Theo qui định về chế độ và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh XNK thì 
hoạt độnh kinh doanh XNK phải nhằm phục vụ nền kinh tế trong nước phát triển 
trên cơ sở khai thác và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng và thế mạnh sẵn có về 
lao động, đất đai và các tài nguyên khác của nền kinh tế, giải quyết công ăn việc 
làm cho nhân dân lao động, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật và qui trình công 
nghệ sản xuất, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá đất nước, đáp ứng các 
yêu cầu cơ bản và cấp bách về sản xuất và đời sống, đồng thời góp phần hướng 
dẫn sản xuất, tiêu dùng và điều hoà cung cầu để ổn định thị truờng trong nước. 
XNK là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó không 
phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán 
phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy 
sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước 
nâng cao mức sống của nhân dân. XNK là hoạt động dễ đem lại hiệu quả đột 
biến nhưng có thể gây thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế 
khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia XNK không dễ dàng 
khống chế được.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 106 trang
106 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3913 | Lượt tải: 6 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cơ sở lý luận về hoạt động xuất nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn 
Đề Tài: 
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG 
XUẤT NHẬP KHẨU 
Tài Liệu 
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG 
XUẤT NHẬP KHẨU 
 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP 
KHẨU 
I . KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ XNK. 
1. Khái niệm: 
Theo qui định về chế độ và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh XNK thì 
hoạt độnh kinh doanh XNK phải nhằm phục vụ nền kinh tế trong nước phát triển 
trên cơ sở khai thác và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng và thế mạnh sẵn có về 
lao động, đất đai và các tài nguyên khác của nền kinh tế, giải quyết công ăn việc 
làm cho nhân dân lao động, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật và qui trình công 
nghệ sản xuất, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá đất nước, đáp ứng các 
yêu cầu cơ bản và cấp bách về sản xuất và đời sống, đồng thời góp phần hướng 
dẫn sản xuất, tiêu dùng và điều hoà cung cầu để ổn định thị truờng trong nước. 
XNK là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó không 
phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán 
phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy 
sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước 
nâng cao mức sống của nhân dân. XNK là hoạt động dễ đem lại hiệu quả đột 
biến nhưng có thể gây thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế 
khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia XNK không dễ dàng 
khống chế được. 
XNK là việc mua bán hàng hoá với nước ngoài nhằm phát triển sản xuất 
kinh doanh đời sống. Song mua bán ở đây có những nét riêng phức tạp hơn trong 
nước như giao dịch với người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn khó 
kiểm soát, mua bán qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn,đồng tiền thanh toán bằng 
ngoại tệ mạnh, hàng hoá vận chuyển qua biên giới cửa khẩu, cửa khẩu các quốc 
gia khác nhau phải tuân theo các tập quán quốc tế cũng như địa phương. 
Hoạt động XNK được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ 
điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá XNK, thương nhân giao dịch, 
các bước tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng tổ chức thực hiện hợp 
đồng cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng chuyển giao quyền sở hữu cho 
người mua, hoàn thành các thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ này phải được 
nghiên cứu đầy đủ,kỹ lưỡng đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau,tranh thủ nắm 
bắt những lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất, phục vụ đầy đủ kịp thời cho 
sản xuất, tiêu dùng trong nước. 
Đối với người tham gia hoạt động XNK trước khi bước vào nghiên cứu, 
thực hiện các khâu nghiệp vụ phải nắm bắt được các thông tin về nhu cầu hàng 
hoá thị hiếu, tập quán tiêu dùng khả năng mở rộng sản xuất, tiêu dùng trong 
nước, xu hướng biến động của nó. Những điều đó trở thành nếp thường xuyên 
trong tư duy mỗi nhà kinh doanh XNK để nắm bắt được . 
Mặc dù XNK đem lại nhiều thuận lợi song vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế: 
+ Cạnh tranh dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán hàng XNK. Nếu 
không có sự kiểm soát của Nhà nước một cách chặt chẽ kịp thời sẽ gây các thiệt 
hại khi buôn bán với nước ngoài. Các hoạt động xấu về kinh tế xã hội như buôn 
lậu, trốn thuế, ép cấp, ép giá dễ phát triển. 
+ Cạnh tranh sẽ dẫn đến thôn tính lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế bằng 
các biện pháp không lành mạnh như phá haoaị cản trở công việc của nhau…việc 
quản lý không chỉ đơn thuần tính toán về hiệu quả kinh tế mà còn phải chú 
trọng tới văn hoá và đoạ đức xã hội. 
2. Vai trò của XNK. 
2.1 Đối với nhập khẩu. 
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của TMQT, nhập khẩu tác động 
một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống. Nhập khẩu là để tăng 
cường cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ tiên tiến, hiện đại cho sản xuất và các 
hàng hoá cho tiêu dùng mà sản xuất trong nước không sản xuất được, hoặc sản 
xuất không đáp ứng nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu 
những thứ mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng xuất khẩu,làm được như 
vậy sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng,thế 
mạnh của nền kinh tế quốc dân về sức lao động , vốn , cơ sở vật chất, tài nguyên 
và khoa học kĩ thuật. 
Chính vì vậy mà nhập khẩu có vai trò như sau: 
- Nhập khẩu thúc đẩy nhanh quá trình sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất 
nước 
- Bổ xung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế , đảm bảo một sự 
phát triển cân đối ổn định.khai thác đến mức tối đa tiềm năng và khả năng của 
nền kinh tế vào vòng quay kinh tế. 
- Nhập khẩu đảm bảo đầu vào cho sản xuất tạo việc làm ổn định cho người 
lao động góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. 
- Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu góp phần nâng cao chất 
lượng sản xuất hàng xuất khẩu ,tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá 
ra thị trường quốc tế đặc biệt là nước nhập khẩu. 
Có thể thấy rằng vai trò của nhập khẩu là hết sức quan trọng đặc biệt là đối 
với các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) trong việc cải thiện đời sống 
kinh tế,thay đổi một số lĩnh vực ,nhờ có nhập khẩu mà tiếp thu được những kinh 
nghiệm quản lí ,công nghệ hiện đại …thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng. 
Tuy nhiên, nhập khẩu phải vừa đảm bảo phù hợp với lợi ích của xã hội vừa 
tạo ra lợi nhuận các doanh nghiệp ,chung và riêng phải hoà với nhau. Để đạt 
được điều đó thì nhập khẩu phải đạt được yêu cầu sau: 
* Tiết kiệm và hiệu quả cao trong việc sử dụng vốn nhập khẩu :trong đIều 
kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường việc kinh doanh mua bán giữa các nước 
đều tính theo thời giá quốc tế và thanh toán với nhau bằng ngoại tệ tự do . Do 
vậy,tấtcả các hợp đồng nhập khẩu phải dựa trên vấn đề lợi ích và hiệu quả là vấn 
đề rất cơ bản của quốc gia , cũng như mỗi doanh nghiệp đòi hỏi các cơ quan 
quản lí cũng như mỗi doanh nghiệp phải : 
+ Xác định mặt hàng nhập khẩu phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã 
hội ,khoa học kĩ thuật của đất nước và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân . 
+ Giành ngoại tệ cho nhập khẩu vật tư để phụ sản xuất trong nước xét thấy 
có lợi hơn nhập khẩu . 
+ Nghiên cứu thị trường để nhập khẩu được hàng hoá thích hợp ,với giá cả 
có lợi phục vụ cho sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân. 
* Nhập khẩu thiết bị kĩ thuật tiên tiến hiện đại : 
Việc nhập khẩu thiết bị máy móc và nhận chuyển giao công nghệ ,kể cả 
thiết bị theo con đường đầu tư hay viện trợ đều phải nắm vững phương trâm đón 
đầu đi thẳng vào tiếp thu công nghệ hiện đại .Nhập phải chọn lọc ,tránh nhập 
những công nghệ lạc hậu các nước đang tìm cách thải ra .Nhất thiết không vì 
mục tiêu “ tiết kiệm” mà nhập các thiết bị cũ ,chưa dùng được bao lâu ,chưa đủ 
để sinh lợi đã phải thay thế .Kinh nghiệm của hầu hết các nước đang phát triển là 
đừng biến nước mình thành “bãi rác”của các nước tiên tiến. 
* Bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước ,tăng nhanh xuất khẩu 
Nền sản xuất hiện đại của nhiều nước trên thế giới đầy ắp những kho tồn trữ 
hàng hoá dư thừavà những nguyên nhiên vật liệu .Trong hoàn cảnh đó,việc nhập 
khẩu dễ hơn là tự sản xuất trong nước.Trong điều kiện ngành công nghiệp còn 
non kém của Việt Nam, giá hàng nhập khẩu thường rẻ hơn, phẩm chất tốt hơn 
.Nhưng nếu chỉ nhập khẩu không chú ý tới sản xuất sẽ “bóp chết”sản xuất trong 
nước .Vì vậy ,cần tính toán và tranh thủ các lợi thế của nước ta trong từng thời 
kì để bảo hộ và mở mang sản xuất trong nước vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội 
địa vừa tạo ra được nguồn hàng xuất khẩu mở rộng thị trường ngoài nước. 
2.2 Đối với xuất khẩu. 
Xuất khẩu là một cơ sở của nhập khẩu và là hoạt động kinh doanh để đem 
lại lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để tăng thu 
ngoại tệ, tạo đIều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng. Nhà nước ta 
luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến 
khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm 
và tăng thu ngoại tệ. 
Như vậy xuất khẩu có vai trò hết sức to lớn thể hiện qua việc: 
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu. 
Công nghiệp hoá đất nước đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy 
móc, thiết bị, kỹ thuật, vật tư và công nghệ tiên tiến. 
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như: 
. Liên doanh đầu tư với nước ngoài 
. Vay nợ, viện trợ, tài trợ. 
. Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ 
. Xuất khẩu sức lao động 
Trong các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ…cũng 
phải trả bằng cách này hay cách khác. Để nhập khẩu, nguồn vốn quan trọng nhất 
là từ xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định qui mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. 
- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại. 
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển 
thuận lợi 
+ Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào 
cho sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước 
+ Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm đổi mới thường 
xuyên năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác, xuất khẩu là cơ sở tạo thêm 
vốn và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến thế giới từ bên ngoài 
+ Thông qua xuất khẩu, hàng hoá sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị 
trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ chức 
lại sản xuất cho phù hợp với nhu cầu thị trường. 
+ Xuất khẩu cồn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện 
công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. 
- Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. 
Trước hết, sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động, tạo ra 
nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống của 
nhân dân. 
- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại 
của đất nước. 
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế gắn chặt 
với phân công lao động quốc tế. Thông thường hoạt động xuất khẩu ra đời sớm 
hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác nên nó thúc đẩy các quan hệ này phát 
triển. 
Chẳng hạn, xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín 
dụng, đầu tư, vận tải quốc tế… 
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để 
phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. 
3. Tình hình XNK của Việt Nam thời gian qua. 
3.1 Những thành tựu đạt được: 
Từ khi đổi mới cơ chế thị trường, nền kinh tế của nước ta đã có sự chuyển 
đổi sâu sắc và toàn diện đặc biệt là trong lĩnh vực XNK. Trước đây ngoại thương 
Việt Nam do Nhà nước độc quyền quản lý và điều hành và chủ yếu được thực 
hiện việc trao đổi hàng hoá theo nghị định thư giữa các Chính phủ do đó mà hoạt 
động thương mại trở nên kém phát triển. 
3.1.1 Về hoạt động XNK. 
Bảng 1: KIM NGẠCH XNK CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 1993– 2003. 
 Đơn vị : Triệu USD 
Năm 
Tổng 
KNXNK KNXK 
KNNK 
1993 6.876,0 2.952,0 3.924,0 
1994 9.880,1 4.054,0 5.825,8 
1995 13.604,3 5.448,9 8.155,4 
1996 18.399,5 7.255,9 11.143,6 
1997 20.777,3 9.185,0 11.592.3 
1998 20.859,9 9.360,3 11.499,6 
1999 23.283,5 11.541,4 11.742,1 
2000 30.119,2 14.482,7 15.636,5 
2001 31.189,0 15.027,0 16.162,0 
2002 34.300,0 16.100,0 18.200,0 
2003(DK) 36.600,0 17.300,0 19.300,0 
Nguồn: Niên giám thống kê 
Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy rằng, kinh ngạch XNK của ta tăng liên 
tục. Từ 6876 triệu USD năm 19993 lên 30.119,2 triệu USD năm 2000, tức là sau 
7 năm kim nghạch XNK của ta đã tăng lên 2.243,2 triệu USD và 2 năm sau đó 
vẫn liên tục tăng. Sự chuyển đổi nền kinh tế đã thúc đẩy ngoại thương Việt Nam 
phát triển mạnh mẽ cả về nhập khẩu và xuất khẩu đồng thời tốc độ tăng trưởng 
về ngoại thương nhanh qua các năm và tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng của sản 
xuất. Tốc độ tăng trưởng bình quân qua các năm 1993 – 1996 là 38,64%, giai 
đoạn 1996 – 1999 là 8,3% và năm 2000 là 29%. Có thể thấy rằng, trong các năm 
1996 – 1999 tốc độ tăng trưởng giảm sút là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 
khu vực, nhưng bước sang năm 2000 tốc độ tăng trưởng trở lại bình thường đạt 
mức 
29% nhưng vẫn ở mức thấp. Mặc dù kim nghạch XNK của ta tăng không đều 
qua các năm song cũng thể hiện phần nào sự phát triển nền kinh tế của nước ta. Nếu 
xét riêng về xuất khẩu và nhập khẩu thì tốc độ tăng của nhập khẩu cao hơn tốc độ 
tăng của xuất khẩu. 
Về cơ cấu XNK của ta cũng có nhiều thay đổi, điều này được thể hiện qua bảng 
sau: 
Bảng 2: CƠ CẤU HÀNG HOÁ XNK CỦA NƯỚC TA GIAI ĐOẠN 1999 – 2003. 
1999 2000 2001 2002 2003 (DK) 
Chỉ tiêu 
KN 
(triệu $) 
TT 
(%) 
KN 
(triệu $) 
TT 
(%) 
KN 
(triệu $) 
TT 
(%) 
KN 
(triệu $) 
TT 
(%) 
KN 
(triệu 
$) 
TT 
(%) 
Về xuất khẩu 11.541,4 100 14.482,7 100 15.027,0 100 16.100 100 17.300 100 
1.HàngCNN và 
KS . 
3.609,5 
31,3 
5.382,1 
37,2 
4.600 
30,6 
4.750 
29,5 
4.800 
27,7 
2.Hàng CN 
nhẹ. 
4.243,2 36,8 
4.903,1 
33,8 
5.400 
35,9 
6.350 
39,4 
7.200 
42,3 
3. Nông, lâm , 
thủy sản. 
3.688,7 31,9 
4.197,5 
29,0 
5.027 
33,5 
5.000 
31,1 
5.300 
30,6 
Về nhập khẩu 
11.742,1 
100 
15.636,5 
100 
16.162 
1
100 
18.200 
100 
19.300 
100 
1. Máy móc thiết 
bị 
3.503,6 29,8 
4.781,5 
30,6 
4.700 
29,0 
5.400 
29,7 
5.800 
30,1 
2.Nguyên nhiên 
vật liệu. 
7.246,8 61,7 
9.886,7 
63,2 
10.612 
65,7 
11.950 
65,7 
12.600 
65,3 
3. Hàng tiêu 
dùng. 
991,7 8,5 
986,3 
6,2 
850 
6
6.3 
850 
4,6 
900 
4,6 
Nguồn: Niên gián thống kê 
Về xuất khẩu: Hàng nông – lâm – thuỷ sản năm 1999 chiếm 31,9% trong 
tổng kim ngạch xuất khẩu, bước sang năm 2000 thì giảm xuống chỉ đạt ở mức 
29% nhưng 2 năm tiếp theo lại có chiều hướng gia tăng. Hàng công nghiệp nặng 
và khoáng sản có chiều hướng giả dần qua các năm, năm 2000 đạt 37,2% tong 
tổng kim ngạch xuất khẩu nhưng đến năm 2001, 2002 đã giảm xuống còn 30,6%, 
29,5%. Cũng theo xu hướng này dự đoán đến năm 2003 giảm xuống chỉ còn 
27,7%. Điều này có thể do lượng khoáng sản ngày càng ít đi và ngành công 
nghiệp nặng phục vụ trong nước là chính. Chỉ có ngành công nghiệp nhẹ là tăng 
đều qua 4 năm qua và dự báo năm 2003 đạt 42,3%, tức là tăng 13,3% so với năm 
2000 và 11,2% so với năm 2002.. Nhìn chung, tình hình xuất khẩu của Việt Nam 
là tương đối ổn định, hàng nông, lâm, thuỷ sản vẫn chiếm tỷ trọng cao, duy chỉ 
có hàng công nghiệp nặng và khoáng sản là có xu hướng giảm đi. 
Về nhập khẩu: Việt Nam vẫn là nước có tỷ trọng nhập khẩu cao so với 
tổng kim ngạch XNK. Hàng nguyên, nhiên, vật liệu luôn chiếm tỷ trọng cao nhất 
đồng thời tăng liên tục qua các năm: năm 1999 đạt 61,7%, năm 2000, năm 2000 
đạt 63,2%, và năm 2001, năm 2002 đạt 65,7% chứng tỏ nước ta vẫn là nước 
nhập nguyên vật liệu nhiều nhất để phục vụ cho ngành công nghiệp hoá, hiện đại 
hoá đát nước. Hàng tiêu dùng chiếm tỷ trọng thấp nhất và giảm dần. Năm 1999 
đạt 85% đến năm 2002 còn 4,6% tức là giảm gần gấp đôi. Điều này do nước ta 
ngày càng sản xuất được các hàng tiêu dùng trong nước thay thế cho nhập khẩu. 
Hàng máy móc, thiết bị, phụ tùng thì khá ổn định chỉ giao động ở mức 29 – 30% 
. Sự thay đổi về cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam cho thấy nước ta đã đi đúng 
hướng trong việc đẩy mạnh nhập khẩu công nghệ và kỹ thuật và khả năng đáp 
ứng hàng tiêu dùng đã tăng lên do tự sản xuất được 
3.1.2 Về thị trường XNK. 
Phát triển thị trường XNK theo quan điểm Marketing hiện đại có nghĩa là 
không những mở rộng thêm những thị phần mới mà còn phải tăng thị phần của 
sản phẩm đó trong các thị phần đã có sẵn. Gần một thập kỷ qua thị trường XNK 
của Việt Nam đã có sự thay đổi sâu sắc. Nừu như trước đây chủ yếu buon bán 
với Liên Xô và Đông Âu, chiếm khoảng 80% kinh ngạch XNK thì hiện nay 
hàng hoávà dịch vụ của Việt Nam đã có mặt trên 140 quốc gia và vùng lãnh thổ 
trên thế giới. Việc chuyển hướng kịp thời đã tạo điều kiện để mở rộng qui mô 
XNK lựa chọn bạn hàng phù hợp và gíup cho nền kinh tế tăng trưởng một cách 
liên tục mặc dù có những biến động lớn ở Liên Xô và Đông Âu. 
+ Cá nước Châu Á: Là thị trường buôn bán chủ yếu của Việt Nam, chiếm 
63,65% tổng kim ngạch xuất khâu và 74- 75% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả 
nước thập kỷ qua, trong đó các nước lân cận chiếm 45%, đặc biệt là Nhật Bản, 
ASEAN, và Trung Quốc là những bạn hàng lớn của Việt Nam. Thei Bộ ngoại 
giao thì các nước APEC tiêu thụ từ Việt Nam toàn bộdầu thô xuất khẩu, gần 
70% gạo, 90% hạt điều, 90- 94% cao su, 80% hạt tiêu, 85% lạc nhân, 65% thuỷ 
sản, 60- 70% cà phê, 60% dệt may, 55- 60% dầy dép, 95- 96% thiếc thỏi, gần 
70% than đá. Về nhập khẩu, đại bộ phận hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam từ 
thị trường này với kim ngạch từ 75- 77%. Nhìn chung, thị trường Châu á tương 
đối ổn định và đầy triển vọng cho hàng hoá của ta vào thị trường này. 
+ Thị trường Nhật Bản: Là thị trường chiếm 16% tổng kim ngạch xuất 
khẩu, dự kiến kim ngạch xuất khẩu của ta vào Nhật Bản từ 21- 25% mỗi năm 
trong thời gian tới. Các mặt hàng Việt Nam xuất sang Nhật Bản bao gồm nông 
sản, thuỷ hải sản, may mặc… Bên cạnh đó còn có một số hàng công nghiệp như 
máy móc thiết bị. Tuy nhiên, thị trường Nhật Bản có những nét đặc thù, hệ thống 
quản lý chất lượng hàng nhập khẩu rất chặt chẽ, cách thức phân phối hàng theo 
kênh riêng…vì thế khi xuất khẩu sang thị trường này cần tìm hiểu rõ để tránh rủi 
ro. 
+ Thị trường EU: Phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu, được xây dựng trên 
cơ sở những mối quan hệ truyền thống và những thiết chế luật pháp được hai bên 
cam kết và tuân thủ. EU là thị trường tiêu thụ hàng hoá công nghiệp nặng và 
hàng tiêu dùng lớn nhất của Việt Nam khoảng 8% tổng hàng xuất khẩu sang EU 
+ Liên Bang Nga : là thị trường truyền thống và nhiều tiềm năng. Những 
năm gần đây, tuy kim ngạch XNK còn rất nhỏ bé so với tiềm năng, năm 1996 
kim ngạch xuất khảu sang Nga đạt 85 triệu USD, năm 1997 đạt 120 triệu USD 
năm 1998 là 132,6 triệu USD song là thị truờng hấp dẫn đối với các doanh nghiệp 
của Việt Nam 
Ngoài ra, nước ta còn quan hệ với nhiều nước khác như thị trường Châu 
Mỹ…cũng có nhiều triển vọng. 
3.2 Một số mặt còn tồn tại. 
Mặc dù đạ được những thành tựu đáng kể song ngoại thương Việt Nam vẫn 
còn nhiều hạn chế được thể hiện qua một số mặt sau. 
+ Về xuất khẩu: tốc độ tăng trưởng còn thấp và không đều qua các năm, dễ 
bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng khu vực và thế giới.Cơ cấu mặt hàng xuất 
khẩu còn lạc hậu, chất lượng thấp, mặt hàng manh mún, sức cạnh tranh còn 
yếu.Xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu thô chưa qua chế biến, sản phẩm của các 
ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản vẫn là các mặt 
hàng chủ yếu 
+ Về nhập khẩu: Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu liên tục tăng , chứng tỏ 
nước ta vẫn là nước nhập siêu cao. Hơn nữa nhập khẩu lãng phí, kém hiệu 
quả,việc buôn lậu trở lên nghiêm trọng gây tổn thất lớn. 
+ Về bạn hàng: Thị trường bấp bênh, chủ yếu qua trung gian,vẫn thu hẹp ở 
thị trường các nước trong khu vực, chưa phát triển nhiều ra các nước trên thế 
giới, thiếu hụt các hợp đồng lớn và dài hạn.Mặc dù thị trường có được mở rộng 
nhưng lượng xuất khẩu vẫn còn hạn chế vì thế rất gây bất lợi cho hàng hoá của 
nước ta. 
+ Cơ chế quản lý XNK chưa chặt chẽ để kiểm soát và ngăn chặn buôn lậu, 
chưa khuyến khích xuất khẩu, thủ tục còn nhiều rườm rà, bất cập, thông tin về 
thị trường còn thiếu, không kịp thờivà chính xác. 
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động XNK. 
Thị trường quốc tế chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác nhau thường 
là đa dạng và phong phú hơn nhiều so với thị trường nội địa. Chính vì vậy hoạt 
động kinh doanh XNK cũng phải chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố mà các 
nhân tố này có thể mang tính vĩ mô hoặc mang tính vi mô. Cụ thể hoạt động kinh 
doanh XNK chịu ảnh hưởng của những nhân tố sau: 
4.1 Nhân tố mang tính toàn cầu. 
Đó là nhân tố thuộc về hệ thống thương mại quốc tế. Mặc dù xu hướng 
chung trên thế giói là tự do mậu dịch và các nỗ lực chung để giảm bớt hàng rào 
ngăn cản đối với kinh doanh quốc tế, các nhà kinh do