Chuyên đề Tình hình tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại SacomBank chi nhánh Hưng Đạo

Vào thời kỳ công xã nguyên thủy, xã hội đã có những chuyển biến sâu sắc, những thay đổi trong các quan hệ kinh tế xã hội. Sự phân công lao động xã hội và sự xuất hiện của quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là cơ sở ra đời của quan hệ tín dụng. Trong đó tín dụng nặng lãi là hình thức tín dụng sơ khai nhất. Nó ra đời trong thời kỳ cuối của chế độ công xã nguyên thủy, khi quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuãt xuất hiện dẫn đến sự khác nhau về mức độ thu nhập giữa các thành viên trong xã hội. Song song với sự phát triển không ngừng của quá trình phân công lao động xã hội, của cải được mang đi trao đổi, nền sản xuất hàng hóa ra đời. Sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa góp phần thúc đẩy phân công lao động xã hội, đồng thời cũng làm sâu sắc thêm thu nhập của các thành viên trong xã hội. Tín dụng được áp dụng thông qua hình thức vay mượn vốn dưới hình thái sản phẩm hàng hóa giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh và các hộ gia đình dân cư, nhằm thực hiện điều hòa vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, vốn tín dụng được sử dụng cho mục đích tiêu dùng là chủ yếu.Giai đoạn đầu, hoạt động của tín dụng nặng lãi mang tính chất phi kinh tế, song cùng vời sự phát triển của kinh tế hàng hóa tín dụng nặng lãi dần dần được tiền tệ hóa trở thành một nghề của một số người giàu có hoặc những người môi giới trung gian. Do số lượng người cần vay nhiều và nhu cầu vay cấp bách, nguồn cho vay lại ít cho nên lãi suất rất cao. Tiền vay hầu như không được đầu tư vào sản xuất kinh doanh mà chủ yếu được dùng vào mục đích tiêu dùng cấp bách mặc dù người đi vay là những người sản xuất kinh doanh. Như vậy, tín dụng nặng lãi góp phần vào quá trình làm tan rã “kinh tế tự nhiên”, mở rộng quan hệ hàng hóa tiền tệ, tạo điều kiện tiền đề cho chủ nghĩa tư bản xuất hiện. Ra đời từ chế độ tư hữu nhưng hoạt động của tín dụng nặng lãi lại có tác động ngược lại làm cho sự phân hóa xã hội ngày càng sâu sắc hơn, sự tách biệt giàu nghèo ngày càng lớn. Khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thành và phát triển, giai cấp tư sản nhanh chóng tự tạo lập cho mình một hình thức tín dụng mới - Tín Dụng Tư Bản Chủ Nghĩa.

doc31 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2109 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tình hình tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại SacomBank chi nhánh Hưng Đạo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2.1. Lý luận chung về tín dụng 2.1.1. Nguồn gốc ra đời và sự phát triển của quan hệ tín dụng Vào thời kỳ công xã nguyên thủy, xã hội đã có những chuyển biến sâu sắc, những thay đổi trong các quan hệ kinh tế xã hội. Sự phân công lao động xã hội và sự xuất hiện của quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là cơ sở ra đời của quan hệ tín dụng. Trong đó tín dụng nặng lãi là hình thức tín dụng sơ khai nhất. Nó ra đời trong thời kỳ cuối của chế độ công xã nguyên thủy, khi quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuãt xuất hiện dẫn đến sự khác nhau về mức độ thu nhập giữa các thành viên trong xã hội. Song song với sự phát triển không ngừng của quá trình phân công lao động xã hội, của cải được mang đi trao đổi, nền sản xuất hàng hóa ra đời. Sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa góp phần thúc đẩy phân công lao động xã hội, đồng thời cũng làm sâu sắc thêm thu nhập của các thành viên trong xã hội. Tín dụng được áp dụng thông qua hình thức vay mượn vốn dưới hình thái sản phẩm hàng hóa giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh và các hộ gia đình dân cư, nhằm thực hiện điều hòa vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, vốn tín dụng được sử dụng cho mục đích tiêu dùng là chủ yếu.Giai đoạn đầu, hoạt động của tín dụng nặng lãi mang tính chất phi kinh tế, song cùng vời sự phát triển của kinh tế hàng hóa tín dụng nặng lãi dần dần được tiền tệ hóa trở thành một nghề của một số người giàu có hoặc những người môi giới trung gian. Do số lượng người cần vay nhiều và nhu cầu vay cấp bách, nguồn cho vay lại ít cho nên lãi suất rất cao. Tiền vay hầu như không được đầu tư vào sản xuất kinh doanh mà chủ yếu được dùng vào mục đích tiêu dùng cấp bách mặc dù người đi vay là những người sản xuất kinh doanh. Như vậy, tín dụng nặng lãi góp phần vào quá trình làm tan rã “kinh tế tự nhiên”, mở rộng quan hệ hàng hóa tiền tệ, tạo điều kiện tiền đề cho chủ nghĩa tư bản xuất hiện. Ra đời từ chế độ tư hữu nhưng hoạt động của tín dụng nặng lãi lại có tác động ngược lại làm cho sự phân hóa xã hội ngày càng sâu sắc hơn, sự tách biệt giàu nghèo ngày càng lớn. Khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thành và phát triển, giai cấp tư sản nhanh chóng tự tạo lập cho mình một hình thức tín dụng mới - Tín Dụng Tư Bản Chủ Nghĩa. Tín dụng tư bản rất đa dạng, biểu hiện dưới nhiều hình thức, bao gồm tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước… trong đó hoạt động tín dụng dụng của các định chế tài chính trung gian rất mạnh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tư bản phát triển. Sự năng động trong các quan hệ tín dụng tạo ra cơ chế tự điều tiết vốn hiệu quả, từ đó góp phần rất lớn vào quá trình phát triển của nền kinh tế xã hội. Tóm lại, chế độ tư hữu là cơ sở ra đời quan hệ tín dụng. Giai đoạn đầu, quan hệ tín dụng rất thô sơ, chủ yếu là quan hệ vay mượn trực tiếp bằng hàng hóa, tiền bạc nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng là chính. Về sau, khi sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển, quan hệ tín dụng không ngừng mở rộng. Tín dụng đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển , đặc biệt từ khi phương thức sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa hình thành, hoạt động tín dụng phát triển rất mạnh, biểu hiện qua quy mô vốn và sự phong phú đa dạng của các hình thức. Như vậy, có thể kết luận tín dụng là một phạm trù kinh tế, là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa phát triển. 2.1.2. Khái niệm và bản chất của tín dụng Tín dụng là một phạm trù kinh tế, ra đời và tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế xã hội. Từ “Tín Dụng” có nguồn gốc từ tiếng Latinh là Creditium có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm, dựa trên sự tin tưởng, tín nhiệm đó sẽ thực hiện các quan hệ vay mượn một lượng giá trị biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc vật chất trong một thời gian nhất định, ngay cả những giá trị vô hình như tiếng tăm, uy tín để đảm bảo, bảo lãnh cho sự vận động của một lương giá trị nào đó. Vì vậy, nếu ta nghiên cứu tín dụng từ phía các quan hệ kinh tế ở tầm vi mô thì tín dụng là sự vay mượn giữa hai chủ thể kinh tế, giữa người đi vay và người cho vay trên cơ sở thỏa thuận về thời hạn nợ, mức lãi cụ thể. Còn nếu chúng ta nhìn trên giác độ kinh tế vĩ mô thì tín dụng là sự vận động vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Biểu hiện ra bên ngoài của tín dụng là sự vận động độc lập tương đối của các luồng giá trị trong một thời kỳ cụ thể nào đó. Sự vận động này biểu hiện qua sơ đồ: a. Người cho vay Giá trị (hàng hóa, tiền tệ) > Người đi vay Sau một thời gian: b. Người cho vay < Giá trị (hàng hóa, tiền tệ) Người đi vay Người cho vay trên cơ sở tín nhiệm về người đi vay, đó là sự hoàn trả đúng hạn của giá trị tín dụng (cả gốc và lãi) sẽ chuyển giao một lượng giá trị tín dụng cho người đi vay. Từ đó ta có thể đưa ra khái niệm tổng quát về tín dụng như sau: “Tín dụng là một phạm trù kinh tế chỉ mối quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn trả cả vốn gốc và lãi sau một thời gian nhất định". Từ khái niệm này cho thấy trong quan hệ tín dụng, người cho vay chỉ chuyển giao quyền sử dụng vốn cho người đi vay trong một thời gian nhất định, không chuyển giao quyền sở hữu vốn cho vay. Người đi vay chỉ nhận được quyền sử dụng chứ không nhận được quyền sở hữu vốn vay. Mặc dù quan hệ tín dụng được biểu hiện qua các phương thức rất đa dạng và phong phú nhưng nó vẫn mang bản chất cơ bản sau: Chỉ làm thay đổi quyền sử dụng, không làm thay đổi quyền sở hữu vốn. Thời hạn tín dụng được xác định dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên tham gia quan hệ tín dụng. Chủ sở hữu vốn được nhận lại một phần thu nhập dưới dạng lợi tức tín dụng. 2.1.3. Chức năng và vai trò của tín dụng 2.1.3.1. Chức năng của tín dụng Có hai chức năng cơ bản sau: a. Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc có hoàn trả Có thể nói chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là hai quá trình cùng thống nhất trong sự vận hành của quan hệ tín dụng. Chức năng này làm cho tín dụng trở thành chiếc cầu nối giữa cung - cầu vốn trong nền kinh tế, nhờ sự vận động của tín dụng mà các chủ thể đi vay nhận được một phần tài nguyên của xã hộ, thỏa mãn nhu cầu mở rộng quy mô kinh doanh hoặc tiêu dùng. Ở khâu tập trung, tín dụng là phương thức giúp cho các chủ thể kinh tế thu hút được một phần nguồn vốn của xã hội dưới hình thái tiền tệ hoặc vật chất tạm thời nhàn rỗi. Việc huy động bằng tín dụng dựa trên lợi ích kinh tế là hình thức huy động có hiệu quả, khai thác được các nguồn vốn trong và ngoài nước tăng cường nguồn lực tài chính cho các pháp nhân và thể nhân trong nền kinh tế. Ở khâu phân phối, tín dụng đã đáp ứng được các nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, các dân cư, các tổ chức xã hội cũng như của nhà nước. Thông qua chức năng phân phối nguồn vốn của tín dụng các nhà tiết kiệm đầu tư có thể tận dụng vốn của mình một cách hợp lý và có hiệu quả cao nhất. Có thể thấy được trong nền kinh tế thị trường, phân phối vốn tín dụng qua hệ thống ngân hàng chiếm một vị trí quan trọng. Ngân hàng với sự chuyên môn hóa về ngành nghề kinh doanh có khả năng tập trung một lượng vốn tín dụng bằng tiền lớn và cơ cấu kỳ hạn đa dạng, sau đó ngân hàng thực hiện phân phối lại nguồn vốn vay dưới hình thức cấp tín dụng cho vay đáp ứng nhu cầu về vốn của nhiều đối tượng kịp thời và hiệu quả. b. Chức năng kiểm soát các hoạt động kinh tế Kiểm soát các hoạt động kinh tế qua quan hệ tín dụng được thực hiện dưới hình thái giá trị tiền tệ, dựa trên cơ cơ sở vận động của các luồng giá trị tiền tệ để kiểm tra kiểm soát. Chức năng này được thực hiện trên cơ sở tín dụng thực hiện chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc có hoàn trả.Chức năng kiểm soát hoạt động kinh tế thể hiện khi chủ thể đi vay và chủ thể cho vay thực hiện thẩm định dự án, kế hoạch kinh doanh, cũng như việc kiểm tra, kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Như vậy, thực hiện chức năng phản ánh kiểm soát các hoạt động kinh tế, tín dụng, một mặt đảm bảo lợi ích thiết thực cho các chủ thể kinh tế tham gia, mặt khác còn mang lại lợi ích, hiệu quả cho nền kinh tế quốc dân và toàn xã hội. 2.1.3.2. Vai trò của tín dụng Trong nền kinh tế thị trường tín dụng có những vai trò sau: a. Tín dụng là công cụ thực hiện tích tụ, tập trung vốn và tài trợ vốn cho các ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển Quan hệ tín dụng thực hiện kết nối giũa tiết kiệm và đầu tư, giữa giao lưu vốn trong nước và ngoài nước. Tín dụng khai thác các khoản vốn nhàn rỗi trong xã hội, các quỹ tiền tệ đang tồn động trong lưu thông đưa nhanh vào phục vụ trong sản xuất và tiêu dùng xã hội, góp phần điều tiết các nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn. Tín dụng còn là công cụ tài trợ cho các ngành kém phát triển, các ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước tạo tiền đề cho một nền kinh tế tăng trưởng ổn định và bền vững. b. Tín dụng là công cụ góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả và kiềm chế kiểm soát lạm phát Thông qua tín dụng, bằng các biện pháp huy động vốn và cho vay, thực hiện nghiệp vụ điều hòa vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, tín dụng góp phần làm cho tốc độ luân chuyển hàng hóa và tiền vốn tăng lên. Nhà nước có thể thu hút được một lượng tiền mặt dư thừa trong lưu thông vừa không phải phát hành thêm tiền. Do đó, tình trạng thiếu tiền mặt cục bộ được giải quyết. Do vậy mà tín dụng là một biện pháp quan trọng được nhà nước sử dụng trong tình trạng nền kinh tế suy thoái, khủng hoảng, việc mở rộng quan hệ tín dụng nhà nước với các nước cũng như các tổ chức tài chính tiền quốc tế sẽ làm tăng các nguồn thu tài chính, đảm bảo cho nhà nước có thể can thiệp hữu hiệu vào thị trường để ổn định tình hình Tài chính - Tiền tệ quốc gia. Mặt khác, việc mở rộng quan hệ tín dụng còn tạo điều kiện tăng khối lượng hàng hóa, dịch vụ cho nền kinh tế, là cơ sở vững chắc cho sự ổn định giá cả hàng hóa, tiền tệ từng bước củng cố và tăng cường tiềm lực tài chính quốc gia. Có thể khẳng định, hoạt động của tín dụng tạo điều kiện mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Đây là một trong những nhân tố tích cực tiết giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, giúp cho nhà nước quản lý và điều hành hữu hiệu chính sách tiền tệ. c. Tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và ổn định trật tự xã hội Hoạt động tín dụng đáp ứng nâng cao đời sống vật chất cho dân cư. Trong tín dụng tiêu dùng những nhà sản xuất kinh doanh hoặc các tổ chức tín dụng cấp tín dụng dưới hình thức hàng hóa tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, các tư liệu sinh hoạt…đáp ứng nhu cầu trong cuộc sống, sinh hoạt ngày càng cao của người dân. Nhà nước vận dụng quan hệ tín dụng nhà nước để thực hiện các chương trình chính sách xã hội như cho vay xóa đói giảm nghèo, cho vay giải quyết việc làm…từng bước cải thiện đời sống dân cư. Như vậy, tín dụng đã góp phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp và từ đó ổn định trật tự chính trị-xã hội. d. Tín dụng là một trong những phương tiện kết nối nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế của cộng đồng thế giới, góp phần phát triển mối quan hệ đối ngoại Thật vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa, mỗi quốc gia trở thành một bộ phận của thị trường thế giới, các nước thực hiện chính sách kinh tế mở thì tín dụng ngày càng trở nên cần thiết. Tín dụng quốc tế tạo điều kiện cho quá trình chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia thực hiện nhanh hơn, góp phần làm cho các nước chậm phát triển trong một thời gian ngắn có thể có được một nền sản xuất với kỹ nghệ cao mà các nước phát triển trước đây phải mất một thời gian khá lâu mới có được. 2.1.4. Lãi suất và các hình thức tín dụng 2.1.4.1. Lãi suất tín dụng Chúng ta có thể xem xét sự vận động tổng quát của tín dụng qua công thức T-T1, trong đó T1 = T + ∆T. Với một khoản tiền đưa ra cho vay sau một thời gian sẽ quay về với người sở hữu nó kèm theo một giá trị tăng thêm, đó là lợi tức. Hay nói cách khác, lợi tức tín dụng là khoản chênh lệch giữa số vốn thu về và số vốn đã cho vay. Lợi tức tín dụng được xem là giá cả của vốn vay, nó có độ lớn và được biểu hiện thông qua tỷ suất lợi tức hay lãi suất tín dụng. Lãi suất tín dụng là tỷ lệ giữa tổng lợi tức thu được so với tổng số vốn đã cho vay trong một thời gian nhất định. Nếu đứng trên góc độ huy động vốn, lãi suất tín dụng có các loại: + Lãi suất tiền gởi có kỳ hạn + Lãi suất tiền gửi không kỳ hạn + Lãi suất tiền gởi từ các đơn vị, tổ chức kinh tế + Lãi suất của các loại chứng từ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu Nếu đứng trên góc độ sử dụng vốn, lãi suất tín dụng có: + Lãi suất cho vay bằng tiền + Lãi suất cho vay cầm cố + Lãi suất chiết khấu các chứng từ có giá Nếu đứng trên góc độ điều tiết vốn giữa các tổ chức tín dụng, lãi suất tín dụng có: + Lãi suất tái chiết khấu + Lãi suất liên ngân hàng 2.1.4.2. Các hình thức tín dụng Có thể nói quan hệ tín dụng trong nền kinh tế thị trường được thể hiện rất đa dạng, phong phú nhưng tiêu biểu là các hình thức tín dụng sau: a. Tín dụng thương mại Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau, được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa. Sự hình thành và phát triển của tín dụng thương mại gắn liền với sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất. Tín dụng thương mại hỗ trợ vốn đảm bảo cho quá trình tái sản xuất không bị gián đoạn. Tín dụng thương mại có ba đặc điểm: + Về hình thức biểu hiện của tín dụng: cho vay dưới hình thức hàng hóa với giá trị của món tín dụng là giá trị của khối lượng hàng hóa bán chịu. Người đi vay khi nhận được khoản tín dụng sẽ đưa trực tiếp toàn bộ lượng hàng hóa, nguyên liệu này vào chu trình sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Khi tới hạn nợ được trả dưới hình thức tiền tệ. + Chủ thể tham gia là các nhà doanh nghiệp trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực, ngành nghề có liên quan với nhau. + Sự vận động phát triển của tín dụng thương mại phù hợp tương đối với quá trình phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa. b. Tín dụng ngân hàng Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng, các tổ chức tín dụng với bên kia là các pháp nhân hoặc thể nhân trong nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế thị trường ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức tài chính trung gian, quan hệ tín dụng ngân hàng được thể hiện qua hai khâu: khâu huy động vốn và khâu cho vay vốn. Tín dụng ngân hàng có ba đặc điểm như sau: + Về hình thức biểu hiện: Hoạt động của tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới hình thái tiền tệ gồm tiền mặt và bút tệ. + Chủ thể trong quan hệ tín dụng ngân hàng: Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng đóng vai trò là chủ thể trung tâm. Ngân hàng vừa đóng vai trò là chủ thể đi vay trong khâu huy động, vừa thực hiện vai trò là chủ thể cho vay trong khâu phân phối vốn. + Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn toàn phù hợp với quy mô phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng trở thành loại tín dụng phổ biến, đáp ứng mọi nhu cầu bổ sung vốn của nền kinh tế, tín dụng ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn mà còn tham gia cấp vốn trung và dài hạn. Ngoài ra nó còn đáp ứng một phần nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ và bổ sung cho nhau. c. Tín dụng nhà nước Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa nhà nước và các chủ thể trong và ngoài nước. Tín dụng nhà nước thể hiện bằng việc vay nợ của nhà nước dưới hình thức nhà nước phát hành các giấy tờ có giá (như công trái, trái phiếu, tín phiếu) hoặc qua các hiệp định, hiệp ước vay nợ với chính phủ, các tổ chừc tài chính tiền tệ trên thế giới theo nguyên tắc có hoàn trả trong một thời gian nhất định. Tín dụng nhà nước gắn liền với hoạt động của ngân sách nhà nước, là một giải pháp thực hiện cân đối ngân sách nhà nước. Trong tín dụng nhà nước, nhà nước vừa là chủ thể đi vay vừa là chủ thể cho vay nhằm mục đích thực hiện chức năng và nhiệm vụ quản lý kinh tế xã hội của nhà nước. Tín dụng nhà nước có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Căn cứ theo yếu tố thời gian, tín dụng nhà nước được chia làm hai loại: tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung dài hạn. Căn cứ vào hình thức huy động, tín dụng nhà nước được thực hiện qua hai phương thức: huy động vốn qua phát hành chứng từ có giá và huy động vốn qua các hiệp định vay nợ. Căn cứ vào phạm vi huy động, tín dụng nhà nước gồm: tín dụng trong nước và tín dụng nước ngoài. Tín dụng nhà nước có các đặc điểm như sau: Thể hiện lợi ích kinh tế mang tính tự nguyện, tính cưỡng chế và tính chính trị-xã hội. Hình thức tín dụng đa dạng, phạm vi huy động vốn lớn. Việc huy động vốn và sử dụng vốn có sự kết hợp giữa các nguyên tắt và các chính sách Tài Chính - Tiền Tệ của Nhà nước. 2.2. Tình hình hoạt của các DNVVN trong những năm vừa qua 2.2.1. Khái niệm DNVVN “DNVVN là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Định nghĩa này được ban hành trong Nghị định số 90/2001/NĐ-CP vào ngày 23/11/2001 dựa vào hai tiêu thức phổ biến: lao động thường xuyên và vốn sản xuất. Ta có thể ước lượng tiêu thức để phân loại DNNVV như sau: Bảng 2.1: Bảng tiêu thức phân loại các doanh nghiệp Ngành nghề Tiêu thức  Công nghiệp  Thương nghiệp, dịch vụ    DNNVV  DN Nhỏ  DNNVV  DN Nhỏ   Vốn sản xuất (tỷ đồng)  < 10  < 3  < 5  < 2   Lao động thường xuyên (người)  < 300  < 100  < 300  < 50   (Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư) Theo định nghĩa này, DNNVV có thể bao gồm những doanh nghiệp sau: - Các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp. - Các doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ và vừa thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước. - Các hợp tác xã có quy mô nhỏ và vừa thành lập và hoạt động theo Luật hợp tác xã. - Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh. 2.2.2. Thực trạng hoạt động a. Tình hình chung Cho đến thời điểm hiện nay, số lượng các DNNVV không ngừng tăng lên. Theo Thứ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Ngọc Phúc, doanh nghiệp nhỏ và vừa ở VN hiện tại chiếm khoảng 97% trong tổng số khoảng 200.000 doanh nghiệp đã thành lập trên toàn quốc. Các doanh nghiệp này đang đóng góp khoảng 26% GDP, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, và 26% lực lượng lao động trong cả nước. Tuy nhiên theo ông Phúc, đây chỉ là những con số đóng góp trực tiếp, điều quan trọng là doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò lớn trong mối quan hệ gắn kết với các doanh nghiệp có quy mô lớn hơn. Dù quy mô nhỏ và vừa nhưng khu vực kinh tế này đã đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước. Kể từ khi có luật doanh nghiệp ra đời, tốc độ tăng trưởng hàng năm của khu vực này là 20%. Theo định hướng của Chính phủ, đến năm 2010, cả nước sẽ có 500.000 DNNVV. Đi cùng với con số này là một lương vốn lớn cần được đáp ứng. Trong những năm qua, DNNVV đã đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội, giữ gìn và phát triển ngành nghề truyền thống, tăng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp vào ngân sách (hằng năm các DNNVV đóng góp khoảng 7% ngân sách nhà nước, tương đương với mức đóng góp của doanh nghiệp FDL); khai thác tiềm năng, trí tuệ, nguồn lực trong dân. Hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế đều có DNNVV: - Trong lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, DNNVV chiếm 17% tổng số doanh nghiệp, tập trung chủ yếu vào những lĩnh vực thực phẩm, chế biến gỗ, chế biến thủy hải sản… Hằng năm, DNNVV tạo ra 31% tổng giá trị sản lượng công nghiệp. Nhìn chung, quy mô doanh nghiệp nhỏ: khoảng 90% số doanh nghiệp có số công nhân dưới 100 người, bình quân mỗi doanh nghiệp chỉ xấp xỉ 45 công nh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnoidung c2.doc
  • docBIACUNG.doc
  • docCO.doc
  • docCHUONG1.doc
  • docCHUONG2.doc
  • docCHUONG3.doc
  • docDMVT.doc
  • docds bang bieu.doc
  • docKL.doc
  • docMD.doc
  • docML.doc
  • docnoidung c1.doc
  • docnoidungc3.doc
  • docNHAN XET GVHD.doc
  • docTLTK.doc
Luận văn liên quan