1. Tính tất yếu
Xu thế toàn cầu hóa, HNKTQT và tự do hóa thương mại đang là vấn đề nổi bật của kinh tế thế giới hiện nay. Chính đặc điểm này tạo ra sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau càng cao giữa các quốc gia và khu vực. Các định chế và tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế đã được hình thành để phục vụ cho kinh tế quốc tế, tạo lập hành lang pháp lý chung và để các nước cùng tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề lớn của kinh tế thế giới mà không một quốc gia nào có thể thực hiện một cách đơn lẻ. Gia nhập WTO là cơ hội lớn và cũng là thách thức lớn đối với NCNĐT Việt Nam. CNĐT Việt Nam bên cạnh những cơ hội mới với khả năng tiếp cận thị trường rộng lớn hơn, khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ sẽ phải đối mặt với những thách thức to lớn xuất phát từ các quy định của WTO về thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ. Nâng cao năng lực cạnh tranh là giải pháp then chốt để kinh tế nói chung và CNĐT nói riêng có thể hội nhập thành công
Trong Chiến lược phát triển ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2020 đã nêu rõ, ngành công nghiệp tiếp tục giữ vai trò động lực, quyết định trong phát triển nền kinh tế, đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại với một số ngành công nghiệp chế tác tham gia vào nhóm nước đứng đầu trong khu vực. Trên cơ sở các quan điểm và mục tiêu đó, cần phát triển phù hợp cho những ngành sản xuất có hiệu quả (điện tử, điện tử-Tin học, cơ điện tử), để trở thành các ngành mũi nhọn. Bắt đầu từ những năm giữa thập niên 90, chính phủ Việt Nam đã “bắt tay” vào xây dựng một ngành công nghiệp điện tử cho Việt Nam, nhưng theo nhiều nhà nghiên cứu kinh tế thì chưa thể khẳng định là đã có ngành công nghiệp điện tử tại Việt Nam. Do hàng điện tử Việt Nam với chất lượng còn thấp và không ổn định, giá cả lại cao do đó, chưa khai thác được hết tiềm năng và thế mạnh của ngành. Trong một vài năm trở lại đây, sự phát triển của thị trường hàng điện tử Việt Nam sẽ bị tác động mạnh bởi xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại và xu thế chuyển giao công nghệ nhanh, đặc biệt là khi Việt Nam thực hiện lịch trình giảm thuế quan theo quy định của WTO đối với mặt hàng điện tử.
Xuất phát từ thực tế trên, đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam sau khi gia nhập WTO” được chọn để nghiên cứu.
2. Mục đích
Đề tài phân tích sức cạnh tranh hàng điện tử của một số nước chủ yếu trên thế giới, tổng hợp và phân tích các số liệu thống kê nhằm phác họa những nét cơ bản nhất về sức cạnh tranh của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam và cũng phân tích một cách chi tiết về những khó khăn làm cho ngành công nghiệp điện tử Việt Nam chưa nâng cao được sức cạnh tranh trên thị trường công nghiệp điện tử trong nước và thế giới.
Từ những kiến thức đã tổng hợp và phân tích, chuyên đề mạnh dạn đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao sức cạnh tranh sau khi Việt Nam gia nhập WTO của ngành công nghiệp điện tử trên thị trường.
3. Đối tượng và phạm vi
Chuyên đề tập trung phân tích giá cả, chất lượng, marketing, thực hiện quản lý tài chính, môi trường cạnh tranh ngành của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam từ những năm 1990 trở lại đây (do đây là thời kỳ ngành công nghiệp Việt Nam mà trong đó có ngành công nghiệp điện tử bắt đầu phát triển về quy mô, sản lượng và trong những năm này Việt Nam đã mở rộng quan hệ với nhiều quốc gia và khu vực lớn trên thế giới).
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lê Nin làm phương pháp nghiên cứu chủ đạo. Đồng thời đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh.
Nguồn thông tin sử dụng trong chuyên đề được thu thập chủ yếu từ các trang web của Hiệp hội Doanh nghiệp Điện tử (VEIA), Bộ Công nghiệp, Canon, Panasonic,Công ty điện tử Hà Nội, tài liệu của Hội điện tử, tin học, Hiệp hội phần mềm, Hội tin học HCM
5. Kết cấu và nội dung
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của chuyên đề được trình bày trong 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử và kinh nghiệm nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử của một số nước
Chương 2: Tình hình cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam từ 1990 đến nay
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh sản xuất ngành công nghiệp điện tử sau khi Việt Nam gia nhập WTO
112 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2291 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam sau khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính tất yếu
Xu thế toàn cầu hóa, HNKTQT và tự do hóa thương mại đang là vấn đề nổi bật của kinh tế thế giới hiện nay. Chính đặc điểm này tạo ra sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau càng cao giữa các quốc gia và khu vực. Các định chế và tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế đã được hình thành để phục vụ cho kinh tế quốc tế, tạo lập hành lang pháp lý chung và để các nước cùng tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề lớn của kinh tế thế giới mà không một quốc gia nào có thể thực hiện một cách đơn lẻ. Gia nhập WTO là cơ hội lớn và cũng là thách thức lớn đối với NCNĐT Việt Nam. CNĐT Việt Nam bên cạnh những cơ hội mới với khả năng tiếp cận thị trường rộng lớn hơn, khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ sẽ phải đối mặt với những thách thức to lớn xuất phát từ các quy định của WTO về thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ. Nâng cao năng lực cạnh tranh là giải pháp then chốt để kinh tế nói chung và CNĐT nói riêng có thể hội nhập thành công
Trong Chiến lược phát triển ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2020 đã nêu rõ, ngành công nghiệp tiếp tục giữ vai trò động lực, quyết định trong phát triển nền kinh tế, đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại với một số ngành công nghiệp chế tác tham gia vào nhóm nước đứng đầu trong khu vực. Trên cơ sở các quan điểm và mục tiêu đó, cần phát triển phù hợp cho những ngành sản xuất có hiệu quả (điện tử, điện tử-Tin học, cơ điện tử), để trở thành các ngành mũi nhọn. Bắt đầu từ những năm giữa thập niên 90, chính phủ Việt Nam đã “bắt tay” vào xây dựng một ngành công nghiệp điện tử cho Việt Nam, nhưng theo nhiều nhà nghiên cứu kinh tế thì chưa thể khẳng định là đã có ngành công nghiệp điện tử tại Việt Nam. Do hàng điện tử Việt Nam với chất lượng còn thấp và không ổn định, giá cả lại cao do đó, chưa khai thác được hết tiềm năng và thế mạnh của ngành. Trong một vài năm trở lại đây, sự phát triển của thị trường hàng điện tử Việt Nam sẽ bị tác động mạnh bởi xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại và xu thế chuyển giao công nghệ nhanh, đặc biệt là khi Việt Nam thực hiện lịch trình giảm thuế quan theo quy định của WTO đối với mặt hàng điện tử.
Xuất phát từ thực tế trên, đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam sau khi gia nhập WTO” được chọn để nghiên cứu.
2. Mục đích
Đề tài phân tích sức cạnh tranh hàng điện tử của một số nước chủ yếu trên thế giới, tổng hợp và phân tích các số liệu thống kê nhằm phác họa những nét cơ bản nhất về sức cạnh tranh của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam và cũng phân tích một cách chi tiết về những khó khăn làm cho ngành công nghiệp điện tử Việt Nam chưa nâng cao được sức cạnh tranh trên thị trường công nghiệp điện tử trong nước và thế giới.
Từ những kiến thức đã tổng hợp và phân tích, chuyên đề mạnh dạn đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao sức cạnh tranh sau khi Việt Nam gia nhập WTO của ngành công nghiệp điện tử trên thị trường.
3. Đối tượng và phạm vi
Chuyên đề tập trung phân tích giá cả, chất lượng, marketing, thực hiện quản lý tài chính, môi trường cạnh tranh ngành…của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam từ những năm 1990 trở lại đây (do đây là thời kỳ ngành công nghiệp Việt Nam mà trong đó có ngành công nghiệp điện tử bắt đầu phát triển về quy mô, sản lượng và trong những năm này Việt Nam đã mở rộng quan hệ với nhiều quốc gia và khu vực lớn trên thế giới).
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lê Nin làm phương pháp nghiên cứu chủ đạo. Đồng thời đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh.
Nguồn thông tin sử dụng trong chuyên đề được thu thập chủ yếu từ các trang web của Hiệp hội Doanh nghiệp Điện tử (VEIA), Bộ Công nghiệp, Canon, Panasonic,Công ty điện tử Hà Nội, tài liệu của Hội điện tử, tin học, Hiệp hội phần mềm, Hội tin học HCM…
5. Kết cấu và nội dung
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của chuyên đề được trình bày trong 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử và kinh nghiệm nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử của một số nước
Chương 2: Tình hình cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam từ 1990 đến nay
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh sản xuất ngành công nghiệp điện tử sau khi Việt Nam gia nhập WTO
Chương 1. Cơ sở lí luận về sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử và kinh nghiệm nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử của một số nước
1.1 Lí luận chung về cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và các khái niệm liên quan
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Về phương diện kinh tế, cạnh tranh chỉ có thể xuất hiện trong điều kiện của cơ chế thị trường, nơi mà cung cầu là cốt vật chất, giá cả là diện mạo và cạnh tranh là linh hồn sống của thị trường.
P.Samuelson cho rằng “Cạnh tranh là sự đối đầu giữa các DN cạnh tranh với nhau để giành khách hàng hoặc thị phần”.
Các học thuyết kinh tế thị trường, dù ở trường phái nào đều thừa nhận rằng, cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường, nơi mà cung - cầu và giá cả hàng hoá là những nhân tố cơ bản của thị trường, là đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường, cạnh tranh là linh hồn của sản phẩm. Cạnh tranh là một quy luật tất yếu và là động lực phát triển nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế xã hội phức tạp, do cách tiếp cận khác nhau, cho nên có các quan niệm khác nhau về cạnh tranh. Có thể dẫn ra một số quan điểm như sau:
Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt được mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận.
1.1.1.2. Các khái niệm liên quan
a. Sức cạnh tranh
Tương tự như cạnh tranh, hiện nay cũng còn nhiều luận điểm khác nhau liên quan đến sức cạnh tranh.
Sức cạnh tranh là tổng hoà các đặc tính về tiêu dùng và giá trị vượt trội của sản phẩn trên thị trường, có nghĩa là sự vượt trội của sản phẩm so với các sản phẩm cạnh tranh cùng loại trong điều kiện cung vượt cầu.
Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, sức cạnh tranh của sản phẩm là sự vượt trội của nó so với sản phẩm cùng loại do các đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị trường.
Lại có quan điểm cho rằng, sức cạnh tranh của sản phẩm chính là năng lực nắm giữ và nâng cao thị phần của loại sản phẩm do chủ thể sản xuất và cung ứng nào đó đem ra để tiêu thụ so với sản phẩm cùng loại do chủ thể sản xuất và cung ứng khác đem đến tiêu thụ ở cùng một khu vực thị trường vào thời gian nhất định.
Tuy nhiên, tất cả các định nghĩa trên đều thiếu một yếu tố cơ bản mà người tiêu dùng quan tâm nhất, đó là, tương quan giữa chất lượng và giá cả.
Với cách tiếp cận trên, sức cạnh tranh của sản phẩm có thể hiểu là sự vượt trội so với các sản phẩm cùng loại về chất lượng và giá cả với điều kiện các sản phẩm tham gia cạnh tranh đều đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng. Có nghĩa là, những sản phẩm mang lại giá trị sử dụng cao nhất trên 1 đơn vị giá cả là những sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao hơn.
b. Năng lực cạnh tranh
Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, HNKTQT, năng lực cạnh tranh là một khái niệm quan trọng để chỉ khả năng tăng trởng và phát triển của nền kinh tế hay DN trên thị trờng trong nớc và quốc tế. Bản chất của năng lực cạnh tranh là sự kết hợp chặt chẽ giữa quản lý nhà nước và điều hành doanh nghiệp để tạo ra giá trị gia tăng cao nhất trên một đơn vị đầu vào (như tiền vốn, lao động, năng lượng...).
Khái niệm năng lực cạnh tranh là một khái niệm động, được cấu thành bởi nhiều yếu tố và chịu sự tác động của cả môi trường vi mô và vĩ mô. Một sản phẩm có thể năm nay được đánh giá là có năng lực cạnh tranh, nhưng năm sau, hoặc năm sau nữa lại không còn khả năng cạnh tranh nếu không giữ được các yếu tố lợi thế.
Năng lực cạnh tranh của DN có thể được định nghĩa là năng lực tồn tại, duy trì hay gia tăng lợi nhuận, thị phần trên thị trờng cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ của DN. Có nhiều yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của DN, trong đó cần phân biệt các yếu tố ngoài DN và các yếu tố do DN chi phối.
c. Khả năng cạnh tranh
Khả năng cạnh tranh là sự năng động, khả năng đáp ứng thay đổi nhanh chóng của thị trường, năng lực sản xuất dựa trên công nghệ là nền tảng để sống còn và phát triển.
d. Chất lượng sản phẩm
Khi nêu câu hỏi “thế nào là chất lượng sản phẩm”, chất lượng thường nhận được rất nhiều câu trả lời khác nhau tùy theo đối tượng được hỏi là ai. Các câu trả lời thường thấy như:
Đó là những gì họ được thỏa mãn tương đương với số tiền họ chi trả. Đó là những gì họ muốn được thỏa mãn nhiều hơn so với số tiền họ chi trả. Sản phẩm phải đạt hoặc vượt trình độ của khu vực, hay tương đương hoặc vượt trình độ thế giới.
Một số định nghĩa về chất lượng thường gặp :
Chất lượng là mức phù hợp của sản phẩm đối với yêu cầu của người tiêu dùng. (European Organization for Quality Control). Hay chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu. (Philip B. Crosby) và chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể đó khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã nêu ra và nhu cầu tiềm ẩn. (ISO 8402) ( thực thể trong định nghĩa trên được hiểu là sản phẩm theo nghĩa rộng).
Trên thực tế, nhu cầu có thể thay đổi theo thời gian, vì thế, cần xem xét định kỳ các yêu cầu chất lượng để có thể bảo đảm lúc nào sản phẩm của DN làm ra cũng thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng.
Các nhu cầu thường được chuyển thành các đặc tính với các tiêu chuẩn nhất định. Nhu cầu có thể bao gồm tính năng sử dụng, tính dễ sử dụng, tính sẵn sàng, độ tin cậy, tính thuận tiện và dễ dàng trong sửa chữa, tính an toàn, thẩm mỹ, các tác động đến môi trường.
Các DN sản xuất hoặc mua sản phẩm để bán lại trên thị trường cho người tiêu dùng nhằm thu được lợi nhuận, vì thế, quan niệm của người tiêu dùng về chất lượng phải được nắm bắt đầy đủ và kịp thời. Dưới quan điểm của người tiêu dùng, chất lượng sản phẩm phải thể hiện các khía cạnh sau :
Chất lượng sản phẩm là tập hợp các chỉ tiêu, các đặc trưng thể hiện tính năng kỹ thuật hay tính hữu dụng của nó. Chất lượng sản phẩm được thể hiện cùng với chi phí. Người tiêu dùng không chấp nhận mua một sản phẩm với bất kỳ giá nào. Chất lượng sản phẩm phải được gắn liền với điều kiện tiêu dùng cụ thể của từng người, từng địa phương. Phong tục, tập quán của một cộng đồng có thể phủ định hoàn toàn những thứ mà thông thường người ta xem là có chất lượng. Chất lượng sản phẩm có thể được hiểu như sau : Chất lượng sản phẩm là tổng hợp những chỉ tiêu, những đặc trưng của sản phẩm thể hiện mức thỏa mãn những nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định.
Một cách tổng quát, có thể hiểu chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu. Sự phù hợp nầy phải được thể hiện trên cả 3 phương diện, có thể gọi tóm tắt là 3P, đó là : Performance hay Perfectibility : hiệu năng, khả năng hoàn thiện, Price : giá thỏa mãn nhu cầu, Punctuallity : đúng thời điểm.
f. Giá trị sử dụng (tính hữu dụng của sản phẩm)
Khi muốn tung một sản phẩm mới vào thị trường, trước hết nhà sản xuất phải hoạch định trình độ chất lượng, dự kiến mức chất lượng, tiên đoán chất lượng kinh tế của sản phẩm. Sau đó sản xuất thử và thử nghiệm trên thương trường. Khi đã biết khá chính xác hệ số hiệu quả sử dụng của sản phẩm có khả năng cạnh tranh và nằm trong phạm vi chất lượng tối ưu, các nhà sản xuất mới tiến hành sản xuất hàng loạt sản phẩm đó. Mặt khác, khi mua một sản phẩm,người tiêu dùng bao giờ cũng quan tâm đến lợi ích hay tính hữu dụng, hay giá trị sử dụng mà họ mong muốn thu được khi sử dụng sản phẩm
Theo Karl Mark, công dụng của một vật làm cho vật đó trở thành một giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng của sản phẩm phụ thuộc vào công dụng của nó, nhưng chính công dụng lại phụ thuộc vào nhu cầu xã hội. Nếu không có nhu cầu về một giá trị sử dụng thì mặc dù sản phẩm có công dụng cũng không có giá trị sử dụng. Giới hạn của giá trị sử dụng chính là nhu cầu tồn tại về nó.
Ngày nay, có thể nhận thức thuộc tính công dụng không phải là yếu tố duy nhất tạo nên giá trị sử dụng của sản phẩm. Khi người tiêu dùng mua hàng hóa, thực chất họ muốn mua cái gì đó hơn là chính bản thân sản phẩm.
Theo P.A.Samuelson: “Giá trị sử dụng là một khái niệm trừu tượng để chỉ tính thích thú chủ quan, tính hữu ích hoặc một sự thỏa mãn do tiêu dùng hàng hóa mà có.” Giá trị sử dụng là sự cảm nhận của một cá nhân về sự thỏa mãn nhu cầu và sự thích thú của mình thông qua việc sử dụng một sản phẩm vật chất hay một dịch vụ.
Giá trị sử dụng của sản phẩm phụ thuộc vào:
Thuộc tính công dụng của sản phẩm, được tạo ra bởi chất thể của sản phẩm, do đặc tính kỹ thuật của sản phẩm qui định. Thuộc tính công dụng được gọi là phần cứng của sản phẩm.
Thuộc tính được thụ cảm bởi người tiêu dùng, là những gì mà người tiêu dùng cảm thấy có nơi sản phẩm, được tạo ra nhờ dịch vụ bán và sau khi bán. Thuộc tính được thụ cảm bởi người tiêu dùng được gọi là phần mềm của sản phẩm. Nhiều khi người tiêu dùng mua sản phẩm không đơn thuần vì những đặc tính kỹ thuật và khả năng phục vụ của sản phẩm mà có thể vì nó làm cho người mua có cảm giác sang trọng phù hợp với địa vị xã hội của họ hay một cảm giác nào đó mang lại cho khách hàng sự thích thú nào đó của riêng họ.
Thực tế kinh doanh cho thấy thuộc tính được thụ cảm bởi người tiêu dùng là một bộ phận quan trọng cấu thành nên giá trị sử dụng của sản phẩm và là yếu tố phải đặc biệt chú ý khi đưa sản phẩm của mình tham gia thị trường.
Giá trị sử dụng của sản phẩm còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như lượng hàng cung so với cầu, sức mua, ý muốn sẳn sàng mua...Nếu cung nhỏ hơn cầu, phần mềm của sản phẩm tăng lên. Các nhà đầu cơ thường lợi dụng cách nầy để tăng giá sản phẩm trong thị thị trường độc quyền để thu lợi bất chính. Nếu cung lớn hơn cầu, phần mềm của sản phẩm giảm đi, đồng thời giá trị sử dụng cũng giảm theo.
Tóm lại :
Công dụng của sản phẩm + sự thích thú, sự thụ cảm của người tiêu dùng
/ Giá trị sử dụng của sản phẩm
Các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm nói lên khả năng có thể thỏa mãn nhu cầu của sản phẩm trong khi đó giá trị sử dụng của sản phẩm chính là mức cụ thể đáp ứng nhu cầu trong tiêu dùng.
Qua các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm có thể nhận biết được: Công dụng cơ bản của sản phẩm, các đặc điểm về kết cấu hình dáng, kích thước, điều kiện sử dụng, các thông số kỹ thuật của sản phẩm, các chỉ tiêu kinh tế của sản phẩm.
Trong khi đó, các thuộc tính của sản phẩm (cả phần cứng và phần mềm) cho biết: Lĩnh vực đại thể các nhu cầu được thỏa mãn, lĩnh vực cụ thể và mức cụ thể các nhu cầu được thỏa mãn, các thuộc tính của sản phẩm được thụ cảm bởi người tiêu dùng , chi phí để thỏa mãn nhu cầu, người tiêu dùng lúc nào cũng mong muốn đạt được lợi ích (giá trị sử dụng) tối đa với chi phí bỏ ra tối thiểu.
1.1.2. Các điều kiện cơ bản cho hoạt động cạnh tranh
Nhu cầu về lợi nhuận là động lực nảy sinh và thúc đẩy cạnh tranh: Những năm gần đây, do lợi nhuận cao và do tầm chiến lược của CNĐT đối với nền kinh tế, nhiều nước đã đổ xô vào phát triển CNĐT, dẫn đến khủng hoảng thừa các sản phẩm điện tử thông dụng. Tuy nhiên, về lâu dài thị trường hàng điện tử thế giới vẫn rộng mở không ngừng cho các sản phẩm công nghệ cao, hiện đại, có những tính năng mới, nổi trội, thông minh.
Kinh tế thị trường tạo môi trường cho hoạt động cạnh tranh. Việc chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các DN, các tổ chức và cá nhân kinh doanh phải thích ứng với quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường, trong đó có yếu tố cạnh tranh. Cạnh tranh là động lực thúc đẩy phát triển nền kinh tế và cũng là cơ sở quan trọng đảm bảo tự do kinh doanh hợp pháp và mang lại lợi ích thiết thực cho người tiêu dùng. Cạnh tranh trong nội ngành dẫn đến lợi nhuận bình quân ngành. Cạnh tranh giữa các ngành khác nhau sẽ dẫn tới sự thay đổi mặt bằng giá của nền kinh tế đó. Trong điều kiện hội nhập, cạnh tranh giữa các ngành khác nhau của các quốc gia khác nhau cũng dẫn đến mặt bằng giá khác nhau theo các thời kỳ căn cứ vào năng suất lao động của thời kỳ đó. Do đó giá cả liên quan rất chặt chẽ đến năng suất lao động và cạnh tranh
Sự can thiệp hợp lí của nhà nước nhằm đảm bảo cho hoạt động cạnh tranh có hiệu quả. Hiện tại, Luật cạnh tranh là khuôn khổ pháp lý cao nhất điều chỉnh về cạnh tranh thương mại tại Việt Nam.
1.1.3. Năng lực cạnh tranh và các cấp độ của năng lực cạnh tranh
1.1.3.1. Năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh (hay sức cạnh tranh được sử dụng với nghĩa như nhau trong đề tài). Thuật ngữ về năng lực cạnh tranh tuy được sử dụng rộng rãi nhưng vẫn chưa có một khái niệm rõ ràng hay cách thức đo lường năng lực cạnh tranh cả ở cấp quốc gia, cấp ngành, DN và ở cấp sản phẩm.
Sức cạnh tranh là tổng hoà các đặc tính về tiêu dùng và giá trị vượt trội của sản phẩn trên thị trường, có nghĩa là sự vượt trội của sản phẩm so với các sản phẩm cạnh tranh cùng loại trong điều kiện cung vượt cầu.
Theo quan điểm tân cổ điển dựa trên lí thuyết thương mại truyền thống, năng lực cạnh tranh của ngành được xem xét được xem xét qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng xuất. Hiệu quả của các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh được đánh giá dựa trên chi phí thấp. Chi phí sản xuất thấp không chỉ là điều kiện cơ bản của lợi thế cạnh tranh mà còn đóng góp tích cực vào nền kinh tế.
Lý thuyết tài chính CN xem xét năng lực cạnh tranh của ngành dựa trên khả năng sản xuất ra sản phẩm ở một mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không có sự tự cấp, đảm bảo cho ngành đứng vững trước các đối thủ khác hay sản phẩm thay thế.
Theo quan điểm tổng hợp của Van Duren, Martin và Westgren thì năng lực canh tranh là khả năng tạo ra, duy trì lợi nhuận và thị phần trên thị trường trong và ngoài nước. Các chỉ số đánh giá là năng suất lao động, tổng năng suất của các yếu tố sản xuất, công nghệ, chi phí cho nghiên cứu và phát triển, chất lượng và tính khác biệt của sản phẩm.
1.1.3.2. Các cấp độ cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh có thể phân ra làm 4 cấp độ, năng lực cạnh tranh ở 4 cấp dộ này có liên quan mật thiết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét và đánh giá, đề ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành, cần có mối liên quan chung mật thiết của 4 cấp độ năng lực cạnh tranh này.
Năng lực cạnh tranh cấp quốc gia:
Năng lực cạnh tranh quốc gia gồm một hệ thống chỉ số - cũng còn gọi là chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp (GCI) được WEF công bố lần đầu tiên trong Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2004-2005. Các chỉ số này được phân làm chín nhóm, còn được gọi là chín trụ cột thể hiện năng suất và năng lực cạnh tranh quốc gia. Chín trụ cột đó gồm: (1) thể chế, (2) kết cấu hạ tầng, (3) kinh tế vĩ mô, (4) y tế và giáo dục cơ bản, (5) đào tạo và giáo dục bậc cao, (6) hiệu quả thị trường, (7) mức độ sẵn sàng về công nghệ, (8) trình độ kinh doanh, (9) đổi mới và sáng tạo.
Theo công bố của WEF, báo cáo tách các nước thành ba giai đoạn phát triển: ở giai đoạn phát triển thứ nhất, năng lực cạnh tranh của các nước phụ thuộc vào bốn trụ cột đầu tiên là thể chế, kết cấu hạ tầng, kinh tế vĩ mô và giáo dục cơ bản, giai đoạn tiếp theo tính đến ba trụ cột là đào tạo và giáo dục bậc cao, hiệu quả thị trường và mức độ sẵn sàng về công nghệ, đến giai đoạn phát triển cao nhất gồm hai trụ cột là trình độ kinh doanh và đổi mới và sáng tạo. Tầm quan trọng của từng yếu tố (trụ cột) lại phụ thuộc vào mỗi giai đoạn phát triển của mỗi nước.
Bảng 1.1: Xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên tổng số 125 quốc gia
Năm
Xếp hạng
2004
61
2005
74
2006
77
Nguồn: Trang web Bộ Công nghiệp
Năm 2006, VN tụt ba hạng so với năm 2005, trong đó, trình độ đổi mới và sáng tạo tụt 18 hạng, hiệu quả thị trường