Công tác kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả kinh doanh ở công ty TNHH máy tính nét

Theo lý thuyết của Anghen : ” Hàng hoá là gì? Hàng hoá là những sản phẩm đã được sản xuất ra trong một xã hội gồm những người sản xuất tư nhân ít nhiều phân tán, vậy trước hết nó là những sản phẩm của tư nhân” Hàng hoá có hai thuộc tính rõ ràng: Một là tất cả các sản phẩm ấy đều thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, đều có một giá trị sử dụng không những đối với người sản xuất mà còn đối với cả người khác nữa. Hai là các sản phẩm ấy mặc dầu chúng là những sản phẩm của những người lao động tư nhân hết sức khác nhau, nhưng đồng thời lại là những sản phẩm của lao động của con người nói chung. Trong chừng mực những sản phẩm ấy cũng có một giá trị sử dụng đối với những người khác thì nói chung, chúng đều mang trong bản thân chúng lao động nói chung của con người.

pdf74 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 6913 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công tác kế toán hàng hoá, tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả kinh doanh ở công ty TNHH máy tính nét, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
z TIỂU LUẬN: CÔNG TÁC KẾ TOÁN HÀNG HOÁ, TIÊU THỤ HÀNG HOÁ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ KINH DOANH TẠI CÔNG TY TNHH MÁY TÍNH NÉT PHẦN I: CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN HÀNG HOÁ, TIÊU THỤ HÀNG HOÁ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ KINH DOANH TẠI CÔNG TY 1.1) Các chế độ kế toán 1.1.1) Khái niệm về hàng hoá Theo lý thuyết của Anghen : ” Hàng hoá là gì? Hàng hoá là những sản phẩm đã được sản xuất ra trong một xã hội gồm những người sản xuất tư nhân ít nhiều phân tán, vậy trước hết nó là những sản phẩm của tư nhân” Hàng hoá có hai thuộc tính rõ ràng: Một là tất cả các sản phẩm ấy đều thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, đều có một giá trị sử dụng không những đối với người sản xuất mà còn đối với cả người khác nữa. Hai là các sản phẩm ấy mặc dầu chúng là những sản phẩm của những người lao động tư nhân hết sức khác nhau, nhưng đồng thời lại là những sản phẩm của lao động của con người nói chung. Trong chừng mực những sản phẩm ấy cũng có một giá trị sử dụng đối với những người khác thì nói chung, chúng đều mang trong bản thân chúng lao động nói chung của con người. 1.1.2) Yêu cầu quản lý hàng hoá Để quản lý tốt hàng hoá, Doanh nghiệp cần phải quản lý cả mặt số lượng và chất lượng hàng hoá. Do đó trong công tác quản lý hàng hoá cần phải thực hiện các yêu cầu sau: - Thứ nhất quản lý về mặt số lượng hàng hoá: Đòi hỏi phản ánh, giám sát tình hình nhập - xuất - tồn kho, dự trữ thành phẩm, kịp thời phát hiện trường hợp hàng hoá tồn kho, đọng lâu ngày để có biện pháp xử lý. - Thứ hai quản lý về mặt chất lượng: Đòi hỏi hàng hoá ngày càng hoàn thiện, đẹp về mẫu mã, tốt về nội dung…nhất là trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay và nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Do vậy bộ phận kiểm tra chất lượng phải làm tốt nhiệm vụ, có chế độ bảo quản hợp lý đối với từng loại và phù hợp với đặc điểm của chúng. Thứ ba, cần phải hạch toán hàng hoá hợp lý và thống nhất phù hợp với điều kiện thực tế của doanh nghiệp. Có như vậy mới phản ánh được một cách trung thực giá thực tế của hàng hoá nhập kho, xuất kho. Xác định và đánh giá đúng đắn trị giá hàng hoá là cơ sở quan trọng để đánh giá và xác định kết quả hoạt động kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. - Bên cạnh đó, việc quản lý sự vận động của từng loại hàng hoá: như giá thành thực tế nhập kho, xuất kho cũng rất quan trọng đòi hỏi chính xác và chặt chẽ. Tuy nhiên bất cứ doanh nghiệp nào cũng muốn bán được nhiều hàng hoá, thu được vốn và lợi nhuận đẩy nhanh chu kỳ quay vòng vốn. Do đó, quá trình vận động của hàng hoá gắn liền với quá trình tiêu thụ hàng hoá, thu tiền về để tiếp tục cho hoạt động kinh doanh của chu kỳ tiếp theo. 1.1.3) Đánh giá hàng hoá Đánh giá hàng hoá là phương pháp kế toán dùng thước đo bằng tiền để thực hiện giá trị của hàng hoá nhằm ghi sổ kế toán và tổng hợp các chỉ tiêu kinh tế liên quan đến hàng hoá Đánh giá hàng hoá còn là cơ sở để tổ chức, quản lý, hạch toán tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả kinh doanh. Trong doanh nghiệp, hàng hoá có thể đánh giá theo giá thực tế và theo giá hạch toán. 1.1.3.1) Đánh giá theo giá thực tế. a. Đối với hàng hoá nhập kho Hàng hoá nhập kho được phản ánh theo giá thành thực tế mua hàng về nhập kho, và các chi phí liên quan được phân bổ. +) Hạch toán ban đầu - Hoá đơn giá trị gia tăng (Do bên bán lập): Khi doanh nghiệp mua hàng của những doanh nghiệp thuộc nhóm đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế, doanh nghiệp sẽ được người bán cung cấp hoá đơn GTGT (liên 2). - Hoá đơn bán hàng (do bên bán lập): Khi doanh nghiệp mua hàng của những doanh nghiệp thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng hoặc không thuộc đối tượng chịu thuế, doanh nghiệp sẽ được bên bán cung cấp hoá đơn bán hàng hoặc hoá đơn kiêm phiếu xuất kho. - Bảng kê mua hàng: Trong trường hợp hàng ở thị trường tự do hay mua trực tiếp tại các hộ sản xuất, nhân viên thu mua phải lập bảng kê theo mẫu số 04/GTGT. Trên bảng kê mua hàng phải ghi rõ tên, địa chỉ người bán, số lượng, đơn giá, đơn giá mua của từng mặt hàng, tổng thanh toán. - Phiếu nhập kho: Phản ánh số lượng và giá trị hàng hoá thực tế nhập kho. - Biên bản kiểm nhận hàng hoá: Được lập và xử dụng trong một số trường hợp nếu xét thấy cần thiết phải lập Ban kiểm nhận hàng hoá thu mua. - Phiếu chi, giấy báo nợ, phiếu thanh toán tạm ứng…Phản ánh việc thanh toán tiền mua hàng. Các chứng từ kế toán bắt buộc phải lập kịp thời, đúng mẫu quy định và đầy đủ các yếu tố nhằm đảm bảo tính pháp lý khi ghi sổ kế toán. Việc luân chuyển chứng từ cần có kế hoạch cụ thể, đảm bảo ghi chép kịp thời, đầy đủ. +) Tính giá mua hàng Tính gía hàng mua là viêc xác định giá ghi sổ của hàng hoá mua vào. Theo quy định, khi phản ánh trên các sổ sách kế toán, hàng hoá được phản ánh theo giá thực tế nhằm đảm bảo nguyên tắc giá phí. Giá thực tế của hàng hoá mua vào được xác định theo công thức sau: Giá thực tế của hàng hoá mua ngoài = Giá mua của hàng hoá + Thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có) - Giảm giá hàng mua + Chi phí phát sinh trong quá trình mua hàng - Giá mua của hàng hoá là số tiền mà doanh nghiệp phải trả cho người bán theo hợp đồng hay hoá đơn. + Đối với doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, giá mua của hàng hoá là giá mua chưa có thuế GTGT đầu vào. + Đối với doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thì giá mua hàng hoá bao gồm cả thuế GTGT đầu vào. - Chi phí mua hàng hoá Gồm các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc thu mua hàng hoá như vận chuyển, bốc dỡ, hao hụt trong định mức, công tác phí của bộ phận thu mua… - Giảm giá hàng mua là số tiền mà người bán giảm trừ cho người mua. Khoản này được ghi giảm giá hàng mua. Thuộc về giảm giá hàng mua bao gồm giảm giá đặc biệt, bớt giá và hồi khấu. b. Đối với hàng hoá xuất kho Hàng hoá xuất kho cũng được phản ánh theo giá thành thực tế xuất kho. Theo chuẩn mực 02 “Chỉ tiêu hàng tồn kho” (48/2006/QĐ – BTC). Việc tính giá hàng hoá xuất kho được áp dụng một trong bốn phương pháp sau: - Phương pháp bình quân gia quyền: Giá thành thực tế hàng hoá xuất kho được căn cứ theo tính theo đơn giá bình quân gia quyền và số lương thành phẩm xuất kho Z hhxk = SLhhxk × Zttbq Zttbq = Ztthh tồn đầu kỳ + Z tthh nhập trong kỳ SLhh tồn đầu kỳ + SLhh nhập trong kỳ - Phương pháp giá đích danh. Giá thành thực tế hàng hoá xuất kho căn cứ vào giá thực tế hàng hoá nhập kho theo từng lô hàng. Từng lần nhập và số lượng xuất kho theo từng lần. Phương pháp này thường được áp dụng với hàng hóa như: vàng, bạc, đá quý…. - Phương pháp giá thực tế nhập trước xuất trước Theo phương pháp này, khi tính giá hàng xuất kho người ta giả thiết hàng nào nhập trước sẽ xuất trước và lấy đơn giá của lần nhập để tính giá hàng xuất kho. Như vậy giá thực tế hàng hoá tồn kho cuối kỳ chính là giá thực tế của lần nhập kho mới nhất. Thường áp dụng đối với những doanh nghiệp hạch toán và bảo quản riêng biệt về mặt số lượng giá trị của từng lần nhập, xuất, những doanh nghiệp có chủng loại mặt hàng ít. - Phương pháp giá thực tế nhập sau xuất trước Theo phương pháp này kế toán giả định về mặt giá trị hàng hoá nhập sau sẽ xuất trước, nhập theo giá nào thì xuất theo giá đó. Trị giá hàng tồn kho được tính theo giá lần nhập đầu tiên hoặc giá hàng tồn kho đầu kỳ. Thường áp dụng phương pháp này trong trường hợp lạm phát. Có thể nói trong bốn phương pháp trên thì phương pháp bình quân gia quyền được áp dụng rỗng rãi hơn cả vì hàng hoá trong doanh nghiệp biến động hàng ngày nhưng việc xác định giá thành của sản phẩm không thể tiến hành hàng ngày mà thường tính vào cuối kỳ hạch toán. 1.1.3.2) Đánh giá theo giá hạch toán Giá hạch toán là giá do doanh nghiệp quy định có tính chất ổn định lâu dài. Giá này thường là giá kế hoạch hoặc giá hàng hoá bình quân năm trước hay giá nhập kho thống nhất quy định. Cuối kỳ sau khi tính được giá thành thực tế hàng hoá nhập kho, kế toán sẽ tiến hành điều chỉnh giá hạch toán bằng giá thực tế bằng công thức: Giá thực tế Hàng hoá xuất trong kỳ (hoặc tồn kho cuối kỳ) = Hệ số giá hàng hoá * Giá hạch toán hàng hoá xuất kho trong kỳ (hoặc tồn kho cuối kỳ) Trong đó: Hệ số giá = Giá hạch toán HH tồn đầu kỳ + Giá hạch toán HH nhập trong kỳ Giá thực tế HH tồn kho đầu kỳ + Giá thực tế HH nhập trong kỳ Trên đây là những phương pháp đánh giá hàng hoá nhập - xuất kho. Mỗi phương pháp đều ưu nhược điểm riêng. Vì vậy doanh nghiệp cần căn cứ vào tình hình hoạt động kinh doanh thực tế để lựa chọn ra những phương pháp phù hợp nhất với Doanh nghiệp. 1.2) Công tác tiêu thụ hàng hoá 1.2.1) Khái niệm về tiêu thụ hàng hoá Hàng hoá của doanh nghiệp được đem bán để thu hồi vốn thực hiện quá trình tái kinh doanh. Tiêu thụ hàng hoá hay còn gọi là bán hàng để chuyển hoá vốn của doanh nghiệp từ hình thái hiện vật sang hình thái giá trị (Hàng =>tiền). Tiêu thụ là khâu cuối cùng của quá trình kinh doanh. Việc tiêu thụ này có thể để thỏa mãn nhu cầu của các đơn vị khác hoặc của cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp. Hàng hoá cùng có thể được cung cấp giữa các đơn vị trong cùng một công ty, một tập đoàn…gọi là tiêu thụ nội bộ. Đế xác định chính xác kết quả hoạt động kinh doanh thì công tác quản lý bán hàng là hết sức cần thiết. Bởi vậy quản lý khâu bán hàng cần bám sát các yêu cầu cơ bản sau: - Nắm chắc sự vận động của từng loại hàng hoá trong quá trình nhập xuất và tồn kho trên các chỉ tiêu số lượng, chất lượng giá trị. - Nắm bắt, theo dõi chặt chẽ từng phương thức bán hàng, từng thể thức thanh toán, từng loại hàng hoá tiêu thụ và từng loại khách hàng, đôn đốc thu hồi nhanh và đầy đủ vốn. - Tính toán, xác định đúng đắn kết quả tiêu thụ trong toàn bộ kết quả từng hoạt động sản xuất kinh doanh và thực hiện nghiêm túc chế độ phân phối lợi nhuận, đảm bảo thực hiện đầy đủ đối nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. - Theo dõi chặt chẽ các trường hợp làm giảm doanh thu bán hàng. 1.2.2) Nhiệm vụ của kế toán hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá Để có thể phát huy hết vai trò của mình, trở thành công cụ quản lý có hiệu quả đáp ứng được yêu cầu quản lý hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá phải thực hiện các nhiệm vụ dưới đây. - Tổ chức phân loại và đánh giá thống nhất, đúng theo các loại hàng hoá trong doanh nghiệp theo chỉ tiêu số lượng, chất lượng, chủng loại và giá trị. - Tổ chức hệ thống chứng từ, sổ chi tiết, sổ tổng hợp theo phương pháp hạch toán hàng tồn kho thích hợp trong điều kiện thực tế của đơn vị hạch toán và đặc điểm của đơn vị hạch toán. - Tổ chức hệ thống báo cáo kế toán hàng hoá theo các chỉ tiêu nhập, xuất, tồn kho trên các báo cáo theo yêu cầu quản lý. - Tổ chức hợp lý quy trình, thủ tục cho nghiệp vụ bán hàng. Đây chính là căn cứ để ghi chép các thông tin cần thiết về nghiệp vụ bán hàng. - Tổ chức hợp lý hệ thống sổ kế toán chi tiết nghiệp vụ bán hàng( Sổ chi tiết giá vốn, doanh thu, kết quả tiêu thụ). - Tổ chức hợp lý hệ thống sổ kế toán tổng hợp để ghi chép các nghiệp vụ bán hàng phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp. - Tổng hợp kịp thời, chính xác số liệu liên quan đến quá trình bán hàng, từ đó cung cấp các thông tin cần thiêt cho quản lý và cho việc lập báo cáo kế toán cuối kỳ. 1.2.3) Phương thức tiêu thụ hàng hoá. Mục tiêu của các doanh nghiệp là thu hồi được số vốn đã bỏ ra ban đầu để tiến hành hoạt động kinh doanh và đạt được lợi nhuận mong muốn. Muốn thu hồi vốn để tái đầu tư kinh doanh mở rộng, doanh nghiệp phải tiêu thụ (bán) được số sản phẩm này. Quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp được thực hiện thông qua quá trình bán hàng. Vì vậy có thể nói tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp, nó còn thực hiện chuyển hoá vốn từ hình thái hiện vật sang hình thái giá trị - tiền tệ. Có thể hiểu “Bán hàng là việc doanh nghiệp chuyển giao phần lớn lợi ích và rủi ro gắn liền với quyền sở hữu cho khách hàng, đồng thời được khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán” (Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 13 về doanh thu và thu nhập khác). Cùng với sự phát triển của mạng lưới phân phối tiêu thụ cũng như những tiến bộ khoa học Marketing, ngày nay doanh nghiệp có thể có rất nhiều phương thức bán hàng đa dạng và hiệu quả để nâng cao doanh số. Có các phương thức tiêu thụ như sau: - Bán hàng trực tiếp - Phương thức gửi bán - Bán hàng Dự án 1.2.4) Phương thức thanh toán Trong quan hệ thương mại giữa doanh nghiệp với khách hàng việc thanh toán tiền hàng có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức như: - Thanh toán ngay: Bằng tiền mặt, hoặc có thể chuyển khoản qua ngân hàng. - Thanh toán bù trừ: Khách hàng đã ứng trước cho doanh nghiệp một khoản tiền, sau khi nhận hàng thì số tiền hàng còn phải trả được bằng tính bằng tổng giá thanh toán bù trừ số tiền hàng đã ứng trước. - Cho nợ: đối với khách hàng quen, có uy tín, doanh nghiệp có thể bán chịu trong một thời gian nhất định. - Trả góp: doanh nghiệp cho phép khách hàng được trả dần khoản nợ theo từng khoảng thời gian nhất định. Hình thức thanh toán này do chính sách tín dụng của doanh nghiệp quy định. 1.3) Phương pháp kế toán hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá 1.3.1) Nguyên tắc hạch toán. Hàng hoá của doanh nghiệp thông thường gồm nhiều loại hàng với phẩm cấp, mẫu mã khác nhau…nên chúng có yêu quản lý hạch toán không giống nhau. Do đó, với tính chất đa dạng, phức tạp như vậy để quản lý và hạch toán chặt chẽ hàng hoá đòi hỏi công tác kế toán hàng hoá cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau: - Tổ chức hạch toán hàng hoá theo từng loại, từng đơn vị sản xuất theo số lượng, chất lượng, giá trị hàng hoá. - Phân công và kết hợp trong việc ghi chép kế toán hàng hoá giữa phòng kế toán với nhân viên kinh doanh, giữa kế toán hàng hoá với thủ kho, đảm bảo hàng hoá được phản ánh kịp thời, chặt chẽ. - Kế toán nhập, xuất, tồn kho hàng hoá phải được đánh giá theo giá thành thực tế. - Sự biến động của hàng hoá, do nhiều nguyên nhân nên để phản ánh được tình hình biến động của hàng hoá, doanh nghiệp phải tổ chức công tác ghi chép ban đầu một cách khoa học và hợp lý. 1.3.2) Hạch toán chi tiết hàng hóa. a. Chứng từ sử dụng trong kế toán hàng hoá. Chứng từ là bằng chứng để chứng minh sự phát sinh một nghiệp vụ kinh tế và thực sự hoàn thành. Chứng từ kế toán là cơ sở pháp lý cho mọi số liệu trên mọi tài khoản, sổ kế toán, báo cáo kế toán. Công tác hạch toán ban đầu là luân chuyển chứng từ và xử lý chứng từ là nội dung quan trọng của công tác kế toán. Mọi thứ biến động của hàng hoá phải được phản ánh, ghi chép vào chứng từ ban đầu phù hợp theo đúng nội dung quy định. Những chứng từ này là cơ sở pháp lý để hạch toán nhập, xuất kho hàng hoá, là cơ sở để kiểm tra tính chính xác của sổ sách kế toán, đảm bảo ghi chép những nội dung cần thiết và tính hợp pháp của chứng từ. Do chức năng quan trọng của chứng từ nên dễ kiểm tra, quản lý tình hình tài chính của doanh nghiệp, Bộ tài chính quyết định các chứng từ được sử dụng trong kế toán xuất, nhập hàng hoá là: (Nguồn 48/2006/QĐ – BTC)  Phiếu nhập kho, phiếu nhập kho (Mẫu 01 – VT)  Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ (Mẫu 03 –PXK – 3LL)  Biên bản kiểm nghiệm vật tư ( 03 – VT)  Biên bản kiểm kê vật tư, công cụ, sản phẩm, hàng hoá (05 – VT)  Hoá đơn thuế GTGT (Mẫu 01 GTKT – 3LL)  Hoá đơn bán hàng thông thường (02 GTGT – 3LL)  Phiếu xuất kho hàng gửi đại lý (Mẫu 04 HDL – 3LL) Các chứng từ này phải được luân chuyển đúng thời hạn, chính xác và đầy đủ. Căn cứ vào đó, kế toán kiểm tra tính hợp pháp và tiến hành phân loại tổng hợp ghi sổ kế toán thích hợp. b) Kế toán chi tiết hàng hoá Kế toán chi tiết hàng hoá là việc ghi chép số liệu, luân chuyển chứng từ giữa kho và phòng kế toán trên các chỉ tiêu số lượng, giá trị hàng hoá theo từng loại, từng kho hàng hoá riêng.  Phương pháp ghi thẻ song song Theo phương pháp ghi thẻ song song, công việc cụ thể tại kho và phòng kế toán như sau; - Ở kho: Thủ kho mở thẻ kho để phản ánh tình hình nhập, xuất, tồn hàng hoá. Cuối tháng, thủ kho phải tiến hành cộng số nhập, xuất, tính ra số tồn kho về mặt số lượng theo từng danh điểm hàng hoá - Ở Phòng kế toán: kế toán hàng hoá mở thẻ kế toán chi tiết cho từng danh điểm hàng hoá tương ứng với thẻ kho, chỉ khác là theo dõi về cả mặt giá trị. Hàng ngày hoặc định kỳ, khi nhận được các chứng từ nhập, xuất kho do thủ kho chuyển tới, nhân viên kế toán phải kiểm tra đối chiếu và ghi đơn giá hạch toán vào thẻ kế toán chi tiết hàng hoá và tính ra số tiền. Sau đó lần lượt ghi các nghiệp vụ nhập, xuất vào các thẻ chi tiết hàng hoá có liên quan. Cuối tháng tiến hành cộng thẻ và đối chiếu với thẻ kho. Để lập bảng đối chiếu giữa kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết, kế toán lập bảng tổng hợp nhập xuất tồn kho về mặt giá trị của hàng hoá. Ta có thể khái quát nội dung, trình tự kế toán chi tiết hàng hoá theo phương pháp ghi sổ song song như sau: Thẻ Kho Bảng kê tổng hợp N-X-T hàng hoá Sổ kế toán chi tiết hàng hoá Chứng từ xuất Chứng từ nhập Sơ đồ 1: Kế toán chi tiết hàng hoá theo phương pháp thẻ song song Ghi hàng ngày Đối chiếu kiểm tra Ghi cuối tháng  Phương pháp đối chiếu luân chuyển. Tại kho: Thủ kho vẫn sử dụng các thẻ kho để ghi chép tình hình nhập, xuất, tồn của từng hàng hoá về mặt số lượng (Giống như phương pháp ghi thẻ song song). Tại phòng kế toán: Để theo dõi tình hình nhập - xuất hàng hoá về mặt số lượng và giá trị kế toán dúng sổ luân chuyển. Nhưng có đặc điểm là chỉ ghi chép một lần vào cuối tháng trên cơ sở tổng hợp tổng hợp các chứng từ nhập, xuất trong tháng làm hạn chế tính ghi sổ kịp thời của kế toan.  Phưong pháp ghi sổ số dư Tại kho: Thủ kho dùng thẻ kho để ghi chép nhập, xuất, tồn kho hàng hoá về mặt số lượng. Cuối tháng, ghi sổ tồn kho đã tính trên thẻ kho vào sổ số dư cột số lượng. Tại phòng kế toán: Kế toán mở sổ số dư theo dõi từng kho dùng cả năm để ghi chép tình hình nhập - xuất. Từ các bảng kê nhập - xuất kế toán lập bảng luỹ kế nhập, xuất và từ bản luỹ kế này lập bảng tổng hợp nhập xuất, tồn từng nhóm, loại hàng hoá theo chỉ tiêu giá trị. Cuối tháng thủ kho gửi số dư lên, kế toán căn cứ vào số tồn kho cuối tháng này và đơn giá hạch toán tính ra gía trị tồn kho để ghi vào cột số tiền trên sổ dư, bảng tổng hợp nhập xuất, tồn và số liệu kế toán tổng hợp. 1.3.3) Kế toán tổng hợp hàng hoá Kế toán tổng hợp hàng hoá là việc sử dụng thước đo giá trị để phản ánh, ghi chép và tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh liên quan đến hàng hoá trên sổ kế toán tổng hợp, tài khoản kế toán và báo cáo tài chính. Kế toán tổng hợp hàng hoá sử dụng một số tài khoản chủ yếu như sau: - Tài khoản 156 “Hàng hoá” Được dùng để phản ánh giá trị hiện có và tình hình thực tế của các loại hàng hoá của doanh nghiệp, bao gồm hàng hoá tại các kho hàng, quầy hàng. TK 156 có 3 tài khoản cấp 2 - TK 1561 “Giá mua hàng hoá” - TK 156.2 “Chi phí thu mua hàng hoá” - TK 156.7 “Hàng hoá bất động sản” Kết cấu tài khoản 156 + Bên Nợ: -Giá mua vào của hàng hoá nhập kho, nhập quầy -Chi phí thu mua hàng hoá thực tế phát sinh -Trị giá hàng hoá bị người mua trả lại nhập kho, nhập quầy. -Trị giá hàng hoá phát hiện thừa khi kiểm kê. + Bên Có: -Trị giá mua thực tế của hàng hoá xuất kho -Chi phí thu mua phân bổ cho hàng hoá tiêu thụ trong kỳ -Các khoản bớt giá, giảm giá, hồi khấu hàng mua -Trị giá hàng hoá phát hiện thiếu tại kho Dư Nợ: -Trị giá mua vào của hàng hoá tồn -Chi phí thu mua của hàng hoá tồn kho, hàng gửi bán +) Tài khoản 157 “Hàng gửi đi bán” được dùng để phản ánh giá trị của hàng hoá, sản phẩm đã gửi hoặc đã chuyển cho khách hàng hoặc nhờ đại lý ký gửi, giá trị của lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành bàn giao cho người đặt hàng nhưng chưa được chấp nhậ
Luận văn liên quan