Chuyên đề Thực trạng giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh tế - Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam

Các hoạt động kinh tế luôn có vai trò hết sức quan trọng, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Khi những hoạt động này diễn ra sẽ không thể tránh khỏi những mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh do nhiều nguyên nhân. Cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, số lượng các tranh chấp trong kinh doanh ngày càng tăng với mức độ ngày càng phức tạp. Vì vậy, việc giải quyết các tranh chấp phát sinh là điều cần thiết để đảm bảo một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các chủ thể kinh doanh. Để thực hiện chức năng kinh tế của mình, nhà nước ta đã ban hành Hệ thống quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Nhà nước thông qua các cơ quan chức năng hoặc các tổ chức được pháp luật thừa nhận để giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn. Hiện nay, có thể nói, Tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp quan trọng và phổ biến nhất ở Việt Nam. Trong hệ thống Tòa án nhân dân thì giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc chức năng của Tòa kinh tế, là một Toà chuyên trách thành lập theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 28/12/1993 và có hiệu lực ngày 01/07/1994. Việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại cần được thực hiện đúng đắn, kịp thời; góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự cũng như đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh và an ninh quốc gia. Đây là mối quan tâm của nhiều người trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển như hiện nay. Chính từ thực tiễn này, trong quá trình thực tập tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, tôi lựa chọn vấn đề “Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam” làm đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp.

doc112 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 9493 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh tế - Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Thực trạng giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh tế - Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của việc nghiên cứu Các hoạt động kinh tế luôn có vai trò hết sức quan trọng, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Khi những hoạt động này diễn ra sẽ không thể tránh khỏi những mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh do nhiều nguyên nhân. Cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, số lượng các tranh chấp trong kinh doanh ngày càng tăng với mức độ ngày càng phức tạp. Vì vậy, việc giải quyết các tranh chấp phát sinh là điều cần thiết để đảm bảo một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các chủ thể kinh doanh. Để thực hiện chức năng kinh tế của mình, nhà nước ta đã ban hành Hệ thống quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Nhà nước thông qua các cơ quan chức năng hoặc các tổ chức được pháp luật thừa nhận để giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn. Hiện nay, có thể nói, Tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp quan trọng và phổ biến nhất ở Việt Nam. Trong hệ thống Tòa án nhân dân thì giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc chức năng của Tòa kinh tế, là một Toà chuyên trách thành lập theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 28/12/1993 và có hiệu lực ngày 01/07/1994. Việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại cần được thực hiện đúng đắn, kịp thời; góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự cũng như đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh và an ninh quốc gia. Đây là mối quan tâm của nhiều người trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển như hiện nay. Chính từ thực tiễn này, trong quá trình thực tập tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, tôi lựa chọn vấn đề “Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam” làm đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Tình hình nghiên cứu Các hoạt động kinh doanh, thương mại trong thời kỳ hội nhập quá phong phú, đa dạng làm cho số lượng tranh chấp phát sinh trong hoạt động này ngày càng nhiều và ngày càng phức tạp. Nếu trước đây, các tranh chấp kinh doanh, thương mại thường là tranh chấp về mua bán hàng hóa và một phần về cung ứng dịch vụ; thì hiện nay, nhiều loại tranh chấp mới đã phát sinh như tranh chấp về mua bán licence, nhượng quyền thương mại, …Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển, cùng với mục tiêu lợi nhuận được đặt lên hàng đầu, hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại thu hút rất nhiều các chủ thể; và cũng chính trong mối quan hệ kinh tế này luôn tìm ẩn các nguy cơ phát sinh tranh chấp nhằm tranh giành lợi ích giữa các bên tham gia. Do đó, hiện nay các vấn đề liên quan đến tranh chấp kinh doanh, thương mại được rất nhiều người quan tâm, bao gồm cả các phương thức giải quyết tranh chấp khi nó phát sinh. Trước tình hình chung đó, sự phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Nam trong những năm trở lại đây đã kéo theo sự xuất hiện của hàng loạt các mô hình doanh nghiệp với quy mô khác nhau, hoạt động trong nhiều lĩnh lực kinh tế. Và điều này cũng làm cho các tranh chấp kinh doanh, thương mại trên địa bàn Tỉnh gia tăng trong những năm vừa qua về cả số lượng và mức độ phức tạp. Chính vì vậy, việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại phát sinh là yêu cầu cấp thiết đối với tỉnh Quảng Nam nói riêng và cả nước nói chung. Ở nước ta hiện nay, Tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại phổ biến nhất và việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại được quy định trong khá nhiều văn bản pháp lý. Theo điều 29, BLTTDS thì các tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án rất đa dạng, liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế; và văn bản pháp lý giải quyết các tranh chấp trên có thể là Bộ luật dân sự hay Luật chuyên ngành như Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Doạnh nghiệp,... Phạm vi nghiên cứu Tranh chấp kinh doanh, thương mại và giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là vấn đề rộng lớn, có thể nhìn nhận đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau. Trong phạm vi của chuyên đề tốt nghiệp, tôi chỉ giới hạn nghiên cứu về thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam. Mục đích nghiên cứu Thông qua chuyên đề, tôi muốn mô tả một “bức tranh” cụ thể về thực trạng cũng như việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam. Và với tình hình thực tiễn cùng với những kinh nghiệm, hiểu biết có được trong quá trình thực tập, tôi xin đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam. Bố cục của chuyên đề Chuyên đề trình bày các nội dung chính sau: ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung được trình bày theo 3 chương: Chương I: Pháp luật về việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án Chương II: Thực trạng giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh tế - Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam Chương III: Giải pháp và kiến nghị CHƯƠNG I PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN Tranh chấp kinh doanh, thương mại Tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh là những thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới. Khái niệm này mới được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong mấy năm gần đây cùng với sự nhường bước của khái niệm tranh chấp kinh tế - một khái niệm quen thuộc trong cơ chế kinh doanh kế hoạch hóa đã ăn sâu trong tiềm thức và tư duy pháp lý của người Việt Nam. Khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được đề cập trong Luật thương mại ngày 10/5/1997; theo văn bản này thì tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do do việc không thực hiện hoặc thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại. Nhưng thực tế, cùng với sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa sang cơ chế thị trường và sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, thì thuật ngữ tranh chấp kinh doanh, thương mại không chỉ bó hẹp là những tranh chấp như Luật thương mại 1997 đã xác định mà nó còn bao hàm nhiều loại tranh chấp khác phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế thị trường cùng với thời kỳ hội nhập như hiện nay. Nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế có chế độ sở hữu khác nhau, đã tạo điều kiện thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa nước ta phát triển. Tìm kiếm lợi nhuận trong kinh doanh không những là động lực phát triển mà còn là lý do tồn tại của hầu hết các chủ thể tham gia. Nhưng cũng chính sự đa dạng trong hoạt động kinh doanh, đầu tư cùng với quy luật cạnh tranh mà các quan hệ kinh tế ngày càng trở nên phức tạp hơn; những mâu thuẫn phát sinh ngày càng nhiều, cạnh tranh ngày càng gay gắt, khốc liệt hơn. Biểu hiện cụ thể đó là các tranh chấp kinh doanh, thương mại mà các bên không thể tự thỏa thuận được với nhau. Do đó, việc có một tổ chức giúp các bên giải quyết các mâu thuẫn phát sinh là điều quan trọng và cần thiết, để đảm bảo tâm lý và sự công bằng cho các chủ thể khi tham gia kinh doanh. Tranh chấp kinh doanh, thương mại là tranh chấp biểu hiện những mâu thuẫn hay xung đột về quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Như vậy, tranh chấp kinh doanh, thương mại có thể phát sinh trong cả quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Dù tồn tại dưới hình thức nào và bắt nguồn từ nguyên nhân khách quan hay chủ quan thì đặc trưng chung của tranh chấp kinh doanh, thương mại là luôn gắn với hoạt động kinh doanh và chủ thể tham gia chủ yếu là các cá nhân, đơn vị kinh doanh. Về bản chất, mỗi tranh chấp xét cho cùng đều phản ánh những xung đột về lợi ích kinh tế giữa các bên tham gia vào quan hệ kinh tế đó. Khoản 1 Điều 29 BLTTDS 2004 quy định rõ rằng những tranh chấp về kinh doanh thương mại là những tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Những tranh chấp đó bao gồm: mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty; các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định. Trong nền kinh tế hiện nay, nhiều doanh nghiệp được thành lập với hình thức khác nhau, trong những ngành nghề, lĩnh vực khác nhau thì việc liên kết, hợp tác thậm chí cạnh tranh với nhau cũng là điều dễ hiểu. Xung đột về quyền và lợi ích giữa các chủ thể khi tham gia kinh doanh là không thể tránh khỏi. Một số loại hình tranh chấp phổ biến hiện nay có thể kể đến là tranh chấp về hợp đồng kinh doanh, thương mại; tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty hay giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến thiết lập, giải thể công ty … Trong điều kiện kinh tế thị trường với sự đa dạng về đối tượng làm phát sinh nhiều tranh chấp mới như tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, mua bán cổ phiếu, … Một khi các tranh chấp xảy ra, có nghĩa là lợi ích kinh tế của một bên chủ thể kinh doanh đã bị vi phạm. Điều này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của chính chủ thể đó mà còn gián tiếp tác động tiêu cực đến sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. Đối với một số tranh chấp xảy ra trong nội bộ đơn vị, chẳng hạn tranh chấp về quyền quản lý và điều hành doanh nghiệp, nếu không được giải quyết kịp thời sẽ ảnh hưởng đến hoạt động chung của đơn vị đó. Trong một số trường hợp, các bên hoặc một số bên tranh chấp không quan tâm quan tâm đến lợi ích và sự phát triển của doanh nghiệp, mà vì lợi ích của mình một cách thái quá dẫn đến đình trệ sản xuất. Các bên đều cố ý can thiệp, ngăn cản hoạt động bình thường của doanh nghiệp dưới các hình thức khác nhau, gây thiệt hại thêm cho chính họ và các bên liên quan. Tranh chấp kinh doanh, thương mại phát sinh là điều tất yếu, vấn đề là phải có biện pháp giải quyết hợp lý những tranh chấp đó để giúp cho các chủ thể kinh doanh có được sự tin tưởng trong cơ chế điều hành, quản lý kinh tế của Nhà nước. Chính vì thế, việc đổi mới và hoàn thiện hệ thống giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại phù hợp với cơ chế thị trường không chỉ là đòi hỏi bức thiết của xã hội mà còn là yêu cầu để đảm bảo thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước ta. Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án Yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án Tranh chấp kinh doanh, thương mại là một hệ quả tất yếu của quá trình vận động các nguồn lực của các cá nhân, tổ chức vào hoạt động kinh doanh, thương mại. Khi tranh chấp xảy ra, các bên cần có cơ chế giải quyết tranh chấp để mở đường cho sự hợp tác và phát triển. Tòa án là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp như thế. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo nghĩa chung nhất có thể hiểu là cách thức, phương pháp hay các hoạt động để điều chỉnh các bất đồng, các xung đột, nhằm khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát sinh, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thương nhân và các chủ thể kinh doanh khác, bảo vệ trật tự kỷ cương của xã hội. Mọi công dân đều có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật (Điều 57, Hiến pháp 1992). Đó là quyền tự do trong lựa chọn hình thức tổ chức kinh tế, lựa chọn ngành nghề, quy mô và cả lựa chọn phương thức giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh. Tùy vào điều kiện kinh doanh cũng như mong muốn khác nhau của các chủ thể, họ sẽ lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhất với mình. Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì các hình thức giải quyết tranh chấp trong thương mại gồm: thương lượng, hòa giải, giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án (Điều 317, Luật Thương mại 2005). Ở Việt Nam hiện nay, các tranh chấp kinh doanh, thương mại được giải quyết bằng con đường Tòa án chiếm tỷ lệ lớn. Mặc dù giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài đã có từ khá lâu, nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều cá nhân và doanh nghiệp chưa quan tâm đến cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng như sự hiện diện của Trung tâm trọng tài thương mại. Trọng tài thương mại không phải là điều quá mới mẻ nhưng vẫn còn mờ nhạt và khá xa lạ trong vấn đề giải quyết tranh chấp ở môi trường kinh doanh của nước ta. Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực của Nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định của Tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Ở Việt Nam, tranh chấp kinh doanh, thương mại chủ yếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa kinh tế - Tòa chuyên trách trong hệ thống Tòa án nhân dân. Những nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại Tòa án là cơ quan thực thi quyền tư pháp trong bộ máy nhà nước và việc thực thi quyền lực này lại ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu và các giá trị của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam; tòa án là nơi thể hiện sâu sắc nhất bản chất của Nhà nước và nền công lý của chế độ, đồng thời thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của cả hệ thống tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Do đó, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình, Tòa án nhân dân cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc, thủ tục do luật pháp quy định để đảm bảo hiệu quả xét xử, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia, đảm bảo vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý xã hội. Xuất phát từ yêu cầu quản lý kinh tế bằng pháp luật của nhà nước ta, tòa kinh tế ra đời thực hiện chức năng xét xử các tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thương mại. Cũng như Tòa án nhân dân nói chung, Tòa kinh tế cũng áp dụng và tuân theo các nguyên tắc đã được pháp luật quy định trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Với mục đích giải quyết các tranh chấp nhanh chóng, có hiệu quả và hợp pháp, tạo điều kiện thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia; hoạt động của Tòa kinh tế cần dựa trên các nguyên tắc, thủ tục tố tụng trong giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Tất cả các hoạt động trong quá trình tố tụng như khởi kiện, xét xử, ra quyết định hay bản án, …phải được thực hiện theo đúng các nguyên tắc đã được quy định. Nếu có sự vi phạm các nguyên tắc này trong quá trình thực hiện giải quyết các tranh chấp thì đều bị coi là bất hợp pháp và phải loại bỏ. Là một bộ phận của Tòa án nhân dân, Tòa kinh tế phải tuân thủ theo các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan tòa án nói chung được quy định trong Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002. Bên cạnh đó, với tư cách là một Tòa chuyên trách độc lập trong hệ thống Tòa án nhân dân, Tòa kinh tế cũng phải tuân thủ những nguyên tắc riêng khi tiến hành giải quyết các tranh chấp thuộc thẩm quyền của mình. Một số các nguyên tắc chung được quy định cụ thể trong Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 như: nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Tòa án xét xử công khai, xét xử tập thể và quyết định theo đa số; Tòa án đảm bảo cho đương sự được dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước tòa; … Trên cơ sở các nguyên tắc chung này, thủ tục giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại được xây dựng với những đặc thù riêng của mình. Các nguyên tắc riêng mà Tòa kinh tế phải tuân thủ trong hoạt động giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại đó là: nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự; nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật; nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập chứng cứ; nguyên tắc hòa giải; nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng kịp thời; nguyên tắc xét xử công khai. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự Trong pháp luật tố tụng, quyền tự định đoạt của đương sự biểu hiện ở khả năng khi tham gia tố tụng, các đương sự tự do định đoạt các quyền, phương tiện tố tụng nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trước các xâm hại. Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 5, BLTTDS 2004. Theo đó, các đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó; trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Quyền định đoạt của đương sự được thể hiện qua nội dung của một số quyền khác như: quyền thay đổi, bổ sung hoặc rút các yêu cầu; quyền hòa giải, thương lượng; quyền đưa ra chứng cứ và chứng minh; quyền kháng cáo. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự là nguyên tắc cơ bản nhất trong tố tụng vụ án kinh doanh thương mại. Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể. Quyền tự do kinh doanh không có nghĩa là các cá nhân, tổ chức khi tham gia kinh doanh có thể làm bất cứ điều gì cho mục đích tìm kiếm lợi nhuận của mình; mà khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, các bên đều phải tuân theo những quy tắc nhất định của pháp luật. Và khi có tranh chấp xảy ra, trình tự cũng như thủ tục giải quyết phải tuân theo pháp luật. Với nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự trong quá trình tố tụng, pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc lựa chọn cách giải quyết tranh chấp cho các bên, tạo ra sự chủ động của đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp. Các chủ thể khi tham gia vào mối quan hệ kinh doanh với các đối tác của mình, không ai mong muốn tranh chấp xảy ra, gây thiệt hại cho lợi ích kinh tế của các bên. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, khi xảy ra tranh chấp, việc giải quyết tranh chấp một cách thấu tình đạt lý nhưng vẫn đảm bảo uy tín kinh doanh, không làm ảnh hưởng đến quan hệ “bạn hàng” là điều mà các bên đều mong muốn. Chính vì vậy, trong nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, quyền khởi kiện có thể coi là quan trọng nhất. Bởi lẽ, theo quy định thì Tòa án chỉ thụ lý, giải quyết các tranh chấp này nếu có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của các đương sự; nếu đương sự không khởi kiện ra tòa thì tòa án không có thẩm quyền giải quyết. Có thể thấy rằng, việc tranh chấp có được đưa ra tòa án giải quyết hau không là sự lựa chọn của các chủ thể. Trên thực tế, khi phát sinh các tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thì các bên sẽ cố gắng tự giải quyết vì như vậy sẽ tiết kiệm được khá nhiều thời gian và chi phí, đặc biệt là không ảnh hưởng đến quan hệ làm ăn cũng như uy tín của họ được bảo đảm; việc nhờ đến cơ quan luật pháp là sự lựa chọn cuối cùng nếu các bên không thống nhất được với nhau. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật là một trong những nguyên tắc pháp lý cơ bản của luật pháp nước ta. Điều 52, Hiến pháp 1992 có ghi rõ mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; còn quy định cụ thể đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế thì được ghi nhận tại Điều 22, Hiến pháp 1992. Các chủ thể khi tham gia quan hệ sản xuất kinh doanh đều được pháp luật thừa nhận quyền bình đẳng. Bình đẳng trong kinh doanh nghĩa là mọi cá nhân, tổ ch
Luận văn liên quan