Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất trên
thế giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ đại trong lịch sử
trên nhiều lĩnh vực khoa học. Có thể nói, văn minh Trung Hoa là một trong những cái
nôi của văn minh nhân loại. Bên cạnh những phát minh, phát kiến về khoa học, văn
minh Trung Hoa còn là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng
đến nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế giớ0i.
Trong số các học thuyết triết học lớn đó phải kể đến trường phái triết học Nho gia
và Đạo gia. Ngày nay, chúng ta thường nghe nói “nước có quốc pháp, nhà có gia
phong” là những câu nói răn dạy để giáo dục con người Việt Nam sống có phép tắc,
khuôn mẫu đạo đức nhất định, đồng thời còn là biểu tưởng tự hào về truyền thống văn
hoá dân tộc, là nguyên khí tinh thần độc lập, từ cường của một dân tộc, là bản sắc
riêng về truyền thống văn hoá.
Tìm hiểu về triết học Nho gia và Đạo gia và ảnh hưởng của nó đến đời sống xã hội
Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc vận dụng vào thực tiễn nhất là
trong văn hóa ứng xử trong đời sống xã hội cũng như trong kinh doanh trong bối cảnh
hội nhập kinh tế của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Từ những ý nghĩa lý luận cũng như ý nghĩa thực tiễn to lớn của triết học Nho gia
và Đạo gia, em đã ra đề tài: “ Tìm hiểu và so sánh hai trường phái triết học Nho gia
và Đạo gia”.
39 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3374 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tìm hiểu và so sánh hai trƣờng phái triết học nho gia và đạo gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
CHUYÊN ĐỀ TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI:
TÌM HIỂU VÀ SO SÁNH HAI TRƢỜNG PHÁI TRIẾT
HỌC NHO GIA VÀ ĐẠO GIA
GVHD : TS. BÙI VĂN MƢA
HVTH : LÊ THỊ TỐ QUYÊN
MSHV : 55
Nhóm : 6
LỚP : K22_ NGÀY 4
TP. HỒ CHÍ MINH, 12/2012
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất trên
thế giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ đại trong lịch sử
trên nhiều lĩnh vực khoa học. Có thể nói, văn minh Trung Hoa là một trong những cái
nôi của văn minh nhân loại. Bên cạnh những phát minh, phát kiến về khoa học, văn
minh Trung Hoa còn là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng
đến nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế giớ0i.
Trong số các học thuyết triết học lớn đó phải kể đến trường phái triết học Nho gia
và Đạo gia. Ngày nay, chúng ta thường nghe nói “nước có quốc pháp, nhà có gia
phong” là những câu nói răn dạy để giáo dục con người Việt Nam sống có phép tắc,
khuôn mẫu đạo đức nhất định, đồng thời còn là biểu tưởng tự hào về truyền thống văn
hoá dân tộc, là nguyên khí tinh thần độc lập, từ cường của một dân tộc, là bản sắc
riêng về truyền thống văn hoá.
Tìm hiểu về triết học Nho gia và Đạo gia và ảnh hưởng của nó đến đời sống xã hội
Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc vận dụng vào thực tiễn nhất là
trong văn hóa ứng xử trong đời sống xã hội cũng như trong kinh doanh trong bối cảnh
hội nhập kinh tế của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Từ những ý nghĩa lý luận cũng như ý nghĩa thực tiễn to lớn của triết học Nho gia
và Đạo gia, em đã ra đề tài: “ Tìm hiểu và so sánh hai trường phái triết học Nho gia
và Đạo gia”.
2. Giới thiệu kết cấu chuyên đề tiểu luận
Chương 1: Trường phái triết học Nho Gia
Chương 2: Trường phái triết học Đạo Gia
Chương 3: So sánh hai dòng tư tưởng Nho gia và Đạo gia
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 2 -
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƢƠNG 1: TRƢỜNG PHÁI TRIẾT HỌC NHO GIA
1.1 Những tiền đề cơ bản của Nho gia
Nho giáo xuất hiện ở Trung Quốc vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên dưới thời
Xuân Thu do Khổng Tử (551 - 479 TCN) sáng lập. Trải qua những thăng trầm của
lịch sử, Nho giáo ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện hơn ở những khía
cạnh, mức độ khác nhau
Ra đời trong bối cảnh xã hội Trung Quốc bước vào thời kỳ chuyển giao từ hình thái
chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến kiểu Phương Đông nên Nho giáo thời kỳ này
chịu ảnh hưởng của sự biến đổi sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội.Giống như các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, là một học thuyết chính trị
xã hội nên Nho giáo nảy sinh và tồn tại trên một cơ sở hạ tầng, một tồn tại xã hội nhất
định.
Trên lĩnh vực kinh tế: Thời Xuân Thu, nền kinh tế Trung Quốc có sự chuyển biến từ
thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Việc sử dụng đồ sắt trong sản xuất đã đem lại
những bước tiến mới cho sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp. Trong sản xuất
thủ công nghiệp cũng đạt được nhiều thành tựu thúc đẩy một loạt các ngành nghề thủ
công nghiệp ra đời và phát triển như luyện sắt, rèn, đúc…
Trên cơ sở phát triển sản xuất thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng đạt được nhiều
thành tựu. Sự ra đời của tiền tệ đã thúc đẩy các ngành thương nghiệp cùng nhiều trung
tâm buôn bán trao đổi hàng hoá được mở rộng hơn. Thành thị xuất hiện và trở thành
một cơ sở kinh tế độc lập. Lúc này, trong xã hội hình thành tầng lớp quý tộc mới có
thế lực, tranh giành quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ. Vì vậy mà nhu cầu cho con em
quý tộc học hành và thi đỗ ra làm quan đã trở nên phổ biến. Đây chính là tiền đề cho
việc dạy học và đề cao giáo dục đạo đức nhằm duy trì và ổn định trật tự xã hội.
Trên lĩnh vực xã hội: Cuối Xuân Thu đầu Chiến Quốc, xã hội Trung Quốc đang bước
dần sang chế độ phong kiến sơ kỳ nên Tông pháp của nhà Chu không còn được coi
trọng như trước. Các nước Chư hầu nổi lên, thôn tính lẫn nhau lấn át nhà Chu. Mâu
thuẫn trong giai cấp thống trị ngày càng trở nên gay gắt dẫn tới tình trạng trật tự lễ,
nghĩa, cương thường bị đảo lộn, các quan hệ đạo đức suy đồi "Chư hầu lấn quyền
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 3 -
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
thiên tử, đại phu lấn quyền chư hầu, tôi giết vua, con giết cha, trật tự xã hội rối
loạn"[35;4]. Trong bối cảnh loạn lạc đó một vấn đề lớn đặt ra: cách tổ chức và quản lý
xã hội theo mô hình nhà Chu không còn phù hợp nữa. Và vấn đề là làm thế nào để
thiết lập lại trật tự, kỷ cương đưa xã hội vào thế ổn định để phát triển.
Chính trong thời đại lịch sử với những biến động, rối ren như trên đã làm nảy sinh một
loạt các nhà tư tưởng, các trường phái triết học khác nhau. Tất cả đều đứng trên lập
trường của giai cấp mình để tranh luận, phê phán lẫn nhau về một biện pháp khắc
phục tình trạng "vô đạo" của xã hội đương thời. Lịch sử gọi đây là thời kỳ "Bách gia
tranh minh", "Bách gia chư tử" (trăm nhà trăm thày). Trong đó, xuất hiện nhiều nhà tư
tưởng, nhiều hệ thống, trường phái triết học như Nho giáo, Đạo giáo, Mặc gia, Pháp
gia…
1.2 Những quan điểm triết học cơ bản của Nho gia
1.2.1 Những quan điểm về giáo dục – con người của Nho gia được thể hiện ở những
tư tưởng chủ yếu sau:
Tư tưởng giáo dục được coi là một trong những nội dung cơ bản của Nho giáo và nó
được xem như một thành tố gắn liền với tư tưởng chính trị, xã hội, đạo đức..
Trong quan niệm của các nhà nho, xã hội lý tưởng chỉ có thể thực hiện được khi mọi
người được giáo dục, giáo hoá và có đạo đức. "Giáo dục cũng là một trong những biện
pháp chính trị để xây dựng một xã hội ổn định, thái bình, thịnh trị, có trật tự kỷ cương
và tạo ra mẫu người lý tưởng" [3; 41]. Muốn cho Nho giáo có thể thấm sâu đến mọi
tầng lớp trong xã hội thì không có con đường nào khác ngoài việc truyền bá tư tưởng
qua con đường giáo dục cùng với sự thịnh trị của chế độ phong kiến, Nho giáo ngày
càng khẳng định vị trí của mình trong xã hội. Nhờ đó, giáo dục Nho giáo cũng được
đẩy mạnh để tuyển lựa những người trung thành với bộ máy cai trị, góp phần vào sự
phát triển của chế độ phong kiến.
* Quan niệm của Nho giáo về tính người và vai trò của giáo dục Nho giáo trong việc
thay đổi bản tính con người.Vấn đề tính người là một trong những nội dung cơ bản
của Nho giáo. Nó không chỉ gắn bó, liên quan tới vấn đề nguồn gốc, bản chất con
người mà còn đặt cơ sở, nền tảng cho các nhà Nho giáo đề xuất tư tưởng giáo dục của
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 4 -
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
mình. Đây được xem như phương thức hữu hiệu nhất để đưa xã hội từ loạn lạc về thái
bình, thịnh trị.Người đầu tiên đề cập tới vấn đề bản tính con người trong phái Nho
giáo là Khổng Tử. Trong sách Luận ngữ, có tới 3 lần ông nhắc tới chữ "tính" luận về
tính ông nói "Bản tính người ta gần đều giống nhau, nhưng chịu ảnh hưởng khác nhau
mà xa nhau" [14; 614]. Theo Khổng Tử, tính của con người khi mới sinh ra là hoàn
toàn trong trắng, ngây thơ, tự nhiên, chưa bị thay đổi bởi hoàn cảnh bên ngoài. Vì cái
bản tính ấy có được do trời nên mọi người đều có bản tính giống nhau. Nhưng trong
quá trình học tập, tiếp xúc, do sự tác động của các yếu tố bên ngoài nên bản tính của
con người có thể bị thay đổi. Điều đó làm cho mọi người trở nên khác nhau."Người ta
sinh ra vốn ngay thẳng, kẻ cong vạy mà vẫn còn sống chẳng qua nhờ may mắn thoát
chết" [14; 332]. Khổng Tử còn khẳng định rằng để giữ được bản tính lành trong mỗi
con người thì họ phải được giáo dục, giáo hoá. Mặc dù, chưa bàn nhiều đến vấn đề
"tính người" song những tư tưởng, những quan niệm của Khổng Tử đưa ra có ý nghĩa
to lớn với các nhà nho sau này. Tiếp thu và kế thừa quan điểm của Khổng Tử, Mạnh
Tử cho rằng: "Bản tính người ta vốn thiện cũng như nước chảy xuống thấp vậy" [14;
1193]. Ở đây, Mạnh Tử giải thích về tính người thiên về khía cạnh những giá trị xã
hội. Con người ta sinh ra vốn đã thiện đó là điểm phân biệt giữa con người với loài
cầm thú. Con người sở dĩ trở thành bất thiện là do vật dục sai khiến, do hoàn cảnh tác
động. Tư tưởng này là sự kế thừa và phát triển tư tưởng "tính người" của Khổng Tử.
Mạnh Tử cũng đề cao vai trò của giáo dục, giáo hoá trong việc tu dưỡng bản tính thiện
của con người. Đối lập với quan niệm của Mạnh Tử, Tuân Tử khẳng định: bản tính
con người là ác, thiện là do con người làm ra. Tuân Tử xuất phát từ việc nhìn nhận
con người từ bản năng tự nhiên khác với Mạnh Tử xuất phát từ nhìn nhận, xem xét
con người từ phương diện đạo đức, xã hội. Tuy coi bản tính con người là ác nhưng
Tuân Tử cho rằng có thể uốn nắn được cái bản tính ấy nhờ giáo hoá, giáo dục mà
phương thức tốt nhất để loại trừ nó là học tập, rèn luyện. Quan niệm về bản tính con
người của Tuân Tử và Mạnh Tử có sự đối lập, trái ngược nhau song đều thống nhất ở
chỗ: Có thể giáo hoá giáo dục để hướng con người tới điều thiện. Tuy nhiên, trong học
thuyết của mình cả hai ông đều chưa nhận thấy được con người là thực thể thống nhất
giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Ngoài những quan niệm trên thì con người phải kể đến
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 5 -
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
thuyết tính người của Cáo Tử "Bản tính của con người ta như nước chảy… không
phân biệt thiện với bất thiện" [14; 1193]. Trong tư tưởng của Cáo Tử, tính người của
con người không thiện cũng không ác nhưng nó có thể thay đổi tuỳ theo sự tác động
của hoàn cảnh xã hội và việc giáo dục tu dưỡng của mỗi con người. Mặc dù có sự
khác nhau trong quan niệm về bản tính vốn có của con người nhưng các nhà Nho đều
khẳng định rằng: Bản tính của con người không phải nhất thành bất biến mà có thể
thay đổi thông qua sự tác động của giáo dục, hoàn cảnh. Phương thức tốt nhất để giữ
được tính thiện, loại trừ tính ác là con người luôn suy nghĩ và hành động theo điều
thiện, tu dưỡng, rèn luyện bằng nhân, lễ, nghĩa, trí,tín. Đó là điều có thể lý giải tại sao
Nho giáo lại coi trọng giáo dục, đề cao giáo hoá và coi đây là công cụ cai trị.
Mục đích của giáo dục: Nhằm đào tạo ra lớp người đáp ứng yêu cầu của giai cấp
thống trị, bảo vệ đặc quyền lợi của giai cấp phong kiến, duy trì, ổn định trật tự xã hội.
Quan trọng hơn, giáo dục Nho giáo có mục đích đào tạo ra những bậc quân tử là
những con người mẫu mực có tài trí, đạo đức đem hiểu biết của mình áp dụng vào
cuộc sống và cai trị thiên hạn . Ngoài ra giáo dục Nho giáo còn giáo dục đạo lý làm
người cho dân chúng để họ tuân theo những quy định phép tắc của lễ giáo phong kiến,
khuyên họ an phận thủ thường sống theo đúng danh phận của mình. Tóm lại, tất cả
đều nhằm mục đích đưa xã hội từ loạn lạc trở về thái bình thịnh trị để củng cố, bảo vệ
quyền lợi địa vị của giai cấp phong kiến. Mục đích của giáo dục Nho giáo không nằm
ngoài mục tiêu chính trị. Đối tượng của giáo dục: Trong Luận ngữ Khổng Tử nói "hữu
giáo vô loại" tức là giáo dục không phân biệt kẻ sang người hèn, kẻ cao người thấp.
Nho giáo không chỉ coi tầng lớp quý tộc, thống trị là đối tượng của giáo dục mà người
dân bình thường cũng là đối tượng của giáo dục, giáo hoá. Nhưng thực tế thì không
phải mọi người dân đều là đối tượng của giáo dục, giáo hoá. Bởi vì thứ nhất, trong xã
hội phong kiến thì người dân không phải ai cũng có điều kiện để học tập, đặc biệt là
người nghèo khổ. Thứ hai, một mặt ông chủ trương “hữu giáo vô loại” nhưng mặt
khác, ở chỗ khác thì đối với người nông dân, những người hèn kém về mặt đạo đức thì
ông lại áp dụng chính sách ngu dân. Đặc biệt, Nho giáo không tính đến vai trò của
người phụ nữ và kẻ tiểu nhân trong việc giáo dục, giáo hoá. . Mạnh Tử cho rằng
không phải mọi người dân đều là đối tượng của giáo dục. Theo ông, điểm khác nhau
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 6 -
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
giữa con người và con vật chính là ở tứ thiện tâm: Trắc ẩn, tu ố, cung kính, thị phi. Ở
kẻ tiểu nhân thì ngay từ khi lọt lòng mẹ đã mất đi những điều này. Tức là trong quan
niệm của Mạnh Tử thì kẻ tiểu nhân không thể là đối tượng của giáo dục.
Tuân Tử thì cho rằng kẻ tiểu nhân ngay từ khi sinh ra mãi mãi là kẻ tàn bạo, gian ác
thèm muốn của cải mà không biết tu dưỡng rèn luyện và họ không phải là đối tượng
của giáo dục. Từ thời Hán trở đi, các nhà Nho cũng có cùng một quan niệm cho rằng
thứ dân, kẻ tiểu nhân không phải là đối tượng của giáo dục và cho dù có được học
hành thì dưới con mắt của các nhà Nho, người cầm quyền, thì họ cũng chỉ là những kẻ
hạ ngu "không nghe theo giáo hoá" khinh nhờn lời dạy của thánh nhân.
Như vậy, xét về đối tượng giáo dục, Nho giáo thể hiện tính chất bất bình đẳng, tính
chất giai cấp rõ rệt. Chứng tỏ, trong xã hội, mà giai cấp bóc lột là kẻ thống trị thì
không có nền giáo dục bình đẳng không phải ai cũng được học hành.
Nội dung của giáo dục Nho giáo:không nằm ngoài Tứ Thư, Ngũ Kinh và những lời
dạy của bậc thánh hiền tức là không ngoài những nguyên lý đạo đức cơ bản của Tam
cương, Ngũ thường. Trong nội dung giáo dục của mình, Nho giáo còn đề cao việc
giáo dục đạo trị nước" cho con người. Nho giáo còn chủ trương dùng hình, pháp và
luật để giáo hoá, giáo dục nhưng mục đích cuối cùng vẫn là duy trì trật tự xã hội bảo
vệ lợi ích giai cấp phong kiến. Nhìn chung, nội dung giáo dục là sát với vấn đề thực tế
nhưng hạn chế lớn hất là chưa bao giờ dạy cho con người những tri thức về tự nhiên,
khoa học tự nhiên, lao động sản xuất. Vì vậy đã đào tạo ra những con người thuần tuý
sách vở chỉ biết nghe theo lời dạy của thánh hiền mà mất đi khả năng chủ động, sáng
tạo trong lĩnh vực sản xuất, thụ động trước những biến đổi của thời cuộc.
Phương pháp giáo dục: thứ nhất Nho giáo đề cao phương pháp nêu gương trong giáo
dục. Thứ hai là phương pháp "ôn cố nhi tri tân" (ôn cũ biết mới). Thứ ba là phương
pháp phân loại học trò. Phương pháp thứ tư mà Nho giáo chú trọng đến là phương
pháp "gợi mở vấn đề". Thứ năm là phương pháp học đi đôi với hành. Nho giáo còn
đưa ra nguyên tắc cho cả người dạy và người học "học không biết chán, dạy không
biết mỏi". Mặc dù có nhiều điểm tiến bộ và tích cực song xét một cách tổng thể quan
niệm về nội dung, mục đích, đối tượng, phương pháp giáo dục của Nho giáo không
tránh khỏi những hạn chế do hoàn cảnh xã hội quy định. Với tất cả những gì đã làm
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 7 -
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
thì giáo dục Nho giáo được đánh giá cao và có ảnh hưởng tới giáo dục Việt Nam nói
riêng, xã hội phong kiến nói chung và cho tới ngày nay
1.2.2 Những quan điểm về chính trị- đạo đức của Nho gia được thể hiện ở những tư
tưởng chủ yếu sau:
Thứ nhất: Xã hội là một tổng thể những quan hệ xã hội giữa con người với con người
nhưng Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan hệ nền tảng của
xã hội, đề cao vai trò của những quan hệ ấy và thâu tóm những quan hệ này vào ba
rường mối chủ đạo (gọi là tam cương). Trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua- tôi,
cha- con và chồng- vợ. Nếu xếp theo “tôn ty trên- dưới” thì vua ở vị trí cao nhất, còn
nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua- cha- chồng xếp ở hàng làm chủ.
”..Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho gia.
Để giải quyết đúng đắn các quan hệ xã hội, mà trước hết là mối quan hệ “tam cương”,
Khổng Tử đã đề cao tư tưởng “chính danh”. Để thực hiện chính danh, Khổng Tử đặc
biệt coi trọng “Nhân trị” chức không phải “pháp trị
Thứ hai: Xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến, một xã hội
đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh. Lý tưởng của Nho gia là xây dựng một
“xã hội đại đồng”. Đó là một xã hội có trật tự trên dưới, có vua sáng- tôi hiền, cha từ-
con thảo, trong ấm- ngoài êm; trên cơ sở địa vị và thân phận của mỗi thành viên từ
vua chúa, quan lại đến thứ dân.Có thể nói đó là lý tưởng của tầng lớp quý tộc, thị tộc
cũ cũng như của giai cấp địa chủ phong kiến đang lớn lên.
Đối với quan hệ vua tôi, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua theo huyết thống và
chủ trương “thượng hiền” không phân biệt đẳng cấp xuất thân của người ấy. Trong
việc chính trị vua phải biết “trọng dụng người hiền đức, tài cán và rộng lượng với
những kẻ cộng sự...”.
Trong việc trị nước cũng như tu thân, học đạo sửa mình để đạt được đức nhân, “lế”
được Khổng Tử rất mực chú trọng. Lễ ở đây là những quy phạm nguyên tắc đạo đức.
Ông cho rằng do vua không giữ đúng đạo vua, cha không giữ đúng đạo cha, con
không giữ đúng đạo con... nên thiên hạ vô đạo. Phải dùng lễ để khôi phục lại chính
danh.
Về đạo cha con, Khổng Tử cho rằng con đối với cha phải lấy chữ hiếu làm đầu và cha
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 8 -
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
đối với con phải lấy lòng tự ái làm trọng. Trong đạo hiếu của con đối với cha mẹ, dù
rất nhiều mặt, nhưng cốt lõi phải ở tâm thành kính. “Đời nay hễ thấy ai nuôi được cha
mẹ thì người ta khen là có hiếu. Nhưng loài thú vật như chó, ngựa người ta cũng nuôi
được vậy. Cho nên, nuôi cha mẹ mà chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật đâu.”
Còn Mạnh Tử, ông kịch liệt lên án những ông vua không lấy điều nhân nghĩa làm gốc,
chỉ vui thú lợi lộc riêng, tà dâm bạo ngược, dùng sức mạnh để đàn áp dân; ông gọi đó
là “bá đạo” và thường tỏ thái độ khinh miệt: “kẻ hại nhân là tặc, kẻ hại nghĩa là
tàn”.Người tàn tặc là một kẻ thất phu. Nghe nói giết tên Trụ, chứ chưa nghe nói giết
vua Trụ.
Thứ ba: Nho giáo lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã hội lý tưởng
“đại đồng”. Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã hội, cho nên, nền giáo
dục dục Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức con người. Trong bảng
giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là “Nhân”. Những chuẩn mực khác
như: Lễ, nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu...đều là những biểu hiện của Nhân. Chữ Nhân
trong triết học Nho gia được Khổng Tử đề cập với ý nghĩa sâu rộng nhất. Nó được coi
là nguyên lý đạo đức cơ bản, quy định bản tính con người và những quan hệ giữa
người với người từ trong gia tộc đến xã hội. Nó liên quan đến các phạm trù đạo đức
chính trị khác như một hệ thống triết lý chặt chẽ, nhất quán tạo thành bản săc riêng
trong triết lý nhân sinh của ông.
Theo ông, đạo sống của con người là phải “trung dung”, “trung thứ” nghĩa là sống
đúng với mình và sống phải với người. Xã hội thời xuân thu là thời kỳ đang trải qua
những biến động lịch sử sâu sắc, Khổng Tử đã chủ trương dùng nhân đức để giáo hoá
con người, cải tạo xã hội. Người có đức nhân là người làm được năm điều trong thiên
hạ “cung, khoan, tín mẫu, huệ”. Cung thì không khinh nhờn, khoan thì được lòng
người, tín thì người tin cậy, mẫu thì có công, huệ thì đủ khiếnđược người. Người có
nhân theo Khổng Tử là người “trước làm những điều khó, sau đó mới nghĩ tới thu
hoạch hết quả”
Như vậy nhân là đức tính hoàn thiện, là cái gốc đạo đức của con người, nên “nhân”
chính là đạo làm người. Đạo làm người hết sức phức tạp, phong phú nhưng chung quy
lại chỉ là những điều sống với mình và sống với người. là “mình muốn lập thân thì
HVTH: Lê Thị Tố Quyên MSHV: 55 Nhóm 6 – Lớp : K22_Ngày 4
Trang - 9 -
Khoa Tài chính doanh nghiệp GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
cũng giúp người lập thân, mình muốn mình thành đạt thì cũng giúp người thành đạt” ,
“việc gì mình không muốn chớ đem cho người”.
Người muốn đạt đức nhân phải là người có “trí” và “dũng”. Nhờ có trí, con người mới
có sự sáng suốt, minh mẫn để hiểu biết đạo lý, xét đoán được sự việc, phân biệt được
phải t