Những năm 1980 là thời kỳ mà cả trong nước và quốc tế đều có nhiều biến đổi, trong đó có những biến đổi làm đảo ngược cả tư duy con người. Đó là :
- Sau 10 năm tiếp tục thực hiện chiến lược CNH hướng nội trong điều kiện đất nước thống nhất, nền kinh tế Việt Nam vẫn nằm trong trạng thái trì trệ: sản xuất nông nghiệp thấp kém, không đáp ứng được nhu cầu trong nước; công nghiệp nặng đầu tư lớn nhưng hiệu quả thấp; nhiều mặt hàng tiêu dùng thiếu trầm trọng; dấu hiệu của suy thoái và khủng hoảng kinh tế đã dần dần xuất hiện và bộc lộ rõ nét vào cuối những năm 1970 và suốt nhưng năm tiếp theo. Có thể nói, chưa bao giờ nền kinh tế đất nước lại lâm vào tính trạng khó khăn như giai đoạn này.
- Xu thế tự do hóa và quốc tế hóa phát triển mạnh, nhất là trên phương diện thương mại, đầu tư và chuyển giao công nghệ cũng đặt Việt Nam trước những thách thức mới trong quá trình thực hiện CNH, HĐH. Sự hợp tác với các nước kinh tế phát triển tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam có được những công nghệ hiện đại, nguồn nguyên liệu bổ sung, kinh nghiệm công nghiệp hóa , song cũng đặt Việt Nam trước những cuộc cạnh tranh gay gắt mà nếu không biết nắm bắt cơ hội và khắc phục khó khăn thì sẽ có nguy cơ ngày càng tụt hậu xa so với các nước.
- Nhiều nước đã chuyể hướng chiến lược CNH từ thay thế nhập khẩu sang hướng xuất khẩu và đã đạt được nhiều thành công. Một loạt các nước công nghiệp mới (NICs) ra đời phản ánh xu thế đúng đắn trong phát triển toàn cầu. Trong khi đó, cũng thời kỳ này mặc dù đã có bước phát triển khả quan hơn so với 1976-1980, song chiến lược và chính sách CNH ở nước ta đã không bắt nhịp được với xu thế thời đại, nặng về hướng nội trong khi sức mua của thị trường thấp, mag tính tự cung tự cấp. Vì vậy, nền kinh tế trì trệ, hiệu quả thấp và hàng hóa thiếu sức cạnh tranh.
- Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu đã làm mất đi thị trường và sự giúp đỡ to lớn đối với nước ta ( ước tính bình quân 1 tỷ USD/năm, chiếm khoảng 7% GDP). Sự chuyển đổi cơ chế kinh tế của Liên Xô thật sự đã có ảnh hưởng quan trọng đối với công cuộc CNH ở Việt Nam, nó đánh dấu sự từ bỏ con đường CNH theo mô hình chiến lược cũ đã từng tồn tại 25 năm qua.
32 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 11108 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa của Việt nam thời kỳ sau đổi mới từ 1986 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa của Việt nam thời kỳ sau đổi mới từ 1986 đến nay
I – Bối cảnh lịch sử
Những năm 1980 là thời kỳ mà cả trong nước và quốc tế đều có nhiều biến đổi, trong đó có những biến đổi làm đảo ngược cả tư duy con người. Đó là :
Sau 10 năm tiếp tục thực hiện chiến lược CNH hướng nội trong điều kiện đất nước thống nhất, nền kinh tế Việt Nam vẫn nằm trong trạng thái trì trệ: sản xuất nông nghiệp thấp kém, không đáp ứng được nhu cầu trong nước; công nghiệp nặng đầu tư lớn nhưng hiệu quả thấp; nhiều mặt hàng tiêu dùng thiếu trầm trọng; dấu hiệu của suy thoái và khủng hoảng kinh tế đã dần dần xuất hiện và bộc lộ rõ nét vào cuối những năm 1970 và suốt nhưng năm tiếp theo. Có thể nói, chưa bao giờ nền kinh tế đất nước lại lâm vào tính trạng khó khăn như giai đoạn này.
Xu thế tự do hóa và quốc tế hóa phát triển mạnh, nhất là trên phương diện thương mại, đầu tư và chuyển giao công nghệ cũng đặt Việt Nam trước những thách thức mới trong quá trình thực hiện CNH, HĐH. Sự hợp tác với các nước kinh tế phát triển tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam có được những công nghệ hiện đại, nguồn nguyên liệu bổ sung, kinh nghiệm công nghiệp hóa… , song cũng đặt Việt Nam trước những cuộc cạnh tranh gay gắt mà nếu không biết nắm bắt cơ hội và khắc phục khó khăn thì sẽ có nguy cơ ngày càng tụt hậu xa so với các nước.
Nhiều nước đã chuyể hướng chiến lược CNH từ thay thế nhập khẩu sang hướng xuất khẩu và đã đạt được nhiều thành công. Một loạt các nước công nghiệp mới (NICs) ra đời phản ánh xu thế đúng đắn trong phát triển toàn cầu. Trong khi đó, cũng thời kỳ này mặc dù đã có bước phát triển khả quan hơn so với 1976-1980, song chiến lược và chính sách CNH ở nước ta đã không bắt nhịp được với xu thế thời đại, nặng về hướng nội trong khi sức mua của thị trường thấp, mag tính tự cung tự cấp. Vì vậy, nền kinh tế trì trệ, hiệu quả thấp và hàng hóa thiếu sức cạnh tranh.
Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu đã làm mất đi thị trường và sự giúp đỡ to lớn đối với nước ta ( ước tính bình quân 1 tỷ USD/năm, chiếm khoảng 7% GDP). Sự chuyển đổi cơ chế kinh tế của Liên Xô thật sự đã có ảnh hưởng quan trọng đối với công cuộc CNH ở Việt Nam, nó đánh dấu sự từ bỏ con đường CNH theo mô hình chiến lược cũ đã từng tồn tại 25 năm qua.
II. Quá trình điều chỉnh chiến lược và chính sách CNH-HĐH ở nước ta từ 1986 đến nay.
Đại hội VI (1986)
- Trước hình trong nước và quốc tế đó, Đại hội VI (1986) đã nghiêm khắc “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật” về khuyết điểm sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước về lãnh đạo và quản lý kinh tế trong thời kỳ trước và và đề ra chiến lược CNH đất nước cho những năm này là “ ngay từ đầu, chúng ta kết hợp chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp, bao gồm công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng, để từng bước hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Bằng cách đó khắc phục khuyết điểm tách rời công nghiệp với nông nghiệp, hướng công nghiệp nặng phục vụ thiết thực và có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, khắc phục từng bước sự lạc hậu của kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông vận tải trong nền kinh tế nước ta”.
Đại hội cũng đề ra chính sách CNH phù hợp hơn. Đại hội xác định rõ: “Bảo đảm cho nông nghiệp, kể cả lâm nghiệp, ngư nghiệp thật sự là mặt trận hàng đầu … Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, tiểu công nghiệp và thủ công nhiệp, đáp ứng cho được nhu cầu về hàng tiêu dùng thông thường, về chế biến nông, lâm, thủy sản … Tiếp tục xây dựng một số cơ sở công nghiệp nặng và kế cấu hạ tầng, trước hết là năng lượng và giao thông vận tải phù hợ với điều kiện thực tế, nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế, quốc phòng trong chặng đường đầu tiên, và chuẩn bị tiền đề cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa trong chặng đường tiếp theo”
Trước mặt, cần thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn : lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Ba chương trình này liên quan chặt chẽ đến nhau. Phát triển lương thực – thực phẩm và hàng tiêu dùng là nhằm đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho đời sống nhân dân sau mấy chục năm chiến tranh ác liệt và trong bối cảnh của nền kinh tế còn đang trong tình trạng thiếu hụt hàng hóa nghiêm trọng, góp phần ổn định kinh tế - xã hội. Xác định thứ tự ưu tiên đó đã cho phép phát huy sức mạnh nội lực và tranh thủ sức mạnh từ bên ngoài để phát triển kinh tế - xã hội.
Đây là sự thay đổi trong lựa chọn mô hình chiến lược CNH, chuyển từ mô hình hướng nội ( thay thế nhập khẩu ) trước đây bằng mô hình hỗn hợp (hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu).
- Những thành tựu đạt được:
Sự chuyển hướng trên cùng với nhưng thay đổi cơ chế quản lý kinh tế đã tạo nên nhưng thành tự đáng khích lệ, tạo ra nhưng điều kiện ban đầu quan trọng để triển khai CN hóa trong nhưng năm tiếp theo. Nhưng thành tựu cơ bản là :
+ Nền kinh tế có bước phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. từ chỗ thiếu lương thực triền miên trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 3, rồi thứ 2 trên thế giới.
Các chỉ tiêu
1986
1990
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
2,8
5,1
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp
10,8
2,3
Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp
3
1
Tốc độ tăng giá trị xuất khẩu
13
23,5
(Đơn vị: %)
+ Hình thành một số mặt hàng xuất khẩu cơ bản như gạo, than đá, dầu mở, lâm hải sản …
+ Cơ cấu kinh tế 1986: 30,1 – 28,9 – 33%
1990: 38,7 – 22,7 – 38,6%
+ Cơ cấu CN: nhóm A chiếm 33,5%/1981-1985 xuống 32,9%/1990
Nhóm B chiếm 66,5%1981-1985 lên 67,1%/1990
+ Luật đầu tư nước ngoài được ban hành ( năm 1987).
Vốn FDI ( đăng ký) 1988: 380 triệu USD; năm 1990: 589triệuUSD
+ Lần đầu tiên sau 30 năm Việt Nam có gạo xuất khẩu. Năm 1989 xuất khẩu 1,4 triệu tấn. Đến năm 2004 đạt hơn 4 triệu tấn (941 triệu USD). Tổng số gạo xuất khẩu của 16 năm đạt hơn 45,14 triệu tấn (10,77 tỷ USD), chiếm 13-16% thị phần gạo thế giới, trong đó có 13 năm đứng thứ 2 TG.
+ Lạm phát từ mức 3 con số giảm xuống còn 2 con số:
Năm 1986: 774,7%
Năm 1990: 67,1%
Những hạn chế :
Những hạn chế, bất cập của cơ cấu kinh tế (CCKT) có thể nhìn nhận ở một số khía cạnh khách quan, chủ quan sau:
Thứ nhất, với CCKT ngành, chúng ta đang ở những bước đi đầu tiên của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, việc bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư phục vụ cho ba chương trình kinh tế là phù hợp với quy luật và thực tiễn, đem lại những kết quả quan trọng bước đầu. Chính vì vậy, những bất cập nảy sinh trong quá trình vận động của CCKT ngành những năm cuối của thập kỷ 80 là sự “ đòi hỏi” chính đáng của qui luật phát triển kinh tế, của lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình độ cao hơn.
Thứ hai, việc xác định CCKT vùng lãnh thổ “ phải trên cơ sở điều tra, khảo sát, đánh giá đầy đủ về tự nhiên, tiềm năng kinh tế- xã hội, sự phát triển của các ngành kinh tế, mối quan hệ giữa các vùng trong cả nước...”. Như vậy, việc Đại hội VI chưa xác định các vùng kinh tế trên cả nước là sự tuân thủ qui luật phát triển kinh tế và căn cứ vào tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Do vậy, yêu cầu phải xác định các vùng kinh tế sau hơn 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI là phù hợp với sự vận động của thực tiễn khách quan, đòi hỏi chúng ta phải từng bước hòan thiện quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thứ ba, cơ cấu thành phần kinh tế. Thực tế sau hơn 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, các nghị quyết khoá VI, chúng ta mới chỉ thực sự “cởi trói” cho sức sản xuất trong nông nghiệp nông thôn phát triển, còn trong ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nhất là thương mại dịch vụ thì hầu như “ dậm chân tại chỗ” khi triển khai xuống cơ sở. Như vậy, đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể, trong nhận thức chúng ta vẫn chưa thực sự quán triệt sâu sắc, đầy đủ quan điểm của Đảng về cải tạo để sử dụng các thành phần kinh tế này trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta.
Đại hội VII ( năm 1991)
Trên cơ sở những thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm đúc rút sau hơn 4 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, trong đó có việc xác định, xây dựng lại cơ cấu kinh tế đã tạo cơ sở, niềm tin để Đảng ta xác định rõ hơn những mục tiêu, phương châm và biện pháp chỉ đạo phát triển kinh tế- xã hội trong thời gian tới. Đại hội VII của Đảng( 6-1991) nhấn mạnh, trước mắt cần: “Tập trung mọi nỗ lực giải quyết các vắn đề cấp bách nhất về kinh tế, xã hội, trên cơ sở đó thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm 1991- 1995: đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế”.
Đường lối Đại hội VII đã xác định rõ hơn về chính sách CNH: “Tập trung phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến; đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; phát triển một số ngành công nghiệp nặng, trước hết là phục vụ cho sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, hàng tiêu và hàng xuất khẩu, đồng thời tạo cơ sở cho những bước phát triển tiếp theo”.
Đại hội đã xác định vai trò “ mặt trân hàng đầu” của nông nghiệp, và trên thực tế đầu tư cho nông nghiệp tư ngân sách đã tăng lên ( năm 1995 đạt 3.951 tỷ đồng).
Đại hội đề cập đến lĩnh vực dịch vụ kinh tế - kỹ thuật trong việc đáp ứng yêu cầu sản xuất, đời sống và hợp tác quốc tế.
Đưa ra chiến lược phát triển kinh tế vùng phù hợp với chiến lược chung cả nước.
Như vậy, căn cứ vào những chuyển biến của nền kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nói riêng, những mục tiêu kinh tế- xã hội của Đại hội VII đề ra đã có bước phát triển hơn so với Đại hội VI, đã đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu quả sản xuất và có tích lũy cho nền kinh tế. Điều này chứng tỏ đường lối đổi mới, xây dựng lại cơ cấu kinh tế của Đại hội VI là hoàn toàn đúng đắn.
Để thực hiện những mục tiêu nêu trên, Đại hội VII của Đảng khẳng định: “ phải phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế; đẩy mạnh ba chương trình kinh tế với những nội dung cao hơn trước và từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế mới theo yêu cầu công nghiệp hóa”.
Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ được xác định, Đại hội VII đã đề ra những chủ trương, chính sách hoàn thiện cơ cấu kinh tế nhằm bước đầu thúc đẩy cơ cấu kinh tế chuyển dịch trong những năm 1991- 1995: “ khắc phục tính chất tự cấp tự túc, khép kín, chuyển mạnh sang nền kinh tế hàng hóa, gắn thị trường trong nước với ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu nhập khẩu”. Rõ ràng quan điểm của Đảng ta tại Đại hội VII về xây dựng cơ cấu kinh tế đã đặt ra những yêu cầu cao hơn so với Đại hội VI. Nếu như Đại hội VI bước đầu xác lập lại cơ cấu kinh tế phục vụ cho ba chương trình kinh tế nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách về kinh tế- xã hội của đất nước, thì Đại hội VII đề ra chủ trương tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ cấu kinh tế để thúc đẩy cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhằm phục vụ tốt hơn nữa ba chương trình kinh tế và từng bước chuyển từ nền kinh tế tự cấp tự túc khép kín sang kinh tế hàng hóa, sản xuất gắn với thị trường.
Thành tựu đạt được:
Thực hiện đường lối CNH của Đại hội VII, nến kinh tế đã có bước phát triển cao hơn, có chất lượng hơn, đi vào thực chất hơn so với nhiều năm trước:
1991
1995
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
5,8
9,5
Tương ứng công nghiệp tăng
5,3
15,5
Nông nghiệp tăng
2,2
4,8
Xuất khẩu tăng
13,2
34,4
Tỷ lệ lạm phát
67,5
12,7
(Đơn vị: %)
+ Cơ cấu kinh tế: 1991:40,5 – 23,8 – 35,7%
1995: 27,2 – 28,8 – 44%
+ Vốn đầu tư cho công nghiệp giai đoạn 1991 – 1995 chiếm 38,4% tổng đầu tư xã hội ( 20,8 tỷ đồng).
Vào đầu năm 1990, hệ thống XHCN theo mô hình cũ đã bị sụp đổ, kéo theo đó là nhiều thị trường truyền thống của Việt Nam bị mất đi, gây khó khăn lướn cho nước ta. Tuy vậy, đây cũng là cơ hội để Việt Nam từ bỏ kiểu CNH cổ điển với quan niệm lỗi thời. Hội nghị giữa nhiệm kỳ của BCH Trung ương Đảng Khóa VII ( năm 1994) đã quyết định nền kinh tế nước ta phải “chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, đẩy tới một bước CNH và HĐH đất nước, nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc đô tăng trưởng kinh tế cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”
Như vậy, Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban chấp hành trung ương khóa VII đã nhấn mạnh thêm nội dung hiện đại hóa và coi CNH, HĐH là con đường tất yếu của sự nghiệp đổi mới nhằm đưa nước ta từ một nước nông nghiệp trờ thành nước công nghiệp.
Đại hội Đảng khóa VIII (năm 1996)
Trên cơ sở nền kinh tế đã ra khỏi khủng hoảng, đời sống nhân dân được cải thiện, an ninh chính trị được ổn định, Đại hội Đảng lần thứ VIII nhận định, rằng nước ta đã hoàn thành cơ bản việc chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa, và một lần nữa bắt đầu chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa đất nước nhằm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp sau khoảng 25 năm, trong đó những năm trước mắt là phải thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.
Báo cáo chính trị nêu rõ: “ đặt biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, thủy sản; phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu … Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả cao”.
Đại hội VII đã dặt quá trình công nghiệp hóa trong tiến trình phát triển chung của nền kinh tế. Điều chỉnh chính sách công nghiệp hóa theo hướng lấy nông nghiệp làm khâu đột phát, coi nông nghiệp kết hợp với công nghiệp chế biến là mặt trận hàng đầu. Tiếp tục thực hiện rông rãi hơn chính sách mở cửa, phát triển kinh tế nhiều thành phần, nâng cao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp.
Gắn liền công nghiệp hóa với hiện đại hóa, lấy khoa học – công nghệ làm động lực, lấy nguồn lực con người làm yếu tố trung tâm của CNH, HĐH.
Kết quả đạt được:
1996
2002
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
9,3
6,75
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp
14,5
10,1
Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp
4,4
4
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu
33,2
24
( Đơn vị: %)
Cơ cấu kinh tế 1996: 27,8 – 29,7 – 42,5%
2000: 24,3 – 36,6 – 39,1%
Hạn chế:
Tuy nhiên, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam đang đứng trước những thách thức của quá trình hội nhập. một trong những thách thức chính hiện nay là sự gia tăng khoảng cách giàu - nghèo. một trong những giải pháp quan trọng để khắc phục tồn tại này là phải nâng cao chất lượng đào tạo ở nhiều cấp bậc, đầu tư cho giáo dục ở khu vực nông thôn vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần có những biện pháp hữu hiệu để có thể huy động được những lợi thế của kinh tế tư nhân
Việc thực hiện kinh tế thị trường đã làm tăng khoảng cách giàu nghèo, tăng ô nhiễm môi trường và các tệ nạn xã hội
Nền kinh tế tăng trưởng cao nhưng chỉ số năng lực cạnh tranh ở mức thấp, gây lãng phí tài nguyên
Đại hội IX ( năm 2001)
- Khẳng định chiến lược CNH, HĐH ở nước ta lúc này là xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, trong đó tập trung mọi nguồn lực để đưa nông nghiệp phát triển lên một trình độ cao hơn.
Báo cáo chính trị viết: “Tăng cường sự chỉ đạo và nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới … Công nghiệp vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động vừa đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao”
Hội nghị BCH TƯ lần thứ năm (2002) đã cụ thể hóa chính sách CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của Đại hội IX, chỉ rõ mục tiêu tổng quát và lâu dài của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là: “Xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, QHSX phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại”.
Để thực hiện mục tiêu đó, Hội nghị xác định: trong thời kỳ 2001-2010, là tập trung mọi nguồn lực để thực hiện một bước cơ bản mục tiêu tổng quá và lâu dài trên, với các chủ trương lớn là:
+ Phát triển LLSX, CDCCKT nông nghiệp, nông thôn.
+ Xây dựng QHXS phù hợp
+ Phát triển KCHT và độ thị hóa nông thôn
+ Xây dựng đời sống văn hóa – xã hội và phát triển nguốn nhân lực
Những kết quả đạt được:
2001
2004
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
6,84
7,7
Tốc độ tăng công nghiệp
14,2
16
Tốc độ tăng nông nghiệp
4,4
5,4
Tốc độ tăng xuất khẩu
4,5
26
Cơ cấu kinh tế 2001: 23 – 38 – 39%
-Tăng sản phẩm thu nhập quốc dân Khác hẳn với tình hình kinh tế xã hội của thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, dưới ánh sáng đổi mới toàn diện nền kinh tế của Đảng, công cuộc CNH,HĐH đất nước trong thời gian hơn 10 năm qua nước ta đã thu được một số thành tựu có ý nghĩa bước ngoặt Trong lĩnh vực kinh tế, mức tăng trưởng GDP bình quân hơn 8% /năm. Trong tất cả các khu vực sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ đều tăng trưởngcao , lương thực không chỉ đủ ăn mà còn đủ gạo xuất khẩu, đứng thứ 2 thế giới. Ngoại thương tăng trưởng mạnh, lạm phát được kiềm chế ....- Đời sống kinh tế xã hội được cải thiện, uy tín quốc tế tăng lên + Sự kết hợp giữa nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài trong quá trình CNH-HĐH trong điều kiện quốc tế và khu vực có nhiều biến đổi. Cùng với quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, CNH-HĐH còn gắn liền với việc mở cửa, hội nhập quốc tế và khu vực. Sự hiện diện của các nguồn vốn nước ngoài, bao gồm các nguồn vốn đầu tư ( vốn ODA, FDI ), công nghệ kĩ thuật, kĩ năng quản lý và kinh doanh, thị trường tiêu thụ hàng hoá sản phẩm hàng hoá, dịch vụ... đã chẳng những góp phầnquan trọng vào mức tăng trưởng GDP mà còn tạo ra sự năng động trong đời sống xã hội vốn trước đây rất trì trệ. + Trên cơ sở tăng trưởng kinh tế, đời sống xã hội còn nhiều chuyển biến tích cực, mức sống của nhân dân tăng lên rõ rệt. Tình hình an ninh chính trị ổn định,quan hệ đối ngoại được mở rộng, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế từng bước được nâng lên. Niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước ngày càng được củng cố. Mặt khác, sự thay đổi cơ chế kinh tế đánh dấu sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được thực tiễn cuộc sống và kết quả nêu trên kiểm chứng là đúng đắn, công cuộc đổi mới là hợp lòng dân, là đúng xu thế phát triển kháchquan của thời đại và hoà nhập vào cộng đồng quốc tế.
2004: 21,8- 40,1 – 38,1%
Hạn chế:
Nền kinh tế vẫn nằm ở nhóm nước kinh tế đang phát triển. Trong cơ cấu kinh tế, nông nghiệp vẫn chiếm 76,2% (2002), nền kinh tế vẫn chủ yếu bao gồm các doanh nghiệp nhỏ và vừa.Các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả.
Đại hội X
- Quan điểm của Đại hội X - Đảng cộng sản Việt Nam về công nghiệp hóa
+ Phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây dựng theo hướng nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh và hiện đại hoá
Phát huy sức mạnh của tất cả các thành phần kinh tế, đa dạng hoá hình thức sở hữu và quy mô để phát triển công nghiệp và xây dựng với cơ cấu ngành nghề phù hợp với nguồn lực, lợi thế và thị trường ở các vùng, các địa phương. Nâng cao sức cạnh tranh, hàm lượng khoa học công nghệ và tỉ trọng giá trị tăng thêm, giá trị nội địa trong sản phẩm công nghiệp và xây dựng. Phát triển công nghiệp và xây dựng gắn với phát triển dịch vụ, phát triển đô thị và bảo vệ môi trường. Phấn đấu đạt tốc độ tăng giá trị tăng thêm trong công nghiệp và xây dựng 10 - 10,2%/năm.
+ Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội theo hướng hiện đại
Trên cơ sở bổ sung, hoàn chỉnh quy hoạch, Nhà nước ưu tiên dành vốn ngân sách và huy động các nguồn lực khác để đẩy nhanh việc xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng trong từng vùng và trên cả nước, xem đây là một khâu đột phá để phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay và chuẩn bị cho bước tiếp theo. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia phát triển lĩnh vực này. Chú trọng các công trình quan trọng