chất của sự chuyển giao đó là sự thay thế lao động. Vì lao động là động lực phát triển xã hội loài người. Con người không chỉ nhận thức thế giới mà còn phải cải tạo thế giới, khó hơn hết không phải ở khám phá, nhận thức thế giới mà chính là việc cải tạo thế giới vì mục đích của con người. Muốn thế con người phải được đào tạo liên tục. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, công nghệ mới luôn luôn được chuyển giao, thay thế bởi tiến bộ không ngừng của khoa học. Việc hưng thịnh của mỗi quốc gia tuỳ thuộc rất nhiều vào nhân lực được đào tạo, vào trình độ dân trí và nhân tài.
Các quốc gia trên thế giới, đều coi trọng giáo dục và thết kế sách phù hợp nhằm nâng cao dân trí,đào tạo người lao động. Con người sau khi sinh ra một số năm đều phải tới trường để tiếp thu những tri thức phổ thông, cơ bản. Sách là người thầy, người bạn đưa con người bước qua các nấc thang kiến thức, đạt tới các trình độ chuyên môn, nghiệp vụ khác nhau. Trong số đó không ít người có học vị, chiếm lĩnh đỉnh cao của khoa học. Như vậy, nguồn nhân lực của quốc gia luôn được bổ sung, thay thế. Thế hệ người lao động sau có trình độ cao hơn thế hệ trước, bởi tri thức được làm giàu do sách mang lại.
Vai trò thứ tư: xuất bản- vũ khí đấu tranh giai cấp.
Từ khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp, xuất bản không chỉ đóng vai trò là “bà đỡ” của các sản phẩm văn hoá tinh thần, phản ánh đời sống vật chất, tinh thần của xã hội, góp phần đào tạo nguồn lực mà nó đã trở thành vũ khí sắc bén của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp.
Xuất bản đã tham gia có hiệu quả vào việc giác ngộ giai cấp vô sản về vai trò lịch sử của mình, và đã tổ chức quần chúng thực hiện sứ mệnh lịch sử đó. Khi bàn về những uỷ ban đẳng cấp ở Pơrútxi, C. Mác đã viết: “... xuất bản là chiếc đòn bẩy mạnh mẽ của văn hoá và của việc giáo dục tinh thần cho nhân dân. Xuất bản biến cuộc đấu tranh vật chất thành cuộc đấu tranh tư tưởng, cuộc đấu tranh của những nhu cầu, những nhiệt tình; cuộc đấu tranh của lý luận, lý trí và hình thái”
Ngày nay trong điều kiện tiến bộ không ngừng của khoa học và công nghệ, đã kéo theo sự phát triển không ngừng của văn hoá. Với sự đa dạng về phương thức, phương tiện, loại hình và sản phẩm văn hoá, việc phổ biến nhanh nhạy của các phương tiện thông tin đại chúng, đã làm cho không ít người băn khoăn về việc tồn vong của xuất bản. Nhưng với vai trò như trình bày trên, xuất bản vẫn sẽ tồn tại và phát triển cùng xã hội loài người. Nó sẽ tiếp nhận các tiến bộ của khoa học và công nghệ, đa dạng hoá xuất bản phẩm, đa năng hoá xuất bản phẩm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao của bạn đọc.
1.4. Đặc điểm của xuất bản
Phần này chỉ trình bày những đặc điểm cơ bản liên quan đến việc điều chỉnh của pháp luật.
Đặc điểm thứ nhất: xuất bản vừa là hoạt động văn hoá tư tưởng vừa là hoạt động kinh tế
Là một bộ phận của văn hoá, xuất bản chịu sự chi phối của các quy luật phát triển văn hoá. Lao động xuất bản trong đó trung tâm là biên tập, một loại lao động khoa học; tổ chức nghiên cứu khoa học, sáng tạo văn học, nghệ thuật. Nó là lao động chất xám. Trong tác phẩm “Lao động sáng tạo” Nhà văn M.X Goorki đã viết: “Nhà văn sáng tạo ra tác phẩm của mình không thể như người công nhân dùng đe, búa để rèn lưỡi hái, họ làm việc bằng cái đầu chứ không bằng cơ bắp”.
Xét về phương diện mục đích và hiệu quả thì xuất bản hướng tớ