Đói nghèo là một vấn đề mang tính toàn cầu, nó không chỉ là một thực
tế đang diễn ra ở nước ta mà còn là một tồn tại ở nhiều nước trên toàn thế
giới. Vào những năm cuối của thế kỉ XX, trên toàn thế giới vẫn còn hơn 1,3 tỉ
người sống dưới mức nghèo khổ, trong đó khoảng 800 triệu người sống ở các
quốc gia thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đây là một thách thức đối
với sự phát triển của các nước trên thế giới.
Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất thế giới, với gần 80%
dân số sống ở khu vực nông thôn và 70% lực lượng lao động trong lĩnh vực
nông nghiệp. Do sự phát triển chậm của lực lượng sản xuất, sự lạc hậu về
kinh tế và trình độ phân công lao động xã hội kém, dẫn tới năng xuất lao động
xã hội và mức tăng trưởng xã hội thấp. Với chủ trương phát triển một nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của N hà
nước, thì đây là một nhiệm vụ chiến lược của công cuộc phát triển kinh tế - xã
hội, vừa là phương tiện để đạt được mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh". Muốn đạt được mục tiêu này thì trước hết
phải xóa bỏ đói nghèo và lạc hậu. Đây là một trách nhiệm hết sức nặng nề của
Đảng và Nhà nước ta, bởi Nhà nước không chỉ đảm bảo nhu cầu tối thiểu cho
dân mà còn muốn xóa bỏ tận gốc các nguyên nhân dẫn tới đói nghèo trong
cộng đồng dân cư. Nhà nước ta đã và đang tập trung các nguồn lực và triển
khai đồng bộ, thống nhất và hiệu quả các giải pháp, chính sách, xóa đói giảm
nghèo phải trở thành chương trình mục tiêu quốc gia, phù hợp với định hướng
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhằm hỗ trợ trực tiếp các xã nghèo,
hộ nghèo các điều kiện cần thiết để phát triển sản xuất, tăng thu nhập, ổn định
đời sống, tự vươn lên thoát khỏi đói nghèo.
115 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2630 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công cuộc xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Điện Biên (giai đoạn 2004-2010), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THÚY HẰNG
CÔNG CUỘC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH ĐIỆN BIÊN
(GIAI ĐOẠN 2004-2010)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.54
HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN XUÂN MINH
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
2
MỤC LỤC
Trang
CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN ...................................................... 3
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 4
Chƣơng 1: Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Điện Biên
1.1. §iÒu kiÖn tù nhiªn ................................................................................... 9
1.2. Điều kiện kinh tế ................................................................................... 15
1.3. Điều kiện xã hội………………………………………………………...16
Chƣơng 2: Công cuộc xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Điện Biên từ
năm 2004 đến năm 2010
2.1. Công cuộc xoá đói giảm nghèo trước khi thành lập tỉnh Điện Biên..….21
2.2. Công cuộc xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Điện Biên……………………...32
Chƣơng 3: Những chuyển biến về kinh tế - xã hội tỉnh Điện Biên
3.1. Những chuyển biến kinh tế……………………………………………..80
3.2. Những chuyển biến xã hội……………………………………………...87
KÕt luËn…………………………………………………………………90
Tµi liÖu tham kh¶o…………………………………………………95
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
3
Ch÷ viÕt t¾t trong LuËn v¨n
Chữ viết tắt Đọc là
BCH Ban chấp hành
CSHT Cơ sở hạ tầng
CT Công trình
CT Chương trình
DTTS Dân tộc thiểu số
ĐCĐC Định canh định cư
ĐBKK Đặc biệt khó khăn
HĐND Hội đồng nhân dân
TTCX Trung tâm cụm xã
QĐ Quyết định
KH Kế hoạch
NSĐP Ngân sách địa phương
KCB Khám chữa bệnh
Bộ LĐ-TB-XH Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội
UBDT Ủy ban dân tộc
UBND Ủy ban nhân dân
UBDT-MN Ủy ban Dân tộc – miền núi
UBKHHGĐ Ủy ban kế hoạch hóa gia đình
MTTQ Mặt trận Tổ quốc
KT-XH Kinh tế - xã hội
XĐGN Xóa đói giảm nghèo
XĐGN-VL Xóa đói giảm nghèo – việc làm
ND Nông dân
KHKT Khoa học kỹ thuật
BHXH Bảo hiểm xã hội
BHYT Bảo hiểm y tế
TĐC Tái định cư
THCS Trung học cơ sở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đói nghèo là một vấn đề mang tính toàn cầu, nó không chỉ là một thực
tế đang diễn ra ở nước ta mà còn là một tồn tại ở nhiều nước trên toàn thế
giới. Vào những năm cuối của thế kỉ XX, trên toàn thế giới vẫn còn hơn 1,3 tỉ
người sống dưới mức nghèo khổ, trong đó khoảng 800 triệu người sống ở các
quốc gia thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đây là một thách thức đối
với sự phát triển của các nước trên thế giới.
Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất thế giới, với gần 80%
dân số sống ở khu vực nông thôn và 70% lực lượng lao động trong lĩnh vực
nông nghiệp. Do sự phát triển chậm của lực lượng sản xuất, sự lạc hậu về
kinh tế và trình độ phân công lao động xã hội kém, dẫn tới năng xuất lao động
xã hội và mức tăng trưởng xã hội thấp. Với chủ trương phát triển một nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà
nước, thì đây là một nhiệm vụ chiến lược của công cuộc phát triển kinh tế - xã
hội, vừa là phương tiện để đạt được mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh". Muốn đạt được mục tiêu này thì trước hết
phải xóa bỏ đói nghèo và lạc hậu. Đây là một trách nhiệm hết sức nặng nề của
Đảng và Nhà nước ta, bởi Nhà nước không chỉ đảm bảo nhu cầu tối thiểu cho
dân mà còn muốn xóa bỏ tận gốc các nguyên nhân dẫn tới đói nghèo trong
cộng đồng dân cư. Nhà nước ta đã và đang tập trung các nguồn lực và triển
khai đồng bộ, thống nhất và hiệu quả các giải pháp, chính sách, xóa đói giảm
nghèo phải trở thành chương trình mục tiêu quốc gia, phù hợp với định hướng
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhằm hỗ trợ trực tiếp các xã nghèo,
hộ nghèo các điều kiện cần thiết để phát triển sản xuất, tăng thu nhập, ổn định
đời sống, tự vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Đại hội VIII của Đảng đã xác
định: “XĐGN là một trong những chương trình phát triển kinh tế- xã hội vừa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
5
cấp bách trước, vừa cơ bản lâu dài”. Do vậy, Thủ tướng Chính phủ đã phê
duyệt và triển khai chương trình mục tiêu Quốc gia XĐGN.
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về phát triển
kinh tế- xã hội và XĐGN, cho đến nay tất cả các tỉnh, thành trong cả nước đã
xây dựng chương trình XĐGN phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội
của từng địa phương, từng khu vực nhằm XĐGN và lạc hậu, góp phần tích
cực vào cải cách nền kinh tế.
Điện Biên là một tỉnh nghèo miền núi phía Tây Bắc Tổ quốc, với diện
tích tự nhiên: 955.409 km2, tổng dân số khoảng 491.172 người (số liệu năm
2009), gồm 21 dân tộc anh em chung sống. Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt,
trình độ dân trí thấp, việc chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân còn kém, tốc độ
tăng dân số cao, các cơ sở vật chất hạ tầng như: (điện sinh hoạt, đường giao
thông, trường học, trạm y tế) còn thiếu thốn và yếu kém, đã làm cho nền kinh
tế của tỉnh chậm phát triển, sản xuất chủ yếu là tự cung tự cấp. Do vậy, xoá
đói giảm nghèo được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công cuộc
phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Điện Biên nói riêng và của cả nước nói
chung. Vậy nên, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Công cuộc xoá đói giảm
nghèo ở tỉnh Điện Biên giai đoạn 2004 đến nay" để làm Luận văn Thạc sĩ
Khoa học Lịch sử.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Xoá đói giảm nghèo là chủ trương lớn và nhất quán của Đảng và Nhà
nước ta nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu
hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân
tộc. Vì vậy, vấn đề này được đề cập trong nhiều tài liệu.
Tác phẩm ''Xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm'' do Bộ Lao
động- Thương binh-Xã hội, xuất bản năm 2003 đã đề cập vấn đề xoá đói giảm
nghèo ở Việt Nam khá cụ thể.
Trong các kì đại hội cũng như trong nhiều chỉ thị, nghị quyết, Đảng và
Nhà nước đều nêu vấn đề xoá đói giảm nghèo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
6
Cuốn ''Cẩm nang giảm nghèo'' của Văn phòng Điều phối chương trình
mục tiêu quốc gia giảm nghèo – Cục Bảo trợ xã hội đã cụ thể hoá, quy trình
hoá việc thực hiện các chính sách giảm nghèo hiện hành.
Bên cạnh đó còn có nhiều tài liệu liên quan tới vấn đề xoá đói giảm
nghèo khác.
Trên đây là những nguồn tài liệu vô cùng quý giá để chúng tôi tham
khảo và hoàn thành công trình nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, vấn đề xoá
đói giảm nghèo ở tỉnh Điện Biên từ năm 2004 đến nay chưa cú cụng trỡnh
nào đề cập. Đó chính là vấn đề chúng tôi quan tâm và giải quyết trong đề tài
nghiên cứu của mình.
3. Đối tƣợng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề xoá đói giảm nghèo ở tỉnh
Điện Biên.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: tỉnh Điện Biên.
- Phạm vi thời gian: 2004- 2010.
Tuy nhiên, để có cơ sở so sánh và làm rõ yêu cầu của đề tài, Luận văn đề
cập đến công cuộc XĐGN trong thời gian trước khi tỉnh Điện Biên được
thành lập (2004).
3.3. Nhiệm vụ của đề tài
- Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Điện Biên.
- Nêu rõ quá trình thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo tỉnh Điện Biên.
- Đánh giá những chuyển biến kinh tế- xã hội thông qua việc thực hiện
XĐGN.
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
7
Nguồn tài liệu gồm các văn bản tập huấn cho cán bộ xoá đói giảm nghèo
các cấp, các sách liên quan đến vấn đề nghiên cứu đã xuất bản,...Ngoài ra, còn
có tài liệu thu thập được qua quá trình thực tế ở địa phương.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch
sử kết hợp với phương pháp lôgic là chủ yếu. Ngoài ra, còn sử dụng phương
pháp tổng hợp, so sánh, phân tích để làm rõ vấn đề.
5. Đóng góp của Luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên trình bày hệ thống quá trình XĐGN của
tỉnh Điện Biên.
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho sinh viên khoa Lịch sử khi học tập,
nghiên cứu về các vấn đề có liên quan.
6. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn
được cấu tạo thành 03 chương:
Chương 1: Khát quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Điện Biên.
Chương 2: Công cuộc xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Điện Biên từ năm 2004
đến năm 2010.
Chương 3: Những chuyển biến về kinh tế- xã hội tỉnh Điên Biên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
9
Chƣơng 1
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI TỈNH ĐIỆN BIÊN
1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.1. Kh¸i qu¸t sù thµnh lËp tØnh §iÖn Biªn vµ vị trí địa lí
Thuở xưa, Điện Biên có tên gọi là Mường Thanh (tên gọi này đọc theo
âm Hán - Việt của từ Mường Then, có nghĩa là Mường Trời). Vào thế kỉ
XVIII, Hoàng Công Chất chiếm vùng đất này từ tay của người Lự. Năm
1778, nhà Lê đặt làm châu Ninh Biên, thuộc phủ Gia Hưng. Tên gọi Điện
Biên
(1) do vua Thiệu Trị đặt vào năm 1841 và là một phủ thuộc tỉnh Hưng Hoá
(sau đổi thành tỉnh Vạn Bú). Phủ Điện Biên gồm 3 châu: Ninh Biên, Tuần
Giáo và Lai Châu.
Ngày 7/5/1955, Khu Tự trị Tây Bắc được thành lập. Điện Biên là một
trong 16 châu của Khu Tự trị. Th¸ng 12 n¨m 1962, ch©u §iÖn Biªn ®æi thµnh
huyÖn §iÖn Biªn, thuéc tØnh Lai Ch©u. N¨m 1990, tØnh lị Lai Ch©u ®•îc
chuyÓn vÒ §iÖn Biªn.
Ngµy 26 th¸ng 9 n¨m 2003, ChÝnh phñ ra NghÞ ®Þnh thµnh lËp thµnh phè
§iÖn Biªn Phñ (thµnh phè ®Çu tiªn cña vïng T©y B¾c ViÖt Nam).
TiÕp ®ã, ngµy 26 th¸ng 11 n¨m 2003, Quèc héi kho¸ XI ®· th«ng qua
NghÞ quyÕt t¹i kì häp thø 4 vÒ viÖc chia vµ ®iÒu chØnh ®Þa giíi hµnh chÝnh tØnh
Lai Ch©u vµ tØnh §iÖn Biªn. Theo ®ã, phần đất nằm ở bờ nam sông Đà của
tỉnh Lai Châu, diện tích trên 955.400 ha, dân số trên 440.000 là thuộc tỉnh
Điện Biên gồm: thành phố Điện Biên Phủ, thị xã Lai Châu (trừ phường Lê
Lợi), Mường Nhé, Điện Biên, Điện Biên Đông, Tuần Giáo, Tủa Chùa và một
phần huyện Mường Lay; tỉnh lị là thành phố Điện Biên Phủ. Tỉnh Lai Châu là
phần đất còn lại bên bờ bắc sông Đà, cộng thêm huyện Than Uyên của Lào
Cai cắt sang. §Õn ngày 1/1/2004, tØnh §iÖn Biªn chính thức đi vào hoạt động.
(1). Điện nghĩa là vững chãi, Biên nghĩa là vùng biên giới, biên ải.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
10
Sau khi chia tách tỉnh, Điện Biên có 8 đơn vị hành chính trực thuộc: 1
thành phố, 1 thị xã và 6 huyện (4 huyện nghèo thuộc Đề án 30a của Chính
phủ); gồm 88 xã, phường, trong đó có 59 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn và
biên giới, 14 xã nghèo ngoài Chương trình 135/CP, 65 xã thuộc vùng II và
vùng III.
Điện Biên là một tỉnh miền núi thuéc vïng Tây Bắc Tæ quèc ViÖt Nam,
có tọa độ địa lÝ từ 20o54'- 22o33' vĩ Bắc và 102o10' - 103o36' kinh Đông Về
phía bắc, tỉnh Điện Biên giáp tỉnh Lai Châu, phía ®ông và ®ông bắc giáp tỉnh
Sơn La, phía tây bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), phía tây và tây nam
giáp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
1.1.2. Địa hình
Do ảnh hưởng của các hoạt động kiến tạo nên địa hình của Điện Biên
rất phức tạp, được cấu tạo bởi những dãy núi ®¸ chạy dài theo hướng tây bắc -
đông nam với độ cao biến đổi từ 200m đến hơn 1.800 mét. Địa hình thấp dần
từ bắc xuống nam và nghiêng dần từ tây sang đông.
Chen vào giữa những dãy núi xanh thẫm là những cánh đồng trù phú
trong c¸c thung lũng nhỏ hẹp, th•êng xuyªn ®•îc båi ®¾p phï sa mµu mì bëi
c¸c con sông Mã, Nậm Mấc và Nậm Núa.
Nằm gọn giữa những dãy núi ®¸ lµ cánh đồng Mường Thanh víi chiÒu dµi
20km, chiÒu réng 5km, næi tiÕng ph× nhiªu nhÊt cña vïng T©y B¾c: “Nhất
Thanh, nhị Lò, tam Than, tứ Tấc”( 1)[23, tr.13-14].
1.1.3. Khí hậu, sông ngòi
- Khí hậu
Điện Biên có khí hậu nhiệt đới gió mùa núi cao. Nhiệt độ trung bình
(1). Ở Tây Bắc có bốn vựa lúa, thì thứ nhất là Mường Thanh, gạo nước nuôi sống được vài chục vạn
người; thứ nhì là Mường Lò, tức cánh đồng Nghĩa Lộ, thuộc huyện Văn Chấn; thứ ba là Mường
Than, tức cánh đồng Than Uyên ở phía bắc tỉnh Nghĩa Lộ cũ; thứ tư là Mường Tấc, tức cánh đồng
Phù Yên phía nam tỉnh Sơn La, trên con đường từ Sơn La đi Yên Bái.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
11
hằng năm từ 21 - 23oC. Khí hậu chia thành hai mùa rõ rệt. Mùa khô bắt đầu từ
tháng 10 và kết thúc vào tháng 5 năm sau. Mùa mưa bắt đầu từ tháng sáu và
kết thúc vào tháng chín, tháng mười. §ộ ẩm không khí trung bình h»ng năm
từ 80 - 85%. Số giờ nắng h»ng năm bình quân từ 1.580- 1.800 giờ. Do diện
tích tự nhiên rộng, địa hình lại bị chia cắt nên khí hậu ở đây bị phân hoá thành
3 tiểu vùng rõ rệt: tiểu vùng khí hậu Mường Nhé, tiểu vùng khí hậu Mường
Lay và tiểu vùng khí hậu cao nguyên Sơn La và thượng nguồn sông Mã.
- Sông ngòi:
Toàn tỉnh có hơn 10 hồ lớn và hơn 1.000 sông, suối lớn nhỏ phân bố
tương đối đồng đều trong tỉnh nên nguồn nước mặt ở Điện Biên rất phong phú
theo 3 hệ thống sông chính là sông Đà, sông Mã và sông Mê Kông.
Sông Đà ở phía Bắc tỉnh (giáp với tỉnh Lai Châu) bắt nguồn từ Vân
Nam (Trung Quốc) qua Mường Tè (tỉnh Lai Châu) - thị xã Mường Lay - Tuần
Giáo rồi chảy về tỉnh Sơn La. PhÇn l•u vùc ch¶y qua địa bàn Điện Biên, s«ng
§µ có các phụ lưu chính là Nậm Ma, Nậm Bum, Nậm Pô, Nậm Mức...
Hệ thống sông Mã có các phụ lưu chính là sông Nậm Khoai thuộc huyện
Tuần Giáo và sông Nậm Mạ thuộc huyện Điện Biên với diện tích lưu vực
2.550 km2. Đây là hệ thống sông lớn thứ hai của tỉnh.
Hệ thống sông Mê Kông có diện tích lưu vực là 1.650 km2 với các
nhánh chính là sông Nậm Rốm, Nậm Núa. Sông Nậm Rốm bắt nguồn từ bắc
huyện Điện Biên qua thành phố Điện Biên Phủ - Pa Thơm (huyện Điện Biên)
rồi chảy sang Lào. Sông Nậm Núa bắt nguồn từ Mường Nhà chảy theo hướng
nam - bắc sau đó chuyển sang hướng đông – tây, hîp l•u víi s«ng Nậm Rốm
ở lòng chảo Điện Biên rồi chảy sang Lào.
Đặc điểm chung của các sông suối trong tỉnh là có độ dốc lớn, lắm thác
nhiều ghềnh, nhất là các sông suối thuộc hệ thống sông Đà và sông Nậm
Rốm. Do do, tiÒm năng thuỷ điện rất lớn, có thể phục vụ đắc lực cho công
cuộc XĐGN của tỉnh.
1.1.4. Tài nguyên thiên nhiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
12
Trong s¸ch “Kiến văn tiểu lục”, Lê Quý Đôn cã mét nhận xét: “Châu
này, thế núi vòng quanh, nước sông bao bọc, đồn sở ở giữa, ruộng đất bằng
phẳng màu mỡ, bốn bên đến chân núi, đều phải đi một ngày đường, công việc
làm ruộng bằng nửa công việc châu khác, mà số hoa lợi thu lại gấp đôi. Thổ
sản có sa nhân, sáp vàng, diêm tiêu, lưu hoàng và sắt sống. Có một quả núi,
nước suối rất mặn, thú rừng thời th•êng đến uống, người địa phương dùng nỏ
bắn được rất nhiều, tục gọi là “mỏ thịt” [34, tr.359-360].
Như vậy, tỉnh Điện Biên có nguồn tài nguyên thiên nhiên rất phong phú,
trong đó đất và rừng là những nguồn tài nguyên quan trọng nhất.
1.1.4.1. Tµi nguyªn §Êt
Điện Biên có tổng diện tích đất tự nhiên là 955.409 ha với các nhóm:
đất phù sa, đất đen, đất mùn vàng đỏ trên núi, hầu hết có độ dốc lớn, tầng
canh tác mỏng. Hơn 70% quỹ đất của tỉnh có độ dốc trên 25o thích hợp cho
phát triển lâm nghiệp, trồng và khoanh nuôi tái sinh rừng. Diện tích có độ dốc
từ 15 - 25o chiếm 25%. Đất có độ dốc dưới 15o chỉ chiếm 4% quỹ đất của
tỉnh, trong đó khoảng 75% quỹ đất có tầng dày trên 50 cm...
Quỹ đất thích hợp cho gieo trồng lúa nước chỉ chiếm khoảng 1,5%
tổng diện tích tự nhiên, bao gồm các loại đất phân bố ở độ dốc dưới 8o; chủ
yếu là nhóm đất phù sa.
Quỹ đất thích hợp cho cây ngắn ngày khác (lúa nương, hoa màu, cây
công nghiệp ngắn ngày...) chiếm khoảng 1,6% tổng diện tích tự nhiên, bao
gồm các loại đất có độ dốc 8 – 15o, tầng dày trên 70cm, chủ yếu là nhóm đất
feralit đỏ vàng và mùn vàng đỏ trên núi.
Quỹ đất thích hợp cho phát triển cây dài ngày theo phương thức nông
lâm kết hợp chiếm khoảng 18% tổng diện tích tự nhiên; gồm các loại đất phân
bố ở độ dốc dưới 15o, tầng dày từ 50 - 70cm và ở độ dốc từ 15 – 25o, tầng đất
dày trên 70cm. Chủ yếu là nhóm đất feralit đỏ vàng và mùn vàng đỏ trên núi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
13
Quỹ đất dành cho phát triển lâm nghiệp chiếm khoảng 75% tổng diện
tích tự nhiên, bao gồm các loại đất nằm ở độ dốc trên 25o và một phần đất ở
độ dốc dưới 25o.
Diện tích đất đang sử dụng vào sản xuất nông, lâm nghiệp của Điện
Biên có 479.817ha, chiếm 50,2% diện tích tự nhiên của tỉnh. Trong đó đất sử
dụng vào sản xuất nông nghiệp là 111.749ha, chiếm 11,6% diện tích tự nhiên;
đất sử dụng vào sản xuất lâm nghiệp là 367.398 ha, chiếm 38,5% và mặt nước
nuôi trồng thủy sản là 670ha, chiếm 0,07% diện tích tự nhiên của tỉnh. Đất
chưa sử dụng có 225.594 ha, chiếm 23,6% tổng diện tích tự nhiên, cùng với
khoảng 189.000 ha đất lâm nghiệp chưa có rừng. Tuy hầu hết là đất dốc, chỉ
thích hợp để phát triển sản xuất lâm nghiệp, nhưng được xác định là nguồn tài
nguyên quí giá, một thế mạnh cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, gãp
phÇn tÝch cùc vµo viÖc XDGN.
1.1.4.2. Tµi nguyªn rõng vµ ®Êt rõng
Là tỉnh miền núi nên Điện Biên có tiềm năng rừng và đất rừng rất lớn.
Toàn tỉnh có tới 757.937ha rừng và đất rừng, chiếm 79,3% tổng diện tích tự
nhiên. Năm 2004, tổng diện tích đất có rừng của Điện Biên là 367.398 ha,
chiếm 48,5% tiềm năng đất rừng và đạt tØ lệ che phủ 38,5%, trong đó rừng tự
nhiên là 356.225 ha, chiếm 96,9% đất có rừng; rừng trồng là 11.225 ha chiếm
3,1%. Hầu hết rừng ở Điện Biên hiện nay là rừng phòng hộ. Trong số hơn
466.000 ha đất chưa sử dụng thì diện tích đất đã quy hoạch cho phát triển lâm
nghiệp của tỉnh là 397.989 ha. Nh×n chung, đất đai ở Điện Biên chủ yếu được
trồng rừng, với mục đích che phủ là chính, chưa chú trọng đến việc trồng các
loại cây có hiệu quả kinh tế cao, như cây lấy gỗ, làm nguyên liệu cho sản xuất
đồ gỗ xuất khẩu. Trong rừng có nhiều loại gỗ quý hiếm, có giá trị kinh tế cao
như: lát, chò chỉ, nghiến, táu, pơmu… ngoài ra còn có các loại cây đặc sản
khác, như cánh kiến đỏ, song, mây…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
14
Không chỉ có nhiều loại thực vật quý hiếm, rừng Điện Biên còn có 61
loài thú, 270 loài chim, 27 loài động vật lưỡng cư, 25 loài bò sát, 50 loài cá
đang sinh sống. Đặc biệt, khu quy hoạch bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé với
diện tích rừng nguyên sinh còn khá lớn với các loài động, thực vật phong phú
là tài nguyên quý để bảo tồn và xây dựng hình thành vườn quốc gia tại khu vực
này. Đây là những lợi thế để khai thác, phát triển nền nông nghiệp đa dạng
(lương thực, chăn nuôi, cây công nghiệp, rừng …) với chất lượng cao gắn với
công nghiệp chế biến.
Tuy nhiªn, những năm gần đây, do nạn đốt rừng và săn bắt chim thú bõa
b·i, nên lượng chim thú quý trong rừng ngày càng giảm, một số loài đang có
nguy cơ bị tuyệt chủng.
1.1.4.3. Tài nguyên nước
Tỉnh Điện Biên có hệ thống ao hồ và sông suối khá phong phú.
Nguồn nước mặt ở Điện Biên tập trung theo 3 hệ thống sông chính là
sông Đà, sông Mã và sông Mê Kông. Thªm vµo ®ã, tØnh cßn cã nh÷ng hå
n•íc réng mªnh m«ng nh•: Hồ Pa Khoang rộng trên 600ha, hồ Huổi Phạ rộng
trên 300ha... Do vËy, tØnh cã tiÒm n¨ng rÊt lín vÒ ph¸t triÓn thuû s¶n. MÆt
kh¸c, do đặc điểm của địa hình, độ dốc dòng chảy lớn, lưu lượng dòng chảy
mạnh nên có tiềm năng thuỷ điện khá phong phú và đa dạng về quy mô. Đây
là một thế mạnh để xây dựng phát triển các công trình thủy điện kết hợp thủy
lợi cung cấp nguồn điện cho lưới điện quốc gia và tưới tiêu phục vụ sản xuất
nông nghiệp. Tuy nhiên, việc khai thác các tiềm năng này còn h¹n chÕ. NÕu
®•îc khai th¸c tèt sÏ gãp phÇn to lín vµo c«ng t¸c X§GN cña tØnh. Hiện nay,
trên địa bàn tỉnh mới có một số nhà máy thuỷ điện như Nà Lơi 9.300