Nông nghiệp là ngành sản xuất hiện chiếm trên 23% GDP trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân Việt Nam. Đối với nhiều địa phương giá trị gia tăng của ngành nông nghiệp tạo ra chiếm trên 50% GDP tính theo lãnh thổ. Lực lượng lao động trong nông nghiệp ở nước ta chiếm trên 2/3 trong tổn số. Những con số đã nêu phần nào nói lên vai trò của ngành nông nghiệp. Vì vậy nông nghiệp nông thôn dược Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng. Nông nghiệp nông thôn là mặt trận kinh tế trọng yếu, là cơ sở để phát triển công nghiệp, dịch vụ, là thị trường rộng lớn của công nghiệp, nguồn cung cấp nguyên liệu, lao động cho công nghiệp và các nghành nghề khác.
Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội Việt Nam từ trước đến nay là tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để bước vào thế kỷ XXI một cách thuận lợi. Đặc biệt trong lần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X chúng ta đã đưa ra mục tiêu: Đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Nước ta với nền kinh tế kém phát triển, chủ yếu dựa vào nông nghiệp thì việc thực hiện mục tiêu đề ra là khó khăn nhưng không phải là không thực hiện được. Đó là trong nền kinh tế chúng ta cần phải có được các yếu tố nội sinh bởi vì các yếu tố này quyết định đến quá trình tăng trưởng kinh tế. Các yếu tố nội sinh trên được hình thành từ các loại hình đầu tư bổ trợ mà đặc biệt là đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Một hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển mạnh sẽ tạo cơ sở vật chất cho việc thực hiện đường lối, chính sách phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Chính phủ.
Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển châu thổ sông Hồng, có diện tích đất nông nghiệp lớn, địa hình bằng phẳng thuận lợi cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp. Hơn nữa TháI Bình là tỉnh có truyền thống về sản xuất nông nghiệp, người dân nơI đây có kinh nghiệm về thâm canh lúa nước từ lâu đời. Vì vậy việc đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn được Đảng bộ và các cơ quan, ban ngành của tỉnh hết sức coi trọng. Đặc biệt là đầu tư cho việc phát triển cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp nông thôn. Tỉnh TháI Bình đã thực hiện hàng loạt các cơ chế chính sách để thu hút và nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên việc thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn của Tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn và hạn chế do nhiều yếu tố tác động. Trong quá trình thực tập và nghiên cứu tài liệu tại “Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp Hà Nội” tôi đã quyết định chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp về đầu tư và sử dụng vốn cho cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn Thái Bình”. Đề tàI bao gồm 3 phần:
Chương I: Cơ sở lý luận về đầu tư vốn cho cơ sở hajk tầng kỹ thuật nông nghiệp nông thôn
Chương II: Thực trạng đầu tư và sử dụng vốn cho cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn TháI Bình
Chương III: Định hướng và giảI pháp thu hút, sử dụng hiệu quả vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp nông thôn TháI Bình.
76 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2303 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp về đầu tư và sử dụng vốn cho cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Nông nghiệp là ngành sản xuất hiện chiếm trên 23% GDP trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân Việt Nam. Đối với nhiều địa phương giá trị gia tăng của ngành nông nghiệp tạo ra chiếm trên 50% GDP tính theo lãnh thổ. Lực lượng lao động trong nông nghiệp ở nước ta chiếm trên 2/3 trong tổn số. Những con số đã nêu phần nào nói lên vai trò của ngành nông nghiệp. Vì vậy nông nghiệp nông thôn dược Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng. Nông nghiệp nông thôn là mặt trận kinh tế trọng yếu, là cơ sở để phát triển công nghiệp, dịch vụ, là thị trường rộng lớn của công nghiệp, nguồn cung cấp nguyên liệu, lao động cho công nghiệp và các nghành nghề khác.
Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội Việt Nam từ trước đến nay là tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để bước vào thế kỷ XXI một cách thuận lợi. Đặc biệt trong lần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X chúng ta đã đưa ra mục tiêu: Đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Nước ta với nền kinh tế kém phát triển, chủ yếu dựa vào nông nghiệp thì việc thực hiện mục tiêu đề ra là khó khăn nhưng không phải là không thực hiện được. Đó là trong nền kinh tế chúng ta cần phải có được các yếu tố nội sinh bởi vì các yếu tố này quyết định đến quá trình tăng trưởng kinh tế. Các yếu tố nội sinh trên được hình thành từ các loại hình đầu tư bổ trợ mà đặc biệt là đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Một hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển mạnh sẽ tạo cơ sở vật chất cho việc thực hiện đường lối, chính sách phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Chính phủ.
Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển châu thổ sông Hồng, có diện tích đất nông nghiệp lớn, địa hình bằng phẳng thuận lợi cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp. Hơn nữa TháI Bình là tỉnh có truyền thống về sản xuất nông nghiệp, người dân nơI đây có kinh nghiệm về thâm canh lúa nước từ lâu đời. Vì vậy việc đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn được Đảng bộ và các cơ quan, ban ngành của tỉnh hết sức coi trọng. Đặc biệt là đầu tư cho việc phát triển cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp nông thôn. Tỉnh TháI Bình đã thực hiện hàng loạt các cơ chế chính sách để thu hút và nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên việc thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn của Tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn và hạn chế do nhiều yếu tố tác động. Trong quá trình thực tập và nghiên cứu tài liệu tại “Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp Hà Nội” tôi đã quyết định chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp về đầu tư và sử dụng vốn cho cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn Thái Bình”. Đề tàI bao gồm 3 phần:
Chương I: Cơ sở lý luận về đầu tư vốn cho cơ sở hajk tầng kỹ thuật nông nghiệp nông thôn
Chương II: Thực trạng đầu tư và sử dụng vốn cho cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn TháI Bình
Chương III: Định hướng và giảI pháp thu hút, sử dụng hiệu quả vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp nông thôn TháI Bình.
Được sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Trần Quốc Khánh và các cán bộ Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp Hà Nội. Tuy nhiên, do thời gian, kinh nghiệm và trình độ có hạn bài viết không tránh khỏi thiếu sót về nội dung và phương pháp thể hiện. Vậy kính mong thày cô, các bạn đánh giá và góp ý để bản chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ VỐN CHO CƠ SỞ HẠ TẦNG KỸ THUẬT NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN
1. Khái niệm về đầu tư
Trong lĩnh vực sản xuất vật chất nói chung, hoạt động kinh tế bao giờ cũng gắn liền với việc sử dụng tiền vốn và các nguồn tài nguyên khác nhằm đem lại lợi ích kinh tế xã hội nhất định. Trong nền kinh tế quốc dân, phạm vi một địa phương, một vùng kinh tế, đầu tư là một lĩnh vực hoạt động để tạo ra hoặc đổi mới và duy trì hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật thuộc các ngành kinh tế quốc dân nhằm khai thác đầy đủ và hiệu quả các nguồn tài nguyên của đất nước.
Theo nghĩa chung nhất thì đầu tư được hiểu là sự bỏ ra, sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai.
2 Khái niệm, đặc điểm của đầu tư vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật
2.1 Khái niệm
Như ta đã biết muốn tiến hành bất kỳ một hoạt động sản xuất nào, thì chúng ta phải có đầy đủ các yếu tố đầu vào hay còn gọi là tư liệu sản xuất. Nếu thiếu một trong các yếu tố đó thì quá trình sản xuất là không thể diễn ra được, các yếu tố đều được lượng hoá giá trị bằng tiền, tổng số tiền được , lượng hoá này người ta gọi là vốn. Như vậy, vốn là biểu hiện bằng tiền của tư liệu sản xuất của nghành, của doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh ,...
Xuất phát từ đặc điểm kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội của nông thôn đó là : kết cấu hạ tầng được hình thành, được sử dụng vì mục đích phát triển kinh tế – xã hội ở nông thôn, giúp cho các hoạt động kinh tế – xã hội nhanh hơn. Kết cấu hạ tầng là công ttình mang tính chất công cộng vì vậy nó phục vụ tất cả mọi người. Trước đây, sự phát triển hạ tầng ở nông thôn được tiến hành trên quan hệ hiện vật, trực tiếp của kinh tế tự cung tự cấp, bằng các nguồn lực là sức lao động và nguồn vật liệu tại chỗ, dân còn tham gia tiến hành xây dựng hạ tầng cho mình. Sự xuất hiện của quan hệ tín dụng trong việc phát triển kết cấu hạ tầng thể hiện tính chất của sự phát triển, và có vai trò đáng kể trong việc cung cấp các nguồn lực tài chính để phát triển hạ tầng nông thôn. Các nguồn vốn đầu tư cho xây dựng hạ tầng ở nông thôn là khá đa dạng nó bao gồm nhiều nguồn khác nhau gộp lại. Các nguồn vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng gồm có : Công nợ do ngân sách cấp trên hỗ trợ, qũy hợp tác xã nông nghiệp, đi vay của ngân hàng, vay dân, nợ bên B, tiền cấp bán đất công ích, huy động các nguồn lực trong dân, quỹ hỗ trợ phát triển của các tổ chức trong nước cũng như của các tổ chức quốc tế.
2.2 Đặc điểm của vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật
Để đầu tư vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn mang lại hiệu quả kinh tế cao, cần phải hiểu rõ đặc điểm của vốn đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng. Do đặc điểm của kết cấu hạ tầng nên vốn, huy động vốn, cũng như hoạt động của vốn có đặc điểm riêng :
- Xuất phát từ đặc điểm của kết cấu hạ tầng, như tính hệ thống cao, tính tiên phong định hướng, tính xã hội, tính công cộng cao ... nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay thì đây là một lĩnh vực đầu tư đòi hỏi một lượng vốn rất lớn, và thời hạn dài. Kết cấu hạ tầng nông thôn thường là các công trình có thời hạn sử dụng dài, có thể dùng cho nhiều thế hệ, ví như : đường giao thông, hệ thống điện, hệ thống thuỷ lợi, có khối lượng xây dựng rất lớn và bản thân nó đòi hỏi nhiều công trình liên quan. Do đó kinh phí cho xây dựng, vận hành, sửa chữa, tu bổ, bảo dưỡng đòi hỏi vốn lớn và thời hạn hoàn vốn dài. Tuy nhiên lượng vốn trong nội bộ của nghành thì ít, hơn nữa sức thu hút từ nghành khác, lĩnh vực khác của nền kinh tế quốc dân là rất kém. Vì vậy, nguồn vốn đầu tư qua ngân sách, nguồn vốn tín dụng có ý nghĩa hết sức to lớn .
- Vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng có khả năng sinh lời thấp và có độ rủi ro cao, thời gian thu hồi vốn lâu. Thực tế cho thấy kết cấu hạ tầng là lĩnh vực mà sản phẩm của nó mang tính công ích mà giá cả của nó thường bị nhà nước điều tiết, khống chế : phạm vi tiêu dùng của nó rất rộng, chi phối nhiều hoạt động của nền kinh tế – xã hội. Do đó đây là lĩnh vực có khả năng sinh lời thấp, không có khả năng thu hồi vốn, hay nói cách khác là độ rủi ro cao
- Hiệu quả vốn đàu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật được thể hiện qua kết quả phục vụ của nó đối với các ngành, các lĩnh vực
Các công trình đầu tư trong lĩnh vực thuỷ lợi những năm trước đây, nhất là thời kỳ 1996 – 2000 và 2001 - 2005 đã cơ bản hệ thống thuỷ lợi. Nó góp phần nâng cao và ổn định năng suất cây trồng tạo điều kiện cho 11 năm liền tỉnh ta liên tiếp được mùa.
10 năm qua, bộ mặt của nông thôn ngày càng được đổi mới, các công trình hạ tầng cơ sở và nhà ở nhân dân ngày càng được khang trang, đường xá sạch sẽ hơn nhiều so với những năm trước đây.
Khu vực đô thị, thị xã, thị trấn đã có bước phát triển nhanh về cơ sở hạ tầng và công trình phúc lợi công cộng, vệ sinh nước sạch môi trường ngày càng được quan tâm.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được về đầu tư nói trên, tình hình đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn tại Thái Bình vẫn còn những vướng mắc, khó khăn còn tồn tại. Nó đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp phát triển kinh tế tỉnh.
3. Các loại vốn và khả năng khai thác cho đầu tư kết cấu hạ tầng nông thôn
3.1. Vốn ngân sách nhà nước
Vốn ngân sách nhà nước là một nguồn vốn có vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Trước đây, khi còn cơ chế tập chung thì đây là nguồn vốn chiếm tỉ trọng lớn và giữ vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển. Thậm chí có rất nhiều dự án và công trình nguồn vốn này chiếm toàn bộ. Bước sang nền kinh tế thị trường với sự đa dạng hoá các loại hình kinh tế, khuyến khích tất cả các cá nhân và tổ chức có tư cách pháp nhân tham gia vào quá trình đầu tư phát triển, làm cho nguồn vốn đầu tư ngày càng đa dạng hơn, nguồn vốn ngân sách theo xu hướng đó cũng ngày càng giảm đi so với cơ cấu tổng vốn đầu tư. Tuy nhiên, đối với đầu tư kết cấu hạ tầng nông thôn thì nguồn vốn ngân sách nhà nước vẫn chiếm vị trí quan trọng, là loại vốn mồi để thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển.
3.2 Vốn huy động từ các nguồn lực trong dân.
Đây là một giải pháp huy động nguồn vốn truyền thống được áp dụng trước thời kỳ đổi mới và đến nay vẫn được áp dụng. Nhìn tổng quát nguồn vốn huy động trong dân gồm ba loại lớn sau, a.mọi khoản đóng góp, dưới các hình thức khác nhau cho nông nghiệp bao gồm : thuế các loại, các loại phí, nghĩa vụ công dân, các khoản đóng góp vào các quỹ xã hội, b.ngoài các khoản đóng góp của dân do nhà nước thu, dân nông thôn còn đóng góp vào xây dựng hạ tầng ở nông thôn và cho một số hoạt động công cộng ở thôn xóm.c.đặc biệt ở một số nơi hợp tác xã tồn tại thì người dân phải đóng góp nhiều khoản cho hợp tác xã. có thể nói những khoản đóng góp mang lại tác động tích cực cho phát triển hạ tầng ở nông thôn, cho những hoạt động công cộng ở thôn xóm và của xã, cũng như góp công sức vào hình thành nền tài chính công của cả nước
Bảng 1:TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ CỦA HUYỆN HẢI HẬU
CHO XD CƠ SỞ HẠ TẦNG
(Đơn vị :triệu đồng)
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1.Làm đường
-
266
481
10.347
11.322
8.476
2.trường học
415
345
626
4.114
3.833
2.500
3.Trạm xá
-
70
50
211
65
124
4.Điện
20
380
-
314
1.208
800
5.Nghĩa trang LS
-
-
413
750
1.500
1.800
6.Nhà trẻ
-
-
-
-
-
800
Tổng số
435
1.061
1.269
15.736
17.240
14.500
Xét tổng thể thì nguồn vốn huy động trong dân trong thời qua để phát triển hạ tầng nông thôn là nằm trong khuôn khổ nguồn lực tài chính của nền kinh tế và xã hội chậm phát triển.Đây là một nguồn vốn tại chỗ để xây dựng các cơ sở hạ tầng tại chỗ. Tuy nhiên, nguồn vốn này hiện nay giảm đi đáng kể trong đó chiếm 30% ở một đôi xã, đạt khoảng 50% tổng kinh phí đầu tư. Hơn thế nữa nguồn vốn này chỉ được huy động có hiệu quả đối với những xã có năng lực kinh tế của xã là trung bình hoặc khá, năng lực cộng đồng, năng lực quản lý của cấp xã là khá. Điều này đã được chứng minh qua thực tế một số huyện như Hải Hậu – Nam Định, với vốn đầu tư xây dựng thời kỳ 1992-1997 có tới 93,1% là vốn huy động từ các nguồn lực trong dân. thế nhưng nguồn vốn này chỉ chủ yếu đối với những công trình hạ tầng ở cấp độ thấp, quy mô nhỏ và kinh phí ít, xây dựng chủ yếu bằng lao động thủ công và vật liệu tại chỗ. Có thể nói, trong quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay thì nguồn vốn này cũng có một vai trò nhất định. Nhưng mặt khác, nguồn vốn này xuất phát từ các khoản đóng góp nên đã xuất hiện những mặt trái, mặt tiêu cực.
Điều đáng lưu ý là, trong khi kinh tế của dân nông thôn eo hẹp, năng lực chuyển đổi kinh tế của từng hộ quá thấp, một bộ phận lớn dân lâm vào cảnh khó khăn, trong đó một số nơi rơi vào bần cùng, người dân lại phải đóng góp quá nhiều làm giảm sức dân và gây khó khăn rất lớn cho người dân. Vì vậy. nguồn vốn này không còn là nguồn vốn chủ yếu, mang tính chủ đạo và quyết định, khả năng khai thác nguồn vốn này nói chung là không nhiều, tập chung xây dựng hạ tầng tại chỗ, như đường xá trong thôn xóm, giao thông nội đồng, nạo vét kênh mương, xây dựng lại hệ thống thuỷ nông và đồng ruộng cho phù hợp với sự phát triển mới của nông nghiệp hàng hoá, thâm canh và chuyên canh.
3.3 Nguồn vốn từ quỹ đất công ích.
Trong thực tế, đây là một nguồn vốn quan trọng hiện nay để phát triển hạ tầng nông thôn, nguồn vốn này được hình thành từ bán đất công ích . Số tiền bán đất công ích thu được đã trở thành một nguồn tài chính quan trọng cho xã đầu tư xây dựng hạ tầng, và có xã tiền bán đất chiếm từ 30 – 50% tổng kinh phí xây dựng hạ tầng trong xã, nhiều công trình lớn như làm đường điện, đường giao thông trong xã, xây dựng trường học, trụ sở, hội trường của uỷ ban xã, 100% kinh phí từ tiền bán đất. Nguồn vốn thu được từ bán đất công ích đã trở thành một nguồn vốn quan trọng, nếu không muốn nói là quyết định trong việc tạo ra nguồn tài chính công cho đầu tư phát triển hạ tầng. Nếu không có đất công ích, các xã vùng đồng bằng bắc bộ, khu bốn cũ và duyên hải miền trung đã khó khăn gấp bội trong cân đối ngân sách của xã, và không thể có được hệ tầng như đã thấy. Nói khác đi, thông qua hệ quan hệ thị trường, vốn từ quỹ đất công đã trở thành một nguồn lực tài chính quyết định đối với sự phát triển hạ tầng ở cấp xã. Nhờ nguồn vốn này mà chính quyền xã đã có nguồn tài chính để vận hành bộ máy của mình và thực hiện chức năng phát triển hạ tầng nông thôn. tuy nhiên có một thực tế, ở những vùng có quỹ đất công ích, thông qua cách sử dụng theo quy định của luật đất đai, đã không tạo ra được một nguồn lực tài chính công cho các xã cho xây dựng hạ tầng. Số tiền thu được từ việc cho thuê đất công vào sản xuất nông nghiệp như quy định của luật đất đai, trên thực tế các xã dùng vào việc chi tiêu cho các mục đích thường xuyên. nói cách khác, nguồn vốn này trên thực tế là chưa thể hiện được vai trò đặc biệt của mình đối với phát triển hạ tầng ở nông thôn thời gian vừa qua. Và câu hỏi đặt ra là. trong thời gian tới đóng góp của nguồn vốn này đối với hạ tầng nông thôn ở mức độ nào.
Thứ nhất xét về mặt pháp lý, việc bán đất công là trái với luật ruộng đất, là phạm pháp. về nguyên tắc việc bán đất như vậy là không thể chấp nhận được. Tuy nhiên cũng phải đặt ra một câu hỏi là : nếu không có nguồn vốn từ quỹ đất công thì tình hình cơ sở hạ tầng nông thôn sẽ ra sao? Đỉều rõ ràng sẽ là không có được một trạng thái phát triển hạ tầng ở cấp xã mà chúng ta thấy. Các xã sẽ lâm vào tình trạng khó khăn, không có nguồn vốn cần thiết để phát triển hạ tầng. Suy cho cùng, đây là một giải pháp đã có hiệu quả nhất định trong thời gian qua nhưng nó không phù hợp với nền kinh tế thị trường. Do vậy, khả năng khai thác nguồn vốn từ quỹ đất công là không nhiều.
Thứ hai, xét về quy mô của quỹ đất công ích. Quỹ đất ngày càng giảm đi do dân cư nông thôn tăng tuyệt đối còn khá cao kèm theo việc tách hộ còn khá mạnh. Sự gia tăng dân số và hình thành hộ mới đã tạo ra nhu cầu lớn về đất ở. Hơn nữa, thời gian qua cùng với quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh và chuyển đổi kinh tế đã tạo ra một nhu cầu lớn về đất. Tất cả những vấn đề trên làm cho quỹ đất công giảm đi nhiều. Trong thời gian tới quỹ đất công ích dự trữ không còn nhiều nên nguồn từ đây cũng hạn chế.
Thứ ba, xét về sự phân bố quỹ đất công ích. Thực tế không phải địa phương nào cũng có quỹ đất công ích lớn. Dẫn đến kết quả nguồn vốn về quỹđất công ích có quy mô khác nhau. Chính vì vậy, nguồn vốn này đối với mỗi nơi có vị trí khác nhau trong phát triển hạ tầng nông thôn
3.4 Nguồn vốn từ hoạt động đầu tư kinh doanh.
Từ khi nước ta chuyển sang nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa. Kết cấu hạ tầng nông thôn, cụ thể là dịch vụ công cộng ở nông thôn cũng là một lĩnh vực đầu tư kinh doanh. Người đầu tư kinh doanh có thể là nhà nước, cũng có thể là nhà đầu tư tư nhân, kể cả nước ngoài, còn người được hưởng thụ hạ tầng công cộng và những dịch vụ là người dan nông thôn. Trong điều kiện hiện nay, nguồn vốn này có vai trò hết sức quan trọng, phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế – xã hộ vì dựa trên quan hệ mua bán. thật vậy, bằng cách mua hàng hoá và dịch vụ công cộng, người dân tránh được việc đóng góp ban đầu nặng nề. Mặt khác, việc trả tiền cho những hàng hoá và dịch vụ đó khiến cho người dân có ý thức, trách nhiệm trong việc sử dụng tiết kiệm hàng hoá và dịch vụ công cộng. Điều quyết định hơn, đặt lĩnh vực hạ tầng về hàng hoá và dịch vụ công cộng vào một quá trình vận hành trong tiến trình tái sản xuất thường xuyên các nguồn vốn, để nhờ đó, thường xuyên tái sản xuất mở rộng bản thân thị trường. Đây là điểm tiến bộ quy định phương thức thị trường. Trong khi đó với phương thức truyền thống, hạ tầng bị đặt trong một quá trình không có đời sống kinh tế, sau khi hạ tầng được xây dựng, nếu hư hỏng không có nguồn kinh phí để tu bổ, sữa chữa tái tạo lại.
Nguồn vốn này có vai trò vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, thực tế hiện nay nguồn vốn này chưa phổ biến đối với phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn. một số nơi đã có chủ tư nhân đầu tư làm hệ thống đường điện vào xóm. Nhưng bên cạnh đó còn có những hệ thống điện chắp vá, làm không đúng quy trình, kỹ thuật nên chất lượng rất kém, gây tổn thất điện lớn, không an toàn, có sự cố, và nhất là không phù hợp với yêu cầu phát triển sản xuất, phát triển kinh doanh. Có thực tế như vậy là do lĩnh vực đầu tư kết cấu hạ tầng nông thôn là chưa thực sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Những nhà đầu tư có khả năng kinh tế cũng như khả năng chuyên môn thì không muốn đầu tư vào lĩnh vực này do mức sinh lợi thấp. Thực tế hiện nay đầu tư vào lĩnh vực này chủ yếu là những nhà đầu tư có nguồn vốn không lớn cũng như khả năng về chuyên môn hạn chế. Chính vì vậy dẫn đến hiện trạng đầu tư như trên. Hơn thế nữa, nguồn vốn này chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực, những loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ như điện, nước sạch, y tế, khám chữa bệnh, và ở một chừng mực nhất định là giáo dục...
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên. trong thời gian tới đây là một nguồn vốn sẽ giữ vai trò chủ chốt và quan trọng. chỉ có điều khả năng khai thác nguồn vốn này vẫn còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Vì vậy, để kết cấu hạ tầng nông thôn thực sự là một lĩnh vực hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, chúng ta cần có những chính sách, giải pháp để tạo động lực phát triển mới cho nông thôn, bằng cách nâng cao đời sống của người dân nông thôn từ đó nâng cao mức hưởng thụ các dịch vụ hàng hoá mà kết cấu hạ tầng mang lại.
3.5 Nguồn vốn tín dụng.
Trong thời gian vừa qua, nguồn vốn tín dụng đã xuất hiện khá phổ biến. đóng góp khá đắc lực vào phát triển hạ tầng ở nông thôn. Đây là một điểm đáng chú ý trong phát triển hạ tầng trong thời gian qua. Sự xuất hiện nguồn vốn này trong phát triển hạ tầng, thể hiện tích chất thị trường của sự phát triển và có một vai trò đáng kể trong việc cung cấp nguồn tài chính để phát triển hạ tầng ở nông thôn. Thực tế cho thấy ở tỉnh nam bộ nguồn vốn đi vay lên tới trên 10% tổng thu ngân sách, lớn hơn số tiền do ngân sách cấp trên hỗ trợ. ở một số huyện, nguồn đầu tư cho xây dựng hạ tầng nông thôn, lại dựa một phần lớn vào nguồn vốn đi vay. Có thể nói nguồn vốn tín dụng đã trở thành một cơ sở của việc phát triển hạ tầng trong thời gian qua ở nông thôn. tuy nhiên, nguồn vốn này trên thực tế là nguồn vốn vay dân và các chủ thể kinh tế khác với lãi suất khá cao, có khi tới 6% một tháng, hoặc vay qua một chủ thể có tính chất pháp nhân trong việc vay vốn ngân hàng. Đây là một nguồn vốn tạo ra gánh nặng tài chính cho xã.
Trong thực tế, nếu phát triển hạ tầng ở nông thôn qua nguồn vốn tín dụng thì những bê bối, bức xúc trong phát triển hạ tầng vừa qua sẽ được loại đi căn bản vì việc sử dụng ngu