Trong môi trường cạnh tranh gay gắt của kinh tế thị trường hiện nay, để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có các biện pháp quản lý phù hợp với sự biến đổi của thị trường cũng như tình hình thực tế của doanh nghiệp mình. Việc đảm bảo lợi ích cá nhân của người lao động là một động lực cơ bản trực tiếp khuyến khích người lao động đem hết khả năng của mình lỗ lực phấn đấu sáng tạo trong sản xuất. Một trong những công cụ hiệu quả nhất nhằm đạt tới mục tiêu trên là hình thức trả lương cho người lao động. Tiền lương thực sự phát huy được tác dụng của nó khi các hình thức tiền lương được áp dụng hợp lý nhất, sát với tình hình thực tế của các đơn vị sản xuất kinh doanh, đúng với sự cống hiến của người lao động, công bằng và hợp lý giữa những người lao động trong doanh nghiệp. Có như vậy tiền lương mới thực sự trở thành đòn bẩy kinh tế kích thích sản xuất phát triển. Việc trả lương theo lao động là tất yếu khách quan. Nhưng lựa chọn hình thức trả lương nào cho phù hợp với điều kiện đặc điểm sản xuất của từng ngành, từng doanh nghiệp. Để thúc đẩy sản xuất, làm cho người lao động luôn quan tâm đến kết quả lao động của mình, đến hiệu quả sản xuất kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp. Để góp phần tạo nên lợi nhuận cho doanh nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động.
36 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4481 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công tác quản lý tiền lương của công ty cổ phần may Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong môi trường cạnh tranh gay gắt của kinh tế thị trường hiện nay, để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có các biện pháp quản lý phù hợp với sự biến đổi của thị trường cũng như tình hình thực tế của doanh nghiệp mình. Việc đảm bảo lợi ích cá nhân của người lao động là một động lực cơ bản trực tiếp khuyến khích người lao động đem hết khả năng của mình lỗ lực phấn đấu sáng tạo trong sản xuất. Một trong những công cụ hiệu quả nhất nhằm đạt tới mục tiêu trên là hình thức trả lương cho người lao động. Tiền lương thực sự phát huy được tác dụng của nó khi các hình thức tiền lương được áp dụng hợp lý nhất, sát với tình hình thực tế của các đơn vị sản xuất kinh doanh, đúng với sự cống hiến của người lao động, công bằng và hợp lý giữa những người lao động trong doanh nghiệp. Có như vậy tiền lương mới thực sự trở thành đòn bẩy kinh tế kích thích sản xuất phát triển. Việc trả lương theo lao động là tất yếu khách quan. Nhưng lựa chọn hình thức trả lương nào cho phù hợp với điều kiện đặc điểm sản xuất của từng ngành, từng doanh nghiệp. Để thúc đẩy sản xuất, làm cho người lao động luôn quan tâm đến kết quả lao động của mình, đến hiệu quả sản xuất kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp. Để góp phần tạo nên lợi nhuận cho doanh nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động.
Qua quá trình kiến tập tại Công ty cổ phần may Thăng Long với kiến thức đã học tại trường, em xin trình bầy một số vấn đề về việc tổ chức tiền lương trong Công ty cổ phần may Thăng Long cùng với sự giúp đỡ của thầy giáo Nguyễn Trung Kiên. Nếu có những gì sai sót, em rất mong sự cảm thông và mong được sự hướng dẫn chỉ bảo của thầy và những người đã giúp em hoàn thành bài báo cáo này.
PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
TIỀN LƯƠNG CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MAY THĂNG LONG.
1. KHÁI NIỆM TIỀN LƯƠNG VÀ VAI TRÒ CỦA TIỀN LƯƠNG.
1.1. Khái niệm về tiền lương
Tiền lương (tiền công) là số tiền thù lao lao động phải trả cho người lao động theo số lượng và chất lượng lao động mà họ đóng góp để tái sản xuất sức lao động bù đắp hao phí của họ trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Để hiểu sâu hơn về khái niệm tiền lương chúng ta có các khái niệm liên quan: tiền lương danh nghĩa, tiền lương thực tế và tiền lương tối thiểu.
* Tiền lương danh nghĩa
Là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động thông qua hợp đồng thoả thuận giữa hai bên theo qui định của pháp luật. Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc trực tiếp vào năng suất lao động, hiệu quả làm việc của người lao động, phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm làm việc,…của họ ngay trong quá trình lao động.
* Tiền lương thực tế
Tiền lương thực tế được hiểu là số lượng các loại hàng hoá tiêu dùng và các loại dịch vụ cần thiết mà người lao động hưởng lương có thể mua được bằng tiền lương danh nghĩa của họ.
Tiền lương thực tế không chỉ phụ thuộc vào số tiền lương danh nghĩa mà còn phụ thuộc vào giá cả của các loại hàng hoá tiêu dùng và các loại dịch vụ cần thiết mà người lao động muốn mua. Mối quan hệ giữa tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế được thể hiện qua công thức sau:
ILTT = ILDN / IP
Trong đó:
ILTT : Chỉ số tiền lương thực tế
ILDN: Chỉ số tiền lương danh nghĩa
IP : Chỉ số giá cả
* Tiền lương tối thiểu
Theo điều 56 Bộ Luật Lao Động: “Mức lương tối thiểu là mức tiền lương trả cho người lao động làm những công việc đơn giản nhất trong điều kiện lao động bình thường, bù đắp sức lao động đơn giản và một phần tái sản xuất mở rộng. Đó là những công việc thông thường mà một người lao động có sức khoẻ bình thường, không qua đào tạo chuyên môn…cũng có thể làm được”.
Tiền lương tối thiểu được Nhà nước qui định theo từng thời kỳ dựa trên trình độ phát triển về kinh tế – xã hội của đất nước và yêu cầu tái sản xuất sức lao động xã hội. Tiền lương tối thiểu được xác định qua phân tích các chi phí về ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chi phí bảo hiểm, y tế, giáo dục đào tạo,…Theo nghị định mới nhất của năm 2005 thì mức lương tối thiểu chung là 350.000 đồng/ người/ tháng.
1.2. Vai trò chức năng của tiền lương
Trong nền kinh tế quốc dân thì tiền lương được coi là một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng mà không có một quốc gia nào lại không quan tâm tới và nó cũng là một công cụ quản lý ở các đơn vị sản xuất kinh doanh, là một động lực thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển. Trong phạm vi doanh nghiệp, tiền lương có vai trò quan trọng trong việc kích thích lao động tăng năng suất, nâng cao trách nhiệm của người lao động với quá trình sản xuất và tái sản xuất đồng thời tiền lương phù hợp với đóng góp của người lao động sẽ đem lại niềm lạc quan tin tưởng vào doanh nghiệp. Tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của cán bộ công nhân viên, là yếu tố để đảm bảo tái sản xuất xã hội.
Vì vậy tiền lương đóng vai trò quyết định trong việc ổn định và phát triển lực lượng lao động. Người lao động dùng tiền lương để trang trải các chi phí trong gia đình, ngoài ra còn dùng để tích luỹ. Nhưng trước hết tiền lương phải đảm bảo nhu cầu sinh hoạt tối thiểu hàng ngày của người lao động. Có thể nói đây là một tác động quan trọng nhất, trực tiếp nhất của tiền lương. Vì "chức năng kinh tế quan trọng nhất của tiền lương là đảm bảo tái sản xuất sức lao động".
Tiền lương phù hợp với hao phí lao động mà người lao động đã bỏ ra trong quá trình sản xuất, sẽ gắn bó họ với công việc với tinh thần trách nhiệm cao hơn. Được nhận tiền lương phù hợp với sức lao động mình bỏ ra, người lao động tự cảm thấy mình phải không ngừng nâng cao bồi dưỡng trình độ về mọi mặt.
Tiền lương có vai trò điều phối lao động. Với tiền lương thoả đáng người lao động tự nguyện nhận mọi công việc mình được giao dù ở đâu hay bất cứ công việc nào.
Để cho tiền lương thực sự là đòn bẩy kinh tế quan trọng phát huy được vai trò tích cực cho người lao động, đòi hỏi các doanh nghiệp phải lựa chọn đúng hình thức trả lương cho phù hợp với những đặc điểm riêng cho doanh nghiệp mình, phù hợp với quy định trả lương theo đúng giá trị sức lao động đã hao phí,giải quyết hài hoà lợi ích của người lao động và của doanh nghiệp .
2.CÁC HÌNH THỨC TRẢ LƯƠNG CỦA CÔNG TY.
2.1. Các hình thức tiền lương
Trong thực tiễn của đời sống xã hội và trong quan hệ lao động vẫn tồn tại 2 hình thức trả lương phổ biến:
- Hình thức tiền lương theo sản phẩm.
- Hình thức trả tiền lương theo thời gian.
Việc lựa chọn áp dụng hình thức tiền lương nào trong tổ chức lao động tuỳ thuộc yêu cầu sản xuất, nghĩa là:
+ Phù hợp tính chất công việc và trình độ tổ chức công việc ở nơi làm việc.
+ Phải có tác dụng khuyến khích người lao động quan tâm đến kết quả lao động, kết quả sản xuất.
+ Làm cho tiền lương thể hiện rõ chức năng đòn bẩy kinh tế trong việc kích thích sản xuất, kinh doanh.
+ Trả lương phải đem lại hiệu quả kinh tế.
2.1.1. Hình thức trả lương theo sản phẩm
Trả lương theo sản phẩm là hình thức trả lương dựa trên cơ sở; số lượng sản phẩm giao nộp của người lao động đơn giá trả lương và chất lượng sản phẩm đã quy định của doanh nghiệp. Đây là hình thức trả lương cơ bản mà hiện nay được các đơn vị áp dụng chủ yếu trong khu vực sản xuất vật chất. Tiền lương của công nhân viên phụ thuộc vào đơn giá tiền lương của một đơn vị sản phẩm và số sản phẩm sản xuất ra.
Hình thức trả lương này phù hợp với nguyên tắc phân phối lao động, gắn thu nhập của người lao động với kết quả lao động, khuyến khích lao động hăng say lao động. Hình thức này tỏ ra có hiệu quả hơn so với việc trả lương theo thời gian, do đó xu hướng hiện nay, hình thức trả lương theo sản phẩm được mở rộng phổ biến.
Tuy nhiên, việc xác định tiền lương sản phẩm phải dựa trên cơ sở các tài liệu về hạch toán kết quả lao động (như phiếu xác nhận lao động công việc hoàn thành ) và đơn giá tiền lương sản phẩm của doanh nghiệp đối với từng loại sản phẩm hay công việc.
Hình thức trả lương theo sản phẩm có thể được thực hiện theo nhiều dạng khác nhau.
*. Trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân
T = Vđg x q
Trong đó:
T: Số lương phải trả cho người lao động
Vđg: Đơn giá tiền lương trên một đơn vị sản phẩm
q: Số lượng sản phẩm hoàn thành
Hình thức này áp dụng cho những người lao động trực tiếp sản xuất mà quá trình lao động của họ mang tính độc lập tương đối, quan hệ giữa năng suát lao động và thu nhập tiền lương sản phẩm của công nhân được phản ánh rõ rệt. Tiền lương của họ do chính năng suất lao động cá nhân quyết định.
Hình thức trả lương này phù hợp với nguyên tắc phân phối lao động, gắn được thu nhập tiền lương với kết quả lao động với năng suất, với chất lượng lao động cá nhân do đó khuyến khích người lao động phấn đấu tăng năng suất lao động.
Hình thức trả lương này đơn giản, dễ tính, công nhân, có thể tính được số tiền lương của mình. Tuy vậy, hình thức tiền lương này có nhược điểm là công nhân ít quan tâm đến việc tiết kiệm nguyên vật liệu, coi nhẹ việc tiết kiệm chi phí sản xuất, ít quan tâm đến việc bảo quản máy móc, thiết bị, nếu thiếu những quy định chặt chẽ.
*. Trả lương theo sản phẩm nhóm lao động
Việc tiến hành chia lương cho từng người lao động trong nhóm căn cứ vào lương cấp bậc và thời gian làm việc thực tế của từng người người làm việc trong tháng.Hình thức này áp dụng đối với công việc đòi hỏi một nhóm lao động lắp ráp thiết bị, sản xuất ở các bộ phận làm việc theo dây chuyền, sửa chữa cơ khí .
Trả lương theo sản phẩm nhóm có tác dụng khuyến khích lao động trong nhóm, nâng cao trách nhiệm trước tập thể, quan tâm đến kết quả cuối cùng của nhóm. Song, nhược điểm là sản phẩm của mỗi lao động không trực tiếp tác động đến tiền lương của họ nên ít kích thích sự nâng cao lao động cá nhân. Mặt khác, chưa xác định được sự cố gắng của mỗi cá nhân trong quá trình lao động nên chưa tiến hành được phân phối theo lao động và chất lượng sản phẩm.
*. Trả lương theo sản phẩm gián tiếp
Chế độ trả lương sản phẩm gián tiếp chỉ áp dụng đối với công nhân phụ mà công việc của họ ảnh hưởng nhiếu đến công việc của công nhân chính (người hưởng lương theo sản phẩm) như: công nhân sửa chữa, công nhân điện....
DG =
Trong đó:
DG: Đơn giá tính theo sản phẩm gián tiếp
L: Lương cấp bậc của công nhân phụ
Q: Mức sản lượng của công nhân chính
M: Mức phục vụ của công nhân phụ
Cách trả lương này kích thích công nhân phục vụ tốt hơn cho công việc lao động. Nhưng vì tiền lương phụ thuộc kết quả lao động của công nhân chính, do đó việc trả lương chưa thật chính xác với công nhân phụ.
*. Trả lương theo sản phẩm luỹ tiến
Theo cách trả lương này thì tiền lương gồm 2 phần:
+ Phần 1: Tiền lương hoàn thành mức được giao
+ Phần 2: Căn cứ vào số lượng vượt định mức thì số lượng vượt định mức càng nhiều số tiền thưởng càng lớn.
Hình thức trả lương này áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp cần hoàn thành gấp 1 số công việc trong khoảng thời gian nhất định (ví dụ: để kịp giao sản phẩm cho khách hàng theo hợp đồng). Thực chất đây là trả lương theo sản phẩm kết hợp hình thức tiền thưởng (hoặc đơn giá tiền lương luỹ tiến) theo một tỷ lệ nhất định đối với định mức lao động một cách chính xác.
Với cách trả lương này, tốc độ tăng tiền lương vượt tốc độ tăng sản phẩm. Nó có tác dụng kích thích công nhân tích cực làm việc, tăng năng suất lao động, phấn đấu vượt định mức được giao. Nhưng người lao động ít quan tâm đến máy móc, không tiết kiệm nguyên vật liệu.
Mặt khác, các doanh nghiệp cần chú ý không nên áp dụng rộng rãi chế độ này vì tốc độ tăng tiền lương của công nhân nhanh hơn tốc độ tăng năng suất lao động. Thời gian trả lương không nên quá ngắn (hàng tuần) để tránh tình trạng công nhân nhận lương luỹ tiến nhưng không đạt định mức tháng.
*. Hình thức trả lương khoán
Hình thức trả lương khoán được áp dụng trong trường hợp sản phẩm hay công việc khó giao chi tiết, mà phải giao nộp cả khối lượng công việc, hay nhiều việc tổng hợp phải làm trong một thời gian nhất định, với yêu cầu chất lượng nhất định, trả lương khoán có thể cho tạm ứng lương theo phần khối lượng đã hoàn thành trong từng đọt và thanh toán lương sau khi đã làm xong toàn bộ khối lượng công việc được hợp đồng giao khoán.
Đơn giá khoán xác định theo đơn vị thi công hoặc cũng có thể trọn gói cho cả khối lượng công việc hay công trình.
Yêu cầu của chế độ trả lương này đơn giá phải tính toán chặt chẽ và phải có bản hợp đồng giao khoán. Nội dung hợp đồng giao khoán phải rõ ràng công việc, khối lượng giao khoán, điều kiện lao động định mức, đơn giá tổng số tiền lương khoán, điều kiện lao động và kết thúc ... Nếu tập thể nhận khoán thì chia tiền lương như hình thức trả lương tập thể.
Ưu điểm của chế độ này là: khuyến khích người lao động hoàn thành công việc vượt thời gian và đảm bảo chất lượng. Tuy nhiên, nếu sự kiểm tra kém thì hiệu quả thấp.
*. Chế độ trả lương sản phẩm có thưởng.
Chế độ trả lương theo sản phẩm có thưởng, là chế độ trả lương theo sản phẩm kết hợp với chế độ tiền thưởng, nhằm tác động vào những khâu yếu của dây chuyền sản xuất, để giải quyết sự đồng bộ trong sản xuất, thúc đẩy năng suất lao động. Với chế độ trả lương này, toàn bộ sản phẩm đều được trả một đơn giá cố định, còn tiền thưởng sẽ căn cứ vào mức độ hoàn thành và hoàn thành vượt mức, các chỉ tiêu về chất lượng và số lượng theo tiêu chuẩn của chế độ tiền thưởng để thưởng và tiền lương sản phẩm có thưởng sẽ bao gồm cả tiền lương.
Với chế độ trả lương này cần quy định đúng đắn chỉ tiêu tiền thưởng, điều kiện thưởng và tỉ lệ thưởng và xác định nguồn tiền thưỏng.
2.1.2 Trả lưởng theo thời gian
Đây là hình thức trả lương căn cứ vào thời gian lao động, vào cấp bậc lương để tính lương cho từng người lao động. Hình thức này chỉ áp dụng chủ yếu cho lao động gián tiếp, còn với lao động trực tiếp chỉ áp dụng với bộ phận không áp dụng được định mức sản phẩm.
Hình thức trả lương theo thời gian được áp dụng với viên chức nhà nước thuộc khu vực hành chính sự nghiệp, những người hoạt động trong lĩnh vực quản lý, chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh doanh. Với công nhân sản xuất chỉ áp dụng cho những người làm công việc không thể định mức được sản phẩm lao động chính xác, hoặc do tính chất của sản xuất nếu trả lương theo sản phẩm sẽ không đạt chất lượng. Chẳng hạn, công việc sửa chữa, công việc sản xuất hay pha chế thuốc chữa bệnh ...
Như vậy trả lương theo thời gian là dựa vào độ dài thời gian làm việc, trình độ chuyên môn khoa học kỹ thuật và mức độ phức tạp của công việc. Nếu ta so sánh với trả lương theo sản phẩm thì trả lương theo thời gian có thể tính bình quân trong trả lương, vì nó chưa gắn được thu nhập tiền lương của mỗi người với thu nhập lao động mà họ đã đạt được.
*. Trả lương theo thời gian lao động giản đơn
Chế độ trả lương theo thời gian lao động gian đơn quy định mức tiền lương của mỗi người lao động được hưởng phụ thuộc vào mức lương cấp bậc, chức vụ hay cấp hàm và thời gian làm việc thực tế của họ.
Hình thức trả lương này bao gồm:
- Lương tháng: là tiềnlương trả cho người lao động theo tháng, theo bậc lương đã sắp xếp. Người lao động hưởng lương tháng sẽ nhận tiền lương theo cấp bậc, chức vụ hay cấp hàm và thời gian làm việc thực tế của họ.
Hình thức trả lương này bao gồm:
- Lương tháng = Mức lương theo bảng của nhà nước + Các khoản phụ cấp (nếu có).
- Lương ngày: là tiền lương tính trả cho người lao động theo mức lương ngày và số ngày làm việc thực tế trong tháng.
Lương ngày
=
Lương tháng
=
Lương tháng
Ngày chế độ tháng
22 ngày làm việc theo chế độ
Mức lương dùng để trả theo chế độ với người lao động theo hợp đồng thời hạn từ 1 tháng trở lên, thường thì cơ quan hợp đồng lao động hay doanh nghiệp tổ chức chấm công theo ngày và trả gộp 15 ngày 1 lần cùng kì với người hưởng lương tháng. Đối với lao động làm công nhật hoặc làm công công việc có tính tạm thời theo mùa vụ, làm công việc có tính thời hạn dưới 3 tháng thì có thể gộp 1 số ngày để trả 1 lần, cũng có thể trả ngay sau mỗi ngày làm việc nhưng phải tính thêm cho họ khoản bảo hiểm xã hội, ít nhất 15% vào tiền lương để người lao động tự lo vấn đề bảo hiểm xã hội cho mình.
- Lương giờ để trả cho số giờ làm việc, hoặc số giờ làm thêm:
Lương giờ
=
Lương ngày
=
Lương ngày
Độ dài lao động
8 giờ
*. Hình thức trả lương theo thời gian có thưởng:
Thực chất là sự kết hợp trả lương theo thời gian giản đơn và tiền thưởng thường xuyên từ quỹ (vì đảm bảo ngày công, giờ công ...)
Tiền lương
=
Tiền lương theo thời gian lao động đơn giản
+
Tiền thưởng
Hình thức trả lương theo thời gian có ưu điểm là dễ tính, dễ trả lương cho người lao động. Nhưng bản thân hình thức tiền lương theo thời gian cũng còn nhiều hạn chế như chưa gắn chặt tiền lương với kết quả chất lượng lao động.
2.1.3. Lương nghỉ phép và các khoản phụ cấp làm đêm, làm thêm.
Theo chế độ hiện hành, khi người lao động nghỉ phép thì được trả 100% tiền lương theo cấp bậc. Tiền lương nghỉ phép và tiền lương phụ cấp của người lao động. Hiện nay, một năm một người được nghỉ phép 12 ngày, nếu làm việc 5 năm liên tục thì tính thêm một ngày vào thời gian nghỉ phép, từ 30 năm trở lên thì nghỉ thêm 6 ngày. Tiền lương nghỉ phép được đưa vào chi phí sản xuất từng tháng. Nếu doanh nghiệp không chỉnh, bố trí cho người lao động nghỉ phép ổn định đều đặn giữa các tháng trong năm thì doanh nghiệp phải trích trước tiền lương nghỉ phép để đảm bảo chi phí ổn định giữa các tháng trong năm.
Tỷ lệ trích trước tiền lương nghỉ phép
=
Tổng số tiền lương nghỉ phép
theo kế hoạch năm
x
100
Tổng số tiền lương trích trước
theo kế hoạch cả năm
Nhằm đảm bảo cho giá thành sản phẩm và chi phí quản lý, chi phí bán hàng được chính xác, số tiền nhằm phân bổ trước về tiền lương nghỉ phép năm được điều chỉnh vào những tháng cuối năm tăng thêm hoặc giảm bớt tuỳ thuộc vào số tiền lương nghỉ phép thực tế của toàn thể người lao động trong doanh nghiệp.
Nếu người lao động vì lý do gì đó mà không nghỉ phép được thì thanh toán 100% lương cấp bậc theo số ngày nghỉ phép còn lại mà người đó chưa nghỉ.
Khi người lao động làm thêm giờ thì phải có phiếu báo làm đêm làm thêm giờ để có căn cứ tính lương thêm giờ và phụ cấp làm đêm. Khi người lao động làm việc ngoài giờ tiêu chuẩn thì giờ làm thêm được trả bằng 150% tiền lương giờ tiêu chuẩn nếu làm thêm vào ngày thường và được trả 200% nếu vào ngày nghỉ hàng tuần hoặc ngày lễ.
Lương làm thêm giờ
=
Lương cấp bậc tháng
x
Số công làm thêm giờ
x
30% (40%)
22
2.2. Quỹ tiền lương:
Quỹ tiền lương của doanh nghiệp là toàn bộ số tiền lương tính theo công nhân viên của doanh nghiệp do doanh nghiệp quản lý chi trả lương.
Quỹ tiền lương bao gồm:
- Tiền lương thời gian, tiền lương tính theo sản phẩm và tiền lương khoán.
- Tiền lương trả cho người lao động trong thời gian ngừng sản xuất do nguyên nhân khách quan, trong thời gian được điều động công tác làm nghĩa vụ theo chế độ quy định, thời gian nghỉ phép, thời gian đi học.
- Các loại phụ cấp làm đêm, thêm giờ.
- Các khoản tiền thưởng có tính chất thường xuyên.
Quỹ tiền lương kế hoạch trong doanh nghiệp còn được tính cả các khoản trợ cấp BHXH trong thời gian người lao động ốm đau, thai sản, tai nạn lao động. Trong doanh nghiệp để phục vụ cho công tác hạch toán, tiền lương có thể được chia thành hai loại:
Tiền lương lao động trực tiếp và tiền lương lao động gián tiếp, trong đó chi tiết theo tiền lương chính và tiền lương phụ.
Tiền lương chính: là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian người lao động thực hiện nhiệm vụ chính của họ, gồm tiền lương trả theo cấp bậc và các khoản phụ cấp kèm theo.
Tiền lương phụ: Là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian người lao động thực hiện nhiệm vụ khác, ngoài nhiệm vụ chính và thời gian người lao động nghỉ phép, nghỉ tết, nghỉ vì ngừng sản xuất ... được hưởng lương theo chế độ.
Tiền lương chính của công nhân trực tiếp sản xuất gắn liền với quá trình sản xuất ra sản phẩm. Vì vậy việc phân tích chia tiền lương chính và tiền lương phụ có ý nghĩa quan trọng đối với côn