Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình luôn được xác định là một bộ phận quan trọng của Chiến lược phát triển đất nước, một trong những vấn đề kinh tế xã hội hàng đầu của quốc gia. Thực hiện tốt công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình là giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, luật pháp, chiến lược nhằm quan tâm toàn diện đến công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình. Tổng cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình và các Bộ, ngành liên quan đã ban hành nhiều thông tư liên tịch, văn bản hướng dẫn để thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và luật pháp của Nhà nước về công tác này. Ngày 14/01/1993 tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 04 về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình (gọi tắt là Nghị quyết TW 4 khoá VII), đây là văn bản có tính chất quan trọng, làm tiền đề cho những quyết sách về công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình sau này của Đảng và Nhà nước. Quán triệt và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, qua hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết TW 04 khoá VII, với sự chỉ đạo sâu sát của các cấp uỷ đảng, chính quyền, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và sự hưởng ứng mạnh mẽ của nhân dân, chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình đã thực sự đi vào cuộc sống và đạt được những kết quả quan trọng: nhận thức của toàn xã hội đã có bước chuyển rõ rệt, quy mô gia đình có một hoặc hai con được chấp hành ngày càng rộng rãi; tốc độ gia tăng dân số đã được khống chế, số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm từ 3,5 con năm 1992 xuống 2,28 con năm 2002, tỷ lệ tăng dân số giảm tương ứng từ hơn 2% còn 1,32%. Kết quả công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình đã góp phần rất quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập bình quân đầu người hàng năm, xoá đói, giảm nghèo và nâng cao mức sống của nhân dân. Với những thành tựu của công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình, năm 1999, Việt Nam đã được nhận giải thưởng Dân số của Liên hợp quốc. Tuy nhiên, từ sau năm 2000 kết quả thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình chững lại và giảm sút. Từ khi Pháp lệnh Dân số ra đời năm 2003, trong hai năm 2003 và 2004, tỷ lệ phát triển dân số, tỷ lệ sinh con thứ ba tăng mạnh trở lại. Đặc biệt là tình trạng cán bộ, đảng viên sinh con thứ ba trở lên tăng nhiều ở hầu hết các địa phương, gây tác động tiêu cực đến phong trào nhân dân thực hiện kế hoạch hoá gia đình. Tình hình này đã làm chậm thời gian đạt mức sinh thay thế (trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ có 2 con). Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do chúng ta chưa nhận thức đầy đủ tính chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của công tác này trong bối cảnh kinh tế, văn hoá và xã hội của đất nước, dẫn đến chủ quan, thoả mãn với những kết quả đạt được ban đầu, buông lõng lãnh đạo, chỉ đạo. Tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình thiếu ổn định, quá tải, quản lý kém hiệu quả, việc ban hành Pháp lệnh Dân số và một chính sách liên quan thiếu chặt chẽ.
54 trang |
Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 4987 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công tác xã hội với việc thực hiện dân số - Kế hoạch hoá gia đình của xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình luôn được xác định là một bộ phận quan trọng của Chiến lược phát triển đất nước, một trong những vấn đề kinh tế xã hội hàng đầu của quốc gia. Thực hiện tốt công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình là giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, luật pháp, chiến lược nhằm quan tâm toàn diện đến công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình. Tổng cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình và các Bộ, ngành liên quan đã ban hành nhiều thông tư liên tịch, văn bản hướng dẫn để thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và luật pháp của Nhà nước về công tác này. Ngày 14/01/1993 tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 04 về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình (gọi tắt là Nghị quyết TW 4 khoá VII), đây là văn bản có tính chất quan trọng, làm tiền đề cho những quyết sách về công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình sau này của Đảng và Nhà nước. Quán triệt và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, qua hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết TW 04 khoá VII, với sự chỉ đạo sâu sát của các cấp uỷ đảng, chính quyền, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và sự hưởng ứng mạnh mẽ của nhân dân, chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình đã thực sự đi vào cuộc sống và đạt được những kết quả quan trọng: nhận thức của toàn xã hội đã có bước chuyển rõ rệt, quy mô gia đình có một hoặc hai con được chấp hành ngày càng rộng rãi; tốc độ gia tăng dân số đã được khống chế, số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm từ 3,5 con năm 1992 xuống 2,28 con năm 2002, tỷ lệ tăng dân số giảm tương ứng từ hơn 2% còn 1,32%. Kết quả công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình đã góp phần rất quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập bình quân đầu người hàng năm, xoá đói, giảm nghèo và nâng cao mức sống của nhân dân. Với những thành tựu của công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình, năm 1999, Việt Nam đã được nhận giải thưởng Dân số của Liên hợp quốc. Tuy nhiên, từ sau năm 2000 kết quả thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình chững lại và giảm sút. Từ khi Pháp lệnh Dân số ra đời năm 2003, trong hai năm 2003 và 2004, tỷ lệ phát triển dân số, tỷ lệ sinh con thứ ba tăng mạnh trở lại. Đặc biệt là tình trạng cán bộ, đảng viên sinh con thứ ba trở lên tăng nhiều ở hầu hết các địa phương, gây tác động tiêu cực đến phong trào nhân dân thực hiện kế hoạch hoá gia đình. Tình hình này đã làm chậm thời gian đạt mức sinh thay thế (trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ có 2 con). Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do chúng ta chưa nhận thức đầy đủ tính chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của công tác này trong bối cảnh kinh tế, văn hoá và xã hội của đất nước, dẫn đến chủ quan, thoả mãn với những kết quả đạt được ban đầu, buông lõng lãnh đạo, chỉ đạo. Tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình thiếu ổn định, quá tải, quản lý kém hiệu quả, việc ban hành Pháp lệnh Dân số và một chính sách liên quan thiếu chặt chẽ.
Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, tình trạng nghèo đói còn nhiều, quy mô dân số hiện nay khá lớn với khoảng 90 triệu người, mật độ dân số vào hàng cao nhất thế giới, chất lượng dân số chưa được cải thiện đáng kể, do đó việc tăng nhanh dân số trở lại sẽ phá vỡ những thành tựu đạt được, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội và việc nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân làm chậm quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và đặt nước ta trwocs nguy cơ tụt hậu xa hơn. Vì vậy, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong thời gian tới.
Xuất phát từ mục đích ý nghĩa to lớn ấy, chính sách dân số - kế hoạch gia đình cần phải được quan tâm, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động. Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn hơn về vấn đề này tôi chọn đề tài “Công tác xã hội với việc thực hiện dân số - kế hoạch hoá gia đình của xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình” để làm đề tài nghiên cứu. Với những khẳng định nêu trên để xây dựng đất nước.
2.Mục tiêu nghiên cứu:
Đánh giá tình hình công tác thực hiện dân số - kế hoạch hoá gia đình tại địa bàn xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
Tìm hiểu các nguyên nhân và những yếu tố dẫn đến việc gia tăng dân số hiện nay trên địa bàn xã.
Tìm hiểu thái độ, suy nghĩ của người dânvề giáo dục tư vấn kế hoạch hoá gia đình
Đưa ra một số đề xuất góp phần tăng cường hiệu quả của công tác thực hiện dân số - kế hoạch hoá gia đình tại địa bàn xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
3. Phương pháp nghiên cứu:
3.1. Phương pháp thu thập thông tin:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã sử dụng một số phương pháp thu thập thông tin như: quan sát, phỏng vấn, đọc và phân tích tài liệu.
3.1.1 Phương pháp quan sát:
Sử dụng phương pháp quan sát để nhìn nhận cuộc sống gia đình quan sát từ đó rút ra các điều kiện ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến địa phương, việc quan sát này rất có ý nghĩa trong việc thu thập thông tin để đưa ra các giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề đang tồn tại của địa phương.
3.1.2 Phương pháp phỏng vấn:
Đề tài đã tiến hành phỏng vấn, trao đổi ý kiến với lãnh đạo xã và người dân nhằm hiểu rõ sâu hơn về vấn đề thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình của địa phương.
3.1.3 Phương pháp đọc và phân tích tài liệu:
Tiến hành thu thập, đọc và phân tích một số tài liệu, bài viết liên quan trên báo chí, các tài liệu thống kê của thôn , xã.
Thông qua các tài liệu thống kê về công tác dân số kế hoạch hoá gia đình của Uỷ ban dân số kế hoạch hoá gia đình và một số tạp chí, sách báo có liên quan, để phân tích chất lượng dân số, tác động của chính sách đến dân số - kế hoạch hoá gia đình của địa phương.
3.1.4 Phương pháp thu thập số liệu
- Số liệu thứ cấp:
+ Lấy thông tin qua sách báo, internet và các tài liệu liên quan.
+ Thông qua việc nghe báo cáo của xã, thôn và các tài liệu xã cung cấp.
- Số liệu sơ cấp: Thu thập số liệu thông qua việc phỏng vấn trực tiếp người dân. Bằng cách phối hợp với các cấp chính quyền địa phương đi xuống thực địa tiếp xúc với các hộ, quan sát thực tế cuộc sống, ghi chép lại các thông tin lien quan đến công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình.
4.Phạm vi nghiên cứu
Không gian: Xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.
Thời gian: Từ 12/5 đến 24/5 năm 2014
5. Bố cục:
Đề tài ngoài lời mở đầu, nội dung, kết luận, kiến nghị, mục lục, tài liệu tham khảo, phần phụ lục, nội dung được chia làm 3 chương chính
Chương 1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứư và các khái niệm liên quan.
Chương 2. Thực trạng công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
Chương 3. Công tác xã hội với việc thực hiện dân số kế hoạch hoá gia đình tại xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
1.1.Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Không chỉ gần đây mà đã từ lâu công tác dân số luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và coi đó là nhiệm vụ quan trọng của chiến lược phát triển đất nước. Nhất là những năm gần đây công tác dân số được chú trọng quan tâm, được xem là nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chính vì thế mà vấn đề DS-KHHGĐ ở xã Lương Ninh đã đạt được nhiều thành công đáng khích lệ song bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế và khó khăn đang cần được tháo gỡ và giải quyết.
Do vậy mà báo cáo tốt nghiệp đề tài nghiên cứu “CTXH với việc thực hiện dân số kế hoạch hóa gia đinh của xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình” không hoàn toàn mang ý chủ quan, hay là một “phát kiến” và cũng không phải là một chủ đề gì mới mẽ trong khoa học nghiên cứu thậm chí là đã được nói đến rất nhiều. Thế nhưng đây là vấn đề luôn nóng bỏng ở xã Lương Ninh nói riêng và cả nước nói chung cũng như trên toàn thế giới bởi tốc độ gia tăng dân số đang diễn ra ngày càng cao và cùng với nó là nhiều vấn đề khó khăn phức tạp như nghèo đói, ô nhiễm môi trường và nhiều vấn đề khác. Nhưng cái mới trong nghiên cứu này đó là việc lột tả được những kiến thức hiểu biết của người dân về DS-KHHGĐ, chất lượng dân số hiện nay ở xã Lương Ninh, đồng thời nghiên cứu này góp phần đưa ra những nguyên nhân lý giải được thực trạng hiện tại đó và tìm ra phương án giải quyết những tồn tại về vấn đề DS-KHHGĐ trên địa bàn xã Lương Ninh.
1.2.Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
1.2.1. Điều kiện tự nhiên
1.2.1.1 Vị trí địa lý
Lương Ninh là một xã đồng bằng ven biển, có tổng diện tích tự nhiên là 561,59 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp là 312,40 ha, đất trồng lúa 201,19 ha, đất trồng cây hàng năm là 28,71 ha, đất trồng cây lâu năm khác là 18,32 ha, đất lâm nghiệp là 19,61 ha, đất nuôi trồng thuỷ sản là 44,57 ha, đất phi nông nghiệp là 235,09 ha. Dân số toàn xã là 4.077 khẩu, 1.069 hộ, đời sống chủ yếu là nông nghiệp, đời sống nhân dân trên toàn xã còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới chiếm 13,66%. Địa giới hành chính được chia thành 3 thôn, trong đó có 02 thôn Lương Yến, Văn La với 11 xóm và thôn Phú cát nằm độc lập.
Trong những năm chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, nhân dân xã Tiên Châu đã đóng góp sức người, sức của cho sự nghiệp cách mạng. Phát huy truyền thống anh hùng cách mạng trong kháng chiến và trong lao động sản xuất, với tiềm năng đất đai, lao động, tài nguyên khoáng sản đây là thế mạnh để phát triển kinh tế - xã hội, với ý chí tự lực, tự cường, chịu khó đồng thời với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ủy, HĐND xã, sự phối hợp chặt chẽ giữa UBMT và các đoàn thể chính trị - xã hội nền kinh tế xã nhà từng bước được phát triển, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên.
- Phía Bắc: Giáp huyện Quảng Ninh, giữa thị trấn Quán Hàu với thành phố Đồng Hới.
- Phía Đông : Giáp xã Bảo Ninh, thành phố Đồng Hới và xã Võ Ninh.
- Phía Nam : Giáp thị trấn Quán Hàu, huyện Quảng Ninh.
- Phía Tây : Giáp xã Vĩnh Ninh , huyện Quảng Ninh.
1.2.1.2. Khí hậu
Là một xã nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nên thời tiết trong năm được chia thành 2 mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa
Nhiệt độ trung bình hằng năm là 25C được chia thành 2 mùa: mùa lạnh và mùa nóng
Mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau với nhiệt độ trung bình là 20,5độ C.
Mùa nắng từ tháng 5 đến tháng 10 với nhiệt độ trung bình là 30,5 độ C
Độ ẩm không khí trung bình hằng năm khoảng 80,50. Lương Ninh là xã thịnh hành với hai hướng gió chính đó là:
Gió mùa đông bắc: hình thành từ tháng 8 đến tháng 2 năm sau, tốc độ gió thường từ cấp 3 đến cấp 4 trung bình mỗi năm có 3-5 đợt gió. Gió mùa Đông Bắc thường làm cho nhiệt độ không khí giảm kèm theo mưa kéo dài ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống người dân nhất là trẻ em, phụ nữ và người già.
Gió Tây Nam: hình thành từ tháng 4 đến tháng 8, tốc độ gió đạt đến cấp 3, cấp 4 mạnh nhất là tháng 6 và tháng 7, đây là thời gian nóng nhất trong năm.
Là một xã miền núi thuộc miền Trung Trung Bộ nên xã Lương Ninh cũng phải đón nhận nhiều cơn bão hàng năm. Bão lụt thường xuất hiện vào tháng 10, 11AL. Gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và đời sống sinh hoạt của nhân dân trong xã.
1.2.2. Điều kiện kinh tế-xã hội
1.2.2.1. Lĩnh vực kinh tế
Sản xuất nông nghiệp: Tổng diện tích geo trồng cây hang năm 429,9/420 ha, đạt 102,3%. Tổng sản lượng lương thực có hạt 1260,3/1213 tấn, đạt 103,8% trong đó sản lượng lúa là: 1238,5/1192 tấn, năng suất lúa bình quân 46,3 tạ/ha, tăng 102 tấn so với năm 2011. Các lạo cây màu khác cơ bản ổn định.
Tổng đàn gia súc 2.044/2860 con đạt 71% kế hoạch, so với cùng kỳ giảm 3%. Trong đó, Trâu: 362/360 con đạt 100,5% kế hoạch; Bò: 735/1000 con đạt 73,5% kế hoạch, trong đó bò lai: 216/400 con đạt 54% kế hoạch, Heo: 947/1500 con đạt 63%, trong đó heo nái: 181 con; tổng đàn gia cầm: 14.721/15.000 con đạt 98% kế hoạch. Đàn gia súc giảm do diện tích chăn thả bị thu hẹp, nhân dân tập trung phát triển cây lâm nghiệp, giá cả thị trường của các sản phẩm từ chăn nuôi không ổn định, nhân dân không mạnh dạn đầu tư phát triển đàn.
Công nghiệp, TTCN, thương mại và dịch vụ: Gía trị sản xuất CN-TTCN, thương mại và dịch vụ năm 2012 ước đạt 1,5 tỳ đồng, các cơ sở kinh doanh dịch vụ, đến nay có 101 cơ sở, dịch vụ buôn bán tăng 15 cơ sở. Đẩy mạnh tuyền vận động cán bộ và nhân dân thực hiện cuộc vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hang Việt Nam.
Công tác quy hoạch, quản lý đất đai, tài nguyên khoáng sản: Thực hiện quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2012-2020. Thực hiện tốt việc tổ chức cho nhân dân cắm mốc ranh giới đất lâm nghiệp ngoài thực địa trước khi bàn giao GCN.
Lĩnh vực xây dựng cơ bản: Xã tranh thủ các nguồn vốn hỗ trợ của cấp trên, đầu tư xây dựng các công trình bức thiết như kênh mương thôn Phú Cát, đường liên thôn liên xóm, bê tông hóa giao thông nông thôn tuyến đường từ thôn Lưỡng Yến đi cụm Phú Cát với chiều dài 1km, triển khai 2 tuyến đường liên xóm tại thôn Văn La do tầm nhìn thế giới tài trợ, công trình nghĩa địa của xã giai đoạn 1 với tổng số tiền chi đầu tư xây dựng cơ bản trong năm là 2.621.100.500 đồng, ..
Lĩnh vực tài chính- ngân sách: Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2012 đạt 6.942.841.804 đồng, đạt 125% dự toán huyện giao, tăng 20% so với năm 2011.
Tổng chi ngân sách là: 6.564.006.644 đồng, đạt 110%KH, nguyên nhân do tăng lương, chế độ bảo trợ xã hội, các khoản chi phát sinh tăng.
1.2.2.2. Lĩnh vực văn hóa xã hội
Giáo dục
Công tác giảng dạy của các trường được nâng lên. Chất lượng ngày càng cao, học sinh giỏi, khá các cấp học đạt tỉ lệ cao, học sinh tốt nghiệp THCS đạt 100%. Cán bộ, giáo viên, CNVC của 3 trường ổn định, luôn gương mẫu thực hiện tốt cuộc vận động học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Hoạt động của trung tâm học tập cộng đồng xã được củng cố.
Hoạt động Văn hóa – Thể thao, Truyền thanh: Công tác thông tin tuyên truyền chào mừng các sự kiện lễ lớn, phục vụ nhiệm vụ chính trị tại địa phương, giáo dục pháp luật, xây dựng đời sống văn hóa, phòng chống tệ nạn ma túy, phòng chống bạo lực gia đình..được tổ chức rộng khắp. Duy trì và phát huy tốt các cụm truyền thanh trên địa bàn xã nhằm nâng cao chất lượng hoạt động trên kênh thông tin đại chúng, góp phần phổ biến kịp thời các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Công tác Lao động – Thương binh và Xã hội: Triển khai thực hiện đạt kết quả chương trình giảm nghèo, việc làm, bảo vệ chăm sóc, giáo dục trẻ em. Tổ chức triển khai thực hiện hỗ trợ nhà ở theo Nghị định 67/CP là 37 nhà, nâng tổng số nhà ở người nghèo được hỗ trợ xây dựng từ năm 2009 đến nay là 173 nhà. Đã cấp phát 2.438 thẻ BHYT cho người nghèo, người cận nghèo và đối tượng xã hội. Kết quả điều tra hộ nghèo năm 2012, hộ nghèo là 207 hộ, tỷ lệ 18,09 % giảm 7,02 % hộ cận nghèo 198 hộ, tỷ lệ 17,31% giảm 6,4%.
Công tác Y tế - Dân số - Gia đình và trẻ em: Thực hiện tốt công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân. Công tác tiêm chủng mở rộng đạt 100%, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng 5 tuổi, giảm còn 19,2%. Đã tổ chức các chiến dịch truyền thông SKSS-KHHGĐ. Duy trì hoạt động của các thôn,sinh hoạt câu lạc bộ không sinh con thứ 3 trở lên. Mạng lưới dịch vụ KHHGĐ và cung cấp dụng cụ tránh thai được mở rộng tạo thuận lợi cho dối tượng tiếp cận được dễ dàng. Công tác chăm sóc, bảo vệ, giúp đỡ trẻ em nhất là trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được quan tâm thực hiện tốt, kịp thời.
1.3. Một số khái niệm liên quan
1.3.1. Dân số
Dân số là tập hợp những người sinh sống trong một quốc gia, khu vực, vùng địa lý kinh tế hoặc đơn vị hành chính.
1.3.2. Quy mô dân số
Quy mô dân số là số người sống trong một quốc gia khu vực, vùng địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính tại thời điểm nhất định.
1.3.3. Cơ cấu dân số
Cơ cấu dân số là tổng số dân được phân loại theo giới tính, độ tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân và các đặc trưng khác.
1.3.4 Phân bố dân cư
Phân bố dân cư là sự phân chia tổng số dân theo khu vực (thành thị, nông thôn, miền núi, đồng bằng, hải đảo, trung du) Lĩnh vực kinh tế xã hội (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ) vùng địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính.
1.3.5 Chất lượng dân số
Chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số.
1.3.6 Kế hoạch hóa gia đình
KHHGĐ là nổ lực của Nhà nước và xã hội để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng chủ động tự ra quyết định số con, thời gian sinh con và khoảng cách các lần sinh nhằm bảo vệ sức khỏe, nuôi dạy con có trách nhiệm, phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện gia đình.
1.3.7 Sức khỏe sinh sản
Sức khỏe sinh sản là sự thể hiện trạng thái thể chất, tinh thần và xã hội liên quan đến hoạt động chức năng sinh sản của mỗi con người.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH TẠI XÃ LƯƠNG NINH HUYỆN QUẢNG NINH TỈNH QUẢNG BÌNH
2.1. Thực trạng công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình
2.1.1. Thực trạng tình hình chung
Trên cơ sở bài giảng, số liệu thu thập qua một số tài liệu cho thấy dân số thế giới nói chung, dân số Việt Nam, và dân số địa phương nói riêng hằng năm luôn luôn có sự gia tăng.
2.1.2. Thực hiện tình hình dân số và hoạt động công tác DS-KHHGĐ
Lương Ninh là xã đông dân, tính đến năm 2013 có 1069 hộ, 4077 khẩu. Phân bố dân cư không đồng đều. Kinh tế-xã hội có phần tương đối phát triển hơn những xã khác nhưng cũng là địa bàn tập trung dân cư đông đúc, trình độ dân trí có phát triển nhưng tính chất của các hoạt động cứng khá đa dạng phức tạp. Bởi lẽ đó nên các phong trào 1 trong những xã mạnh, nhưng mạnh nhất là công tác y tế phục vụ cho việc chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân. Công tác y tế ở xã nhiều năm đều được huyện, Sở y tế công nhận là đơn vị có nhiều thành thích xuất sắc. Do đó Lương Ninh những năm trước đây là xã luôn chọn làm xã điểm thực hiện các chưng trình y tế quốc gia. Vào những năm cuối thập kỷ 80 công tác DS-KHHGĐ là công tác mới mẽ trên địa bàn huyện, trình độ nhận thức của nhân dân lúc này hầu hết chưa nắm bắt được thông tin gì về công tác này, còn ý thức trách nhiệm của cán bộ đảng viên còn nhiều hạn chế, công tác tuyên truyền vận động còn rất ngỡ ngàng đối với người làm nhiệm vụ trong lĩnh vực này. Năm 1989 Lương ninh được chọn làm xã đầu tiên của huyện triển khai thực hiện chương trình công tác DS-KHHGĐ. Trong thời gian này Trung tâm y tế huyện đã xuống trực tiếp triển khai chỉ đạo thực hiện – cùng với sự phối hợp của UBND xã, Trạm y tế xã trong thời gian đầu chủ yếu tập trung vào công tác vận động, cán bộ được phân công xuống tận từng thôn, tổ để sinh hoạt vận động nhân dân, điều tra phân loại đối tượng trong diện sinh đẻ để thực KHHGĐ và chọn 2 thôn: thôn 1 và thôn để làm điểm trong thời gian đầu. Giai đoạn được gọi là “ Vạn sự khởi đầu nan” này gặp rất nhiều khó khăn từ công tác vận động, nắm bắt đối tượng, thực hiện KHHGĐ vì lúc này là lần đầu tiên thực hiện nên người thực hiện kế hoạch chưa thực sự an tâm tin tưởng và cũng rất lo sợ nhưng với sự quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, vận dụng mọi khả năng thuyết phục nên 1 tuần thực hiện vận động ở 2 thôn đã có: 45 chị đến khám và đặt được 15 vòng, đây là cái mốc và cũng là dấu hiệu được nhiều người quan tâm trong bước đầu của chương trình DS-KHHGĐ của xã nói riêng và trong toàn huyện nói chung, nhờ đó cũng từ những kết quả đạt được tuy chưa cao và không xảy ra tai biến gì nên công tác DS-KHHGĐ sau này có điều kiện mở rộng trên toàn xã.
Trong những năm 1986-1990 công tác DS-KHHGĐ được xem là 1 trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành y tế, trong thời gian này chưa hình thành ban dân số, mạng lưới cộng tác viên và cán bộ chuyên trách mà trạm y tế phân công phụ trách khu vực để thực hiện công tác vận động thực hiện chương trình còn hạn chế, tại xã chưa có cán bộ làm dịch vụ và cũng chưa có phòng KHHGĐ nên ở xã chỉ vận động người dân về Trung tâm y tế huyện để thực hiện các biện pháp tránh thai.
Từ năm 1991- nay theo tinh thần của trên tại xã đã thành lập Ban Dân số và đội ngũ cộng tác viên, trong những năm gần đây Lương Ninh đã thực hiện tốt chỉ tiêu nhiệm vụ công tác DS-