Chuyên đề Tìm hiểu và so sánh hai trƣờng phái triết học nho gia và đạo gia

Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất trên thế giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ đại trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học. Có thể nói, văn minh Trung Hoa là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Bên cạnh những phát minh, phát kiến về khoa học, văn minh Trung Hoa còn là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế giớ0i. Trong số các học thuyết triết học lớn đó phải kể đến trường phái triết học Nho gia và Đạo gia. Ngày nay, chúng ta thường nghe nói “nước có quốc pháp, nhà có gia phong” là những câu nói răn dạy để giáo dục con người Việt Nam sống có phép tắc, khuôn mẫu đạo đức nhất định, đồng thời còn là biểu tưởng tự hào về truyền thống văn hoá dân tộc, là nguyên khí tinh thần độc lập, từ cường của một dân tộc, là bản sắc riêng về truyền thống văn hoá. Tìm hiểu về triết học Nho gia và Đạo gia và ảnh hưởng của nó đến đời sống xã hội Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc vận dụng vào thực tiễn nhất là trong văn hóa ứng xử trong đời sống xã hội cũng như trong kinh doanh trong bối cảnh hội nhập kinh tế của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Từ những ý nghĩa lý luận cũng như ý nghĩa thực tiễn to lớn của triết học Nho gia và Đạo gia, em đã ra đề tài: “ Tìm hiểu và so sánh hai trường phái triết học Nho gia và Đạo gia”.

pdf39 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3333 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tìm hiểu và so sánh hai trƣờng phái triết học nho gia và đạo gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP  CHUYÊN ĐỀ TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU VÀ SO SÁNH HAI TRƢỜNG PHÁI TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ ĐẠO GIA GVHD : TS. BÙI VĂN MƢA HVTH : LÊ THỊ TỐ QUYÊN MSHV : 55 Nhóm : 6 LỚP : K22_ NGÀY 4 TP. HỒ CHÍ MINH, 12/2012 Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa LỜI MỞ ĐẦU  1. Lí do chọn đề tài: Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất trên thế giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ đại trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học. Có thể nói, văn minh Trung Hoa là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Bên cạnh những phát minh, phát kiến về khoa học, văn minh Trung Hoa còn là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế giớ0i. Trong số các học thuyết triết học lớn đó phải kể đến trường phái triết học Nho gia và Đạo gia. Ngày nay, chúng ta thường nghe nói “nước có quốc pháp, nhà có gia phong” là những câu nói răn dạy để giáo dục con người Việt Nam sống có phép tắc, khuôn mẫu đạo đức nhất định, đồng thời còn là biểu tưởng tự hào về truyền thống văn hoá dân tộc, là nguyên khí tinh thần độc lập, từ cường của một dân tộc, là bản sắc riêng về truyền thống văn hoá. Tìm hiểu về triết học Nho gia và Đạo gia và ảnh hưởng của nó đến đời sống xã hội Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc vận dụng vào thực tiễn nhất là trong văn hóa ứng xử trong đời sống xã hội cũng như trong kinh doanh trong bối cảnh hội nhập kinh tế của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Từ những ý nghĩa lý luận cũng như ý nghĩa thực tiễn to lớn của triết học Nho gia và Đạo gia, em đã ra đề tài: “ Tìm hiểu và so sánh hai trường phái triết học Nho gia và Đạo gia”. 2. Giới thiệu kết cấu chuyên đề tiểu luận Chương 1: Trường phái triết học Nho Gia Chương 2: Trường phái triết học Đạo Gia Chương 3: So sánh hai dòng tư tưởng Nho gia và Đạo gia HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4 Trang - 2 - Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa CHƢƠNG 1: TRƢỜNG PHÁI TRIẾT HỌC NHO GIA 1.1 Những tiền đề cơ bản của Nho gia Nho giáo xuất hiện ở Trung Quốc vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên dưới thời Xuân Thu do Khổng Tử (551 - 479 TCN) sáng lập. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, Nho giáo ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện hơn ở những khía cạnh, mức độ khác nhau Ra đời trong bối cảnh xã hội Trung Quốc bước vào thời kỳ chuyển giao từ hình thái chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến kiểu Phương Đông nên Nho giáo thời kỳ này chịu ảnh hưởng của sự biến đổi sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.Giống như các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, là một học thuyết chính trị xã hội nên Nho giáo nảy sinh và tồn tại trên một cơ sở hạ tầng, một tồn tại xã hội nhất định. Trên lĩnh vực kinh tế: Thời Xuân Thu, nền kinh tế Trung Quốc có sự chuyển biến từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Việc sử dụng đồ sắt trong sản xuất đã đem lại những bước tiến mới cho sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp. Trong sản xuất thủ công nghiệp cũng đạt được nhiều thành tựu thúc đẩy một loạt các ngành nghề thủ công nghiệp ra đời và phát triển như luyện sắt, rèn, đúc… Trên cơ sở phát triển sản xuất thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng đạt được nhiều thành tựu. Sự ra đời của tiền tệ đã thúc đẩy các ngành thương nghiệp cùng nhiều trung tâm buôn bán trao đổi hàng hoá được mở rộng hơn. Thành thị xuất hiện và trở thành một cơ sở kinh tế độc lập. Lúc này, trong xã hội hình thành tầng lớp quý tộc mới có thế lực, tranh giành quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ. Vì vậy mà nhu cầu cho con em quý tộc học hành và thi đỗ ra làm quan đã trở nên phổ biến. Đây chính là tiền đề cho việc dạy học và đề cao giáo dục đạo đức nhằm duy trì và ổn định trật tự xã hội. Trên lĩnh vực xã hội: Cuối Xuân Thu đầu Chiến Quốc, xã hội Trung Quốc đang bước dần sang chế độ phong kiến sơ kỳ nên Tông pháp của nhà Chu không còn được coi trọng như trước. Các nước Chư hầu nổi lên, thôn tính lẫn nhau lấn át nhà Chu. Mâu thuẫn trong giai cấp thống trị ngày càng trở nên gay gắt dẫn tới tình trạng trật tự lễ, nghĩa, cương thường bị đảo lộn, các quan hệ đạo đức suy đồi "Chư hầu lấn quyền HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4 Trang - 3 - Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa thiên tử, đại phu lấn quyền chư hầu, tôi giết vua, con giết cha, trật tự xã hội rối loạn"[35;4]. Trong bối cảnh loạn lạc đó một vấn đề lớn đặt ra: cách tổ chức và quản lý xã hội theo mô hình nhà Chu không còn phù hợp nữa. Và vấn đề là làm thế nào để thiết lập lại trật tự, kỷ cương đưa xã hội vào thế ổn định để phát triển. Chính trong thời đại lịch sử với những biến động, rối ren như trên đã làm nảy sinh một loạt các nhà tư tưởng, các trường phái triết học khác nhau. Tất cả đều đứng trên lập trường của giai cấp mình để tranh luận, phê phán lẫn nhau về một biện pháp khắc phục tình trạng "vô đạo" của xã hội đương thời. Lịch sử gọi đây là thời kỳ "Bách gia tranh minh", "Bách gia chư tử" (trăm nhà trăm thày). Trong đó, xuất hiện nhiều nhà tư tưởng, nhiều hệ thống, trường phái triết học như Nho giáo, Đạo giáo, Mặc gia, Pháp gia… 1.2 Những quan điểm triết học cơ bản của Nho gia 1.2.1 Những quan điểm về giáo dục – con người của Nho gia được thể hiện ở những tư tưởng chủ yếu sau: Tư tưởng giáo dục được coi là một trong những nội dung cơ bản của Nho giáo và nó được xem như một thành tố gắn liền với tư tưởng chính trị, xã hội, đạo đức.. Trong quan niệm của các nhà nho, xã hội lý tưởng chỉ có thể thực hiện được khi mọi người được giáo dục, giáo hoá và có đạo đức. "Giáo dục cũng là một trong những biện pháp chính trị để xây dựng một xã hội ổn định, thái bình, thịnh trị, có trật tự kỷ cương và tạo ra mẫu người lý tưởng" [3; 41]. Muốn cho Nho giáo có thể thấm sâu đến mọi tầng lớp trong xã hội thì không có con đường nào khác ngoài việc truyền bá tư tưởng qua con đường giáo dục cùng với sự thịnh trị của chế độ phong kiến, Nho giáo ngày càng khẳng định vị trí của mình trong xã hội. Nhờ đó, giáo dục Nho giáo cũng được đẩy mạnh để tuyển lựa những người trung thành với bộ máy cai trị, góp phần vào sự phát triển của chế độ phong kiến. * Quan niệm của Nho giáo về tính người và vai trò của giáo dục Nho giáo trong việc thay đổi bản tính con người.Vấn đề tính người là một trong những nội dung cơ bản của Nho giáo. Nó không chỉ gắn bó, liên quan tới vấn đề nguồn gốc, bản chất con người mà còn đặt cơ sở, nền tảng cho các nhà Nho giáo đề xuất tư tưởng giáo dục của HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4 Trang - 4 - Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa mình. Đây được xem như phương thức hữu hiệu nhất để đưa xã hội từ loạn lạc về thái bình, thịnh trị.Người đầu tiên đề cập tới vấn đề bản tính con người trong phái Nho giáo là Khổng Tử. Trong sách Luận ngữ, có tới 3 lần ông nhắc tới chữ "tính" luận về tính ông nói "Bản tính người ta gần đều giống nhau, nhưng chịu ảnh hưởng khác nhau mà xa nhau" [14; 614]. Theo Khổng Tử, tính của con người khi mới sinh ra là hoàn toàn trong trắng, ngây thơ, tự nhiên, chưa bị thay đổi bởi hoàn cảnh bên ngoài. Vì cái bản tính ấy có được do trời nên mọi người đều có bản tính giống nhau. Nhưng trong quá trình học tập, tiếp xúc, do sự tác động của các yếu tố bên ngoài nên bản tính của con người có thể bị thay đổi. Điều đó làm cho mọi người trở nên khác nhau."Người ta sinh ra vốn ngay thẳng, kẻ cong vạy mà vẫn còn sống chẳng qua nhờ may mắn thoát chết" [14; 332]. Khổng Tử còn khẳng định rằng để giữ được bản tính lành trong mỗi con người thì họ phải được giáo dục, giáo hoá. Mặc dù, chưa bàn nhiều đến vấn đề "tính người" song những tư tưởng, những quan niệm của Khổng Tử đưa ra có ý nghĩa to lớn với các nhà nho sau này. Tiếp thu và kế thừa quan điểm của Khổng Tử, Mạnh Tử cho rằng: "Bản tính người ta vốn thiện cũng như nước chảy xuống thấp vậy" [14; 1193]. Ở đây, Mạnh Tử giải thích về tính người thiên về khía cạnh những giá trị xã hội. Con người ta sinh ra vốn đã thiện đó là điểm phân biệt giữa con người với loài cầm thú. Con người sở dĩ trở thành bất thiện là do vật dục sai khiến, do hoàn cảnh tác động. Tư tưởng này là sự kế thừa và phát triển tư tưởng "tính người" của Khổng Tử. Mạnh Tử cũng đề cao vai trò của giáo dục, giáo hoá trong việc tu dưỡng bản tính thiện của con người. Đối lập với quan niệm của Mạnh Tử, Tuân Tử khẳng định: bản tính con người là ác, thiện là do con người làm ra. Tuân Tử xuất phát từ việc nhìn nhận con người từ bản năng tự nhiên khác với Mạnh Tử xuất phát từ nhìn nhận, xem xét con người từ phương diện đạo đức, xã hội. Tuy coi bản tính con người là ác nhưng Tuân Tử cho rằng có thể uốn nắn được cái bản tính ấy nhờ giáo hoá, giáo dục mà phương thức tốt nhất để loại trừ nó là học tập, rèn luyện. Quan niệm về bản tính con người của Tuân Tử và Mạnh Tử có sự đối lập, trái ngược nhau song đều thống nhất ở chỗ: Có thể giáo hoá giáo dục để hướng con người tới điều thiện. Tuy nhiên, trong học thuyết của mình cả hai ông đều chưa nhận thấy được con người là thực thể thống nhất giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Ngoài những quan niệm trên thì con người phải kể đến HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4 Trang - 5 - Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa thuyết tính người của Cáo Tử "Bản tính của con người ta như nước chảy… không phân biệt thiện với bất thiện" [14; 1193]. Trong tư tưởng của Cáo Tử, tính người của con người không thiện cũng không ác nhưng nó có thể thay đổi tuỳ theo sự tác động của hoàn cảnh xã hội và việc giáo dục tu dưỡng của mỗi con người. Mặc dù có sự khác nhau trong quan niệm về bản tính vốn có của con người nhưng các nhà Nho đều khẳng định rằng: Bản tính của con người không phải nhất thành bất biến mà có thể thay đổi thông qua sự tác động của giáo dục, hoàn cảnh. Phương thức tốt nhất để giữ được tính thiện, loại trừ tính ác là con người luôn suy nghĩ và hành động theo điều thiện, tu dưỡng, rèn luyện bằng nhân, lễ, nghĩa, trí,tín. Đó là điều có thể lý giải tại sao Nho giáo lại coi trọng giáo dục, đề cao giáo hoá và coi đây là công cụ cai trị. Mục đích của giáo dục: Nhằm đào tạo ra lớp người đáp ứng yêu cầu của giai cấp thống trị, bảo vệ đặc quyền lợi của giai cấp phong kiến, duy trì, ổn định trật tự xã hội. Quan trọng hơn, giáo dục Nho giáo có mục đích đào tạo ra những bậc quân tử là những con người mẫu mực có tài trí, đạo đức đem hiểu biết của mình áp dụng vào cuộc sống và cai trị thiên hạn . Ngoài ra giáo dục Nho giáo còn giáo dục đạo lý làm người cho dân chúng để họ tuân theo những quy định phép tắc của lễ giáo phong kiến, khuyên họ an phận thủ thường sống theo đúng danh phận của mình. Tóm lại, tất cả đều nhằm mục đích đưa xã hội từ loạn lạc trở về thái bình thịnh trị để củng cố, bảo vệ quyền lợi địa vị của giai cấp phong kiến. Mục đích của giáo dục Nho giáo không nằm ngoài mục tiêu chính trị. Đối tượng của giáo dục: Trong Luận ngữ Khổng Tử nói "hữu giáo vô loại" tức là giáo dục không phân biệt kẻ sang người hèn, kẻ cao người thấp. Nho giáo không chỉ coi tầng lớp quý tộc, thống trị là đối tượng của giáo dục mà người dân bình thường cũng là đối tượng của giáo dục, giáo hoá. Nhưng thực tế thì không phải mọi người dân đều là đối tượng của giáo dục, giáo hoá. Bởi vì thứ nhất, trong xã hội phong kiến thì người dân không phải ai cũng có điều kiện để học tập, đặc biệt là người nghèo khổ. Thứ hai, một mặt ông chủ trương “hữu giáo vô loại” nhưng mặt khác, ở chỗ khác thì đối với người nông dân, những người hèn kém về mặt đạo đức thì ông lại áp dụng chính sách ngu dân. Đặc biệt, Nho giáo không tính đến vai trò của người phụ nữ và kẻ tiểu nhân trong việc giáo dục, giáo hoá. . Mạnh Tử cho rằng không phải mọi người dân đều là đối tượng của giáo dục. Theo ông, điểm khác nhau HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4 Trang - 6 - Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa giữa con người và con vật chính là ở tứ thiện tâm: Trắc ẩn, tu ố, cung kính, thị phi. Ở kẻ tiểu nhân thì ngay từ khi lọt lòng mẹ đã mất đi những điều này. Tức là trong quan niệm của Mạnh Tử thì kẻ tiểu nhân không thể là đối tượng của giáo dục. Tuân Tử thì cho rằng kẻ tiểu nhân ngay từ khi sinh ra mãi mãi là kẻ tàn bạo, gian ác thèm muốn của cải mà không biết tu dưỡng rèn luyện và họ không phải là đối tượng của giáo dục. Từ thời Hán trở đi, các nhà Nho cũng có cùng một quan niệm cho rằng thứ dân, kẻ tiểu nhân không phải là đối tượng của giáo dục và cho dù có được học hành thì dưới con mắt của các nhà Nho, người cầm quyền, thì họ cũng chỉ là những kẻ hạ ngu "không nghe theo giáo hoá" khinh nhờn lời dạy của thánh nhân. Như vậy, xét về đối tượng giáo dục, Nho giáo thể hiện tính chất bất bình đẳng, tính chất giai cấp rõ rệt. Chứng tỏ, trong xã hội, mà giai cấp bóc lột là kẻ thống trị thì không có nền giáo dục bình đẳng không phải ai cũng được học hành. Nội dung của giáo dục Nho giáo:không nằm ngoài Tứ Thư, Ngũ Kinh và những lời dạy của bậc thánh hiền tức là không ngoài những nguyên lý đạo đức cơ bản của Tam cương, Ngũ thường. Trong nội dung giáo dục của mình, Nho giáo còn đề cao việc giáo dục đạo trị nước" cho con người. Nho giáo còn chủ trương dùng hình, pháp và luật để giáo hoá, giáo dục nhưng mục đích cuối cùng vẫn là duy trì trật tự xã hội bảo vệ lợi ích giai cấp phong kiến. Nhìn chung, nội dung giáo dục là sát với vấn đề thực tế nhưng hạn chế lớn hất là chưa bao giờ dạy cho con người những tri thức về tự nhiên, khoa học tự nhiên, lao động sản xuất. Vì vậy đã đào tạo ra những con người thuần tuý sách vở chỉ biết nghe theo lời dạy của thánh hiền mà mất đi khả năng chủ động, sáng tạo trong lĩnh vực sản xuất, thụ động trước những biến đổi của thời cuộc. Phương pháp giáo dục: thứ nhất Nho giáo đề cao phương pháp nêu gương trong giáo dục. Thứ hai là phương pháp "ôn cố nhi tri tân" (ôn cũ biết mới). Thứ ba là phương pháp phân loại học trò. Phương pháp thứ tư mà Nho giáo chú trọng đến là phương pháp "gợi mở vấn đề". Thứ năm là phương pháp học đi đôi với hành. Nho giáo còn đưa ra nguyên tắc cho cả người dạy và người học "học không biết chán, dạy không biết mỏi". Mặc dù có nhiều điểm tiến bộ và tích cực song xét một cách tổng thể quan niệm về nội dung, mục đích, đối tượng, phương pháp giáo dục của Nho giáo không tránh khỏi những hạn chế do hoàn cảnh xã hội quy định. Với tất cả những gì đã làm HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4 Trang - 7 - Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa thì giáo dục Nho giáo được đánh giá cao và có ảnh hưởng tới giáo dục Việt Nam nói riêng, xã hội phong kiến nói chung và cho tới ngày nay 1.2.2 Những quan điểm về chính trị- đạo đức của Nho gia được thể hiện ở những tư tưởng chủ yếu sau: Thứ nhất: Xã hội là một tổng thể những quan hệ xã hội giữa con người với con người nhưng Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan hệ nền tảng của xã hội, đề cao vai trò của những quan hệ ấy và thâu tóm những quan hệ này vào ba rường mối chủ đạo (gọi là tam cương). Trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua- tôi, cha- con và chồng- vợ. Nếu xếp theo “tôn ty trên- dưới” thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua- cha- chồng xếp ở hàng làm chủ. ”..Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho gia. Để giải quyết đúng đắn các quan hệ xã hội, mà trước hết là mối quan hệ “tam cương”, Khổng Tử đã đề cao tư tưởng “chính danh”. Để thực hiện chính danh, Khổng Tử đặc biệt coi trọng “Nhân trị” chức không phải “pháp trị Thứ hai: Xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến, một xã hội đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh. Lý tưởng của Nho gia là xây dựng một “xã hội đại đồng”. Đó là một xã hội có trật tự trên dưới, có vua sáng- tôi hiền, cha từ- con thảo, trong ấm- ngoài êm; trên cơ sở địa vị và thân phận của mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân.Có thể nói đó là lý tưởng của tầng lớp quý tộc, thị tộc cũ cũng như của giai cấp địa chủ phong kiến đang lớn lên. Đối với quan hệ vua tôi, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua theo huyết thống và chủ trương “thượng hiền” không phân biệt đẳng cấp xuất thân của người ấy. Trong việc chính trị vua phải biết “trọng dụng người hiền đức, tài cán và rộng lượng với những kẻ cộng sự...”. Trong việc trị nước cũng như tu thân, học đạo sửa mình để đạt được đức nhân, “lế” được Khổng Tử rất mực chú trọng. Lễ ở đây là những quy phạm nguyên tắc đạo đức. Ông cho rằng do vua không giữ đúng đạo vua, cha không giữ đúng đạo cha, con không giữ đúng đạo con... nên thiên hạ vô đạo. Phải dùng lễ để khôi phục lại chính danh. Về đạo cha con, Khổng Tử cho rằng con đối với cha phải lấy chữ hiếu làm đầu và cha HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4 Trang - 8 - Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa đối với con phải lấy lòng tự ái làm trọng. Trong đạo hiếu của con đối với cha mẹ, dù rất nhiều mặt, nhưng cốt lõi phải ở tâm thành kính. “Đời nay hễ thấy ai nuôi được cha mẹ thì người ta khen là có hiếu. Nhưng loài thú vật như chó, ngựa người ta cũng nuôi được vậy. Cho nên, nuôi cha mẹ mà chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật đâu.” Còn Mạnh Tử, ông kịch liệt lên án những ông vua không lấy điều nhân nghĩa làm gốc, chỉ vui thú lợi lộc riêng, tà dâm bạo ngược, dùng sức mạnh để đàn áp dân; ông gọi đó là “bá đạo” và thường tỏ thái độ khinh miệt: “kẻ hại nhân là tặc, kẻ hại nghĩa là tàn”.Người tàn tặc là một kẻ thất phu. Nghe nói giết tên Trụ, chứ chưa nghe nói giết vua Trụ. Thứ ba: Nho giáo lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã hội lý tưởng “đại đồng”. Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã hội, cho nên, nền giáo dục dục Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức con người. Trong bảng giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là “Nhân”. Những chuẩn mực khác như: Lễ, nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu...đều là những biểu hiện của Nhân. Chữ Nhân trong triết học Nho gia được Khổng Tử đề cập với ý nghĩa sâu rộng nhất. Nó được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản, quy định bản tính con người và những quan hệ giữa người với người từ trong gia tộc đến xã hội. Nó liên quan đến các phạm trù đạo đức chính trị khác như một hệ thống triết lý chặt chẽ, nhất quán tạo thành bản săc riêng trong triết lý nhân sinh của ông. Theo ông, đạo sống của con người là phải “trung dung”, “trung thứ” nghĩa là sống đúng với mình và sống phải với người. Xã hội thời xuân thu là thời kỳ đang trải qua những biến động lịch sử sâu sắc, Khổng Tử đã chủ trương dùng nhân đức để giáo hoá con người, cải tạo xã hội. Người có đức nhân là người làm được năm điều trong thiên hạ “cung, khoan, tín mẫu, huệ”. Cung thì không khinh nhờn, khoan thì được lòng người, tín thì người tin cậy, mẫu thì có công, huệ thì đủ khiếnđược người. Người có nhân theo Khổng Tử là người “trước làm những điều khó, sau đó mới nghĩ tới thu hoạch hết quả” Như vậy nhân là đức tính hoàn thiện, là cái gốc đạo đức của con người, nên “nhân” chính là đạo làm người. Đạo làm người hết sức phức tạp, phong phú nhưng chung quy lại chỉ là những điều sống với mình và sống với người. là “mình muốn lập thân thì HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4 Trang - 9 - Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa cũng giúp người lập thân, mình muốn mình thành đạt thì cũng giúp người thành đạt” , “việc gì mình không muốn chớ đem cho người”. Người muốn đạt đức nhân phải là người có “trí” và “dũng”. Nhờ có trí, con người mới có sự sáng suốt, minh mẫn để hiểu biết đạo lý, xét đoán được sự việc, phân biệt được phải t
Luận văn liên quan