Trong đời sống dân sự diễn ra hàng ngày hàng giờ, hầu hết các trường hợp chủ thể quan hệ pháp luật dân sự đều tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự từ khi cam kết, thỏa thuận và thực hiện những quyền nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự. Tuy nhiên do tính chất phong phú, đa dạng của giao lưu dân sự cũng như do vài lý do khách quan, chủ quan của chủ thể quan hệ pháp luật dân sựmà trong những trường hợp nhất định chủ thể xác lập thực hiện giao dịch dân sự cần có sự giúp đỡ của người khác, phải thông qua hành vi của một người khác. Vì thế để đảm bảo cho mọi chủ thể có thể tham gia quan hệ pháp luât dân sự và khác phục điều trên mà chế độ đại diện đã ra đời. Nội dung của chế độ đại diện này được quy định cụ thể chi tiết trong BLDS 2005.Nhận thấy vấn đề Đại diện là một chế định truyền thống và quan trọng của Luật dân sự nên em xin phép được chọn đề tài số 5 cho bài tập lớn học kì này .
18 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3567 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đại diện trong quan hệ pháp luật dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu .
Trong đời sống dân sự diễn ra hàng ngày hàng giờ, hầu hết các trường hợp chủ thể quan hệ pháp luật dân sự đều tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự từ khi cam kết, thỏa thuận và thực hiện những quyền nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự. Tuy nhiên do tính chất phong phú, đa dạng của giao lưu dân sự cũng như do vài lý do khách quan, chủ quan của chủ thể quan hệ pháp luật dân sựmà trong những trường hợp nhất định chủ thể xác lập thực hiện giao dịch dân sự cần có sự giúp đỡ của người khác, phải thông qua hành vi của một người khác. Vì thế để đảm bảo cho mọi chủ thể có thể tham gia quan hệ pháp luât dân sự và khác phục điều trên mà chế độ đại diện đã ra đời. Nội dung của chế độ đại diện này được quy định cụ thể chi tiết trong BLDS 2005.Nhận thấy vấn đề Đại diện là một chế định truyền thống và quan trọng của Luật dân sự nên em xin phép được chọn đề tài số 5 cho bài tập lớn học kì này .
Đê 5 : Đại diện trong quan hệ pháp luật dân sự .
Vì kiến thức và sự hiểu biết của em còn vô cùng hạn chế nên khó tránh khỏi những sai sót nên em mong thầy cô thông cảm và giúp đỡ để em có thể hoàn thiện hơn kiến thức của mình .
Nội Dung.
I) Khái niệm và phân loại Đại diện.
1)Khái niệm .
Đại diện là một chế định truyền thống của Luật Dân sự , thể hiện tính linh hoạt mềm dẻo trong cách thức tham gia vào giao dịch dân sự của các chủ thế .Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự rất đa dạng , ngoài cá nhân còn có pháp nhân , hộ gia đình , tổ hợp tác ,.., nhà nước CHXHCN Việt Nam .Đối với các chủ thể mang quyền lợi có tính cộng đồng thì việc tham gia quan hệ pháp luật dân sự bắt buộc phải thông qua hành vi của người đại diện .Đối với cá nhân , bên cạnh việc có thể tự mình trực tiếp tham gia ký kết vào những giao dịch dân sự thì các chủ thể còn có thể tham gia một cách gián tiếp và được hưởng lợi ích cũng như có nghĩa vụ từ các giao dịch đó thông qua một người khác , gọi là người đại diện .Chế định này còn là phương tiện pháp lý hữu ích đối với các cá nhân mà theo quy định của pháp luật không thể trực tiếp tham gia giao dịch dân sự ( Như người mất năng lực hành vi , bị tòa tuyên bố mất năng lực hành vi , vv..).
Theo Khoản 1 điều 139 BLDS 2005 quy định : “ Đại diện là việc một người ( sau đây gọi là người đại diện ) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện ) xác lập thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi thẩm quyền đại diện”.
Tóm lại , Đại diện là một quan hệ pháp luật dân sự bao gồm hai bên chủ thể là bên đại diện và bên được đại diện . Quan hệ đại diện là căn cứ để làm phát sinh thêm một quan hệ ( giao dịch dân sự ) tiếp theo là quan hệ giữa người đại diện với người thứ ba theo ý chí của người được đại diện và vì lợi ích của người được đại diện .Mọi cá nhân đều được pháp luật bảo vệ quyền tham gia xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự có thể trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người khác . Tuy nhiên cá nhân không được người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập thực hiện giao dịch đó .VD: không công nhận cho cá nhân ủy quyền cho người khác thay mặt đến văn phòng công chứng , vv…
2) Đặc điểm của quan hệ Đại diện .
Ngoài các đặc điểm cảu quan hệ pháp luật dân sự nói chung , quan hệ đại diện có những đặc điểm riêng sau đây :- Đại diện làm phát sinh hai mối quan hệ cùng tồn tại song song đó là quan hệ bên trong và quan hệ bên ngoài . Quan hệ bên trong là quan hệ giữa người đại diện và người được đại diện , quan hệ bên ngoài là mối quan hệ giữa người đại diện và người thứ ba . Thực tế còn tồn tại một mối quan hệ về lợi ích và trách nhiệm giữa người được đại diện và người thứ ba ( còn gọi là mối quan hệ gián tiếp).
-Người đại điện xác lập quan hệ với người thứ ba là nhân danh người được đại diện chứ không phải nhân danh chính họ.Do vậy người đại diện phải giới thiệu tư cách pháp lý của mình với người thứ ba để người này hiểu được hai vấn đề trước khi xác lập giao dịch đó là : thứ nhất , ai là người người trao đổi lợi ích hay chịu trách nhiệm về hậu quả của giao dịch với họ ; thứ hai là thẩm quyền của người đại diện đến đâu và đưa ra cơ sở chứng minh như hợp đồng ủy quyền hay các bằng chứng khác vv…
- Mục đích người đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba là vì lợi ích của người được đại diện .Lợi ích và quyền lợi trong quan hệ với người thứ ba được chuyển cho người được đại diện. Vậy người đại điện có được lợi ích gì ?
Trong quan hệ đại diện theo ủy quyền , có thể họ được hưởng thù lao , tiền công theo thỏa thuận . Còn với đại diện theo pháp luật thì chỉ có nghĩa vụ theo pháp luật chứ người đại diện không được hưởng lợi ích vật chất cụ thể từ quan hệ này –Người đại diện là nhân danh người được đại diện và thẩm quyền của họ bị giới hạn trong phạm vi đại diện theo thỏa thuận hay theo quy định của pháp luật nhưng họ vẫn có sự chủ động trong khi tiến hành công việc cần thiết để đạt được mục đích là vì lợi ích của người được đại diện .
3) Các hình thức Đại diện .
Đại diện có hai hình thức trong pháp luật dân sự là :
+ đại diện theo pháp luật .
+ đại diện theo ủy quyền .
3.1) Đại diện theo pháp luật .
Điều 140 , BLDS 2005 quy định : “Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc do cơ quan nhà nước quyết định”
Căn cứ để hình thành quân hệ đại diện này là do ý chí nhà nước .Pháp luật quy định mối quan hệ đại diện được xác lập dựa trên các mối quan hệ tồn tại sẵn có chứ không phụ thuộc vào ý chí hay sự định đoạt của các chủ thể .
Các chủ thể trong quan hệ đại diện theo pháp luật có thể là cá nhân , hộ gia đình , tổ hợp tác hoặc pháp nhân , bao gồm :người chưa thành niên , người được giám hộ , người bị hạn chế năng lực hành vi , pháp nhân , hộ gia đình , tổ hợp tác tương ứng với đó có những người đại diện lần lượt là cha , mẹ ; người giám hộ ;người được tòa án chỉ định ; người đứng đầu pháp nhân ; chủ hộ ; tổ trưởng .
Theo em , các chủ thể được đại diện theo pháp luật có 2 loại .Thứ nhất ,là cá nhân thì cá nhân đó phải là cá nhân không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ , chưa đủ tuổi theo quy định của pháp luật , người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình , người bị tòa án ra quyết định tuyên bố mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự .Do là đối tượng cần được pháp luật bảo vệ bởi bản thân họ không thể trực tiếp tham gia vào các giao dịch nên pháp luật phải quy định sẵn những chủ thể có nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi cho họ trong việc xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự . Thứ hai là các chủ thể mang tính quyên lợi công đồng , là những tổ chức nên khi tham gia vào các giao dịch dân sự bắt buộc phải thông qua người đại diện cụ thể .
Người đại diện phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ .
Các quan hệ trên có tính bền vững và ổn định được dựa trên mối quan hệ huyết thống như cha, mẹ với con chưa thành niên hay dựa trên mối quan hệ pháp lý được ghi nhận như quan hệ giám hộ hoặc dựa trên tính tồn tại ổn định của các chủ thể là tổ hợp tác , pháp nhân , hộ gia đình .
3.2) Đại diện theo ủy quyền .
Khoản 1 điều 142 BLDS quy định : “ Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện”.
Hai bên chủ thể của quan hệ đại diện theo ủy quyền đều có năng lực hành vi dân sự đầy đủ trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều 143BLDS 2005 : người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể là người đaị diện theo ủy quyền trừ trường hợp pháp luật có quy đinh giao dịch dân sự phải do người từ đủ 18 tuổi trở lên xác lập, thực hiện .
Đại diện theo ủy quyền có hai loại : Đại diện theo ủy quyền của cá nhân và đại diện theo ủy quyền của tổ chức ( pháp nhân , tổ hợp tác , hộ gia đình , vv).
Đại diện theo ủy quyền của cá nhân , cá nhân có thể thống qua người khác để xác lập giao dịch dân sự .Người khác ở đây được hiểu là có thể là cá nhân khác hoặc pháp nhân khác . VD: A ủy quyền cho 1 người khác là B hay A có thể ủy quyền cho 1 công ty đứng ra để thực hiện xác lập giao dịch dân sự cho mình.
Đại diện theo ủy quyền của pháp nhân là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân đó ủy quyền cho người khác xác lập thực hiện giao dịch dân sự .
Trong vấn đề đại diện theo ủy quyền của tổ chức được quy định trong từng trường hợp khác nhau .
Khoản 1 Điều 107 BLDS2005 quy định về đại diện theo ủy quyền của hộ gia đình : “ Chủ hộ có thể ủy quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện cho hộ trong quan hệ dân sự”. Đại diện theo ủy quyền của tổ hợp tác là : “ Tổ trưởng tổ hợp tác có thể ủy quyền cho tổ viên thực hiện một số công việc nhất định cần thiết cho tổ”. Như vậy đối với đại diện theo ủy quyền của tổ hợp tác và hộ gia đình thì người được ủy quyền chỉ có thể là thành viên trong hộ gia đình hay tổ hợp tác mà thôi.Còn với pháp nhân thì bộ luật dân sự không chỉ rõ phạm vi những người được ủy quyền .Nên về pháp nhân vấn đề này sẽ được điều chỉnh trong điều lệ của pháp nhân đó .
Khoản 2 , Điều 142 , BLDS 2005 quy định : “ Hình thức ủy quyền do các bên thỏa thuận , trừ trường hợp pháp luật quy định việc ủy quyền phải được lập thành văn bản”.
Pháp luật tôn trọng ý chí của các bên trong việc lựa chọn hình thức tồn tại của quan hệ ủy quyền . Tuy nhiên hợp đồng ủy quyền hoặc giấy ủy quyền dưới hình thức viết tay hay có công chứng , chứng thực sẽ có nhiều lợi ích , đó là cơ sở để người đại diện có thể thể giới thiệu tư cách pháp lý của mình với người thứ ba , hay khi có xảy ra tranh chấp thì đó sẽ là bằng chứng , cớ sở để có thể giải quyết và bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể . Nếu quan hệ ủy quyền xác lập thông qua hình thức miệng thì khi xảy ra tranh chấp sẽ rất khó có cơ sở và chứng cứ để giải quyết .Như vậy căn cứ pháp lý để nhận biết quan hệ ủy quyền là hợp đồng ủy quyền hoặc giấy ủy quyền có công chứng , chứng thực có thể do pháp luật quy định , nếu pháp luật không quy định các bên có thể tự thỏa thuận đưa ra hình thức công chứng , chứng thực cho hợp đồng ủy quyền của mình .
3.3) So sánh 2 loại đại diện : giữa đại diện theo ủy quyền và đại diện theo pháp luật .
Trước hết đại diện theo pháp luật (Điều 140 BLDS 2005: Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định) và đại diện theo ủy quyền (Khoản 1,Điều 142 BLDS 2005: Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện) đều có những điểm giống nhau cơ bản của chế độ đại diện, đó là:
Hai loại đại diện đều là việc một người nhân danh và vì lợi ích của người khác xác lập thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện.
Đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền đều có khung pháp lý chung: Căn cứ xác lập, người nào là đại diện, phạm vi đại diện, chấm dứt đại diện.
Hậu quả giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập thực hiện hoặc do người xác lập thực hiện vượt quá phạm vi đại diện của đại diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền đều không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với người được đại diện trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. (Điều 145, 146 BLDS 2005)
Mặc dù người đại diện (theo pháp luật hay theo ủy quyền) giao dịch dân sự trực tiếp vời người thứ 3 nhưng quan hệ pháp luật dân sự không phải xác lập giữa người đại diện và người thứ 3 mà là giữa người được đại diện với người thứ 3.
Người đại diện: phải thông báo cho người thứ 3 trong giao dịch dân sự biết về phạm vi đại diện của mình; không được xác lập thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ 3 mà mình cũng là đai diện cho người đó trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. (Khoản 4,5 Điều 144 BLDS 2005)
Đại diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền đều chấm dứt đối với cá nhân khi việc ủy quyền không còn cần thiết hoặc việc ủy quyền không tiếp tục thực hiện được, đối với pháp nhân khi pháp nhân chấm dứt; người đại diện hoặc người được đại diện chết. (Điều 147,148 BLDS 2005)
Sau đó đặc biệt quan trọng là những căn cứ phân biệt giữa đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền (nói cách khác là điểm khác nhau gữa chúng); chúng ta sẽ cùng xem xét từng tiêu chí của hai loại đại diện này:
Tiêu chí
ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
ĐẠI DIỆN THEO ỦY QUYỀN
1,Căn cứ xác lập quan hệ đại diện
- Được xác lập do quy định của pháp luật hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định (Điều 140 BLDS 2005).
- VD: Bộ trưởng Bộ GDĐT có thể quyết định một trong các phó hiệu trưởng cán bộ trường đại học làm quyền hiệu trưởng.
- Được xác lập theo sự ủy quyền,theo thỏa thuận ý chí giữa người đại diện và người được đại diện (Điều 142 BLDS 2005)
- VD: Bà A ủy quyền cho chị gái mình bà B tới cơ quan nhận tiền lương tháng hộ.
2,Người đại diện.
- Người đại diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
- VD: Cha, mẹ đối với con chưa thành niên; người giám hộ đối với người được giám hộ;…(Điều 141 BLDS 2005)
- Người đại diện không nhất thiết phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
- CM: Tại khoản 2 Điều 143 BLDS 2005 có quy định người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể là người đaị diện theo ủy quyền trừ trường hợp pháp luật có quy đinh giao dịch dân sự phải do người từ đủ 18 tuổi trở lên xác lập
3,Hình thức đại diện
- Pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định
- Hình thức ủy quyền do các bên thỏa thuận trừ trường hợp pháp luật quy định việc ủy quyền phải được lập thành văn bản.(Khoản 2 Điều 143 BLDS 2005 điều này đã được sửa đổi so với BLDS 1995)
- Tùy vào từng trường hợp mà hợp đồng có thể giản đơn hay phức tạp: bằng miệng hoặc văn bản đơn phương-giấy ủy quyền; hợp đồng ủy quyền- hành vi pháp lý đa phương (HĐUQ: mục 12 chương XVIII BLDS 2005)
4,Phạm vi đại diện
- Người đại diện theo pháp luật có quyền thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của ngừoi được đại diện được pháp luật thừa nhận, không làm ảnh hưởng tới lợi ích của ngừoi được đại diện trừ trường hợp pháp luật hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quy định khác.(Khoản 1 Điều 144 BLDS 2005)
- Phạm vi ủy quyền được xác lập theo sự ủy quyền (Khoản 3 Điều 144 BLDS 2005), người đại diện theo ủy quyền chỉ được xác lập trong khuôn khổ phạm vi đã được xác lập.
- Ngoài ra người đại diện theo ủy quyền còn phải tuân theo nội dung giao dịch (công việc ủy quyền) và thời hạn ủy quyền.
=> Phạm vi đại diện của đại diện theo pháp luật rộng hơn phạm vi đai diện theo ủy quyền
5,Chấm dứt đại diện
Đại diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền nói chung đều chấm dứt khi việc đại diện không còn cần thiết hoặc không thể thực hiên được như đã trình bày ở trên. Tuy nhiên chúng vẫn có những nét khác nhau riêng nổi bật ở đại diện theo ủy quyền
+ Các bên của đại diện theo ủy quyền có quyền đơn phương chấm dứt quan hệ đại diện.(Điểm b, Khoản 2 Điều 147 BLDS 2005: Người ủy quyền hủy bỏ việc ủy quyền hoặc người được ủy quyền từ chối việc ủy quyền và điểm b khoản 2 Điều 148 cũng tương tự như vậy).
+ Việc ủy quyền còn chấm dứt khi người ủy quyền (hoặc pháp nhân) hoặc người được ủy quyền bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết.(Điểm c, Khoản 2 Điều 147 BLDS 2005 và Điểm c khoản 2 Điều 148:BLDS 2005).
+ Hậu quả pháp lý phát sinh sau khi chấm dứt đại diện theo ủy quyền: người đại diện phải thanh toán xong các nghĩa vụ tài sản với người được đại diện (hoặc pháp nhân ủy quyền) hoặc với người thừa kế của người được đại diện (hoặc pháp nhân thừa kế).( Điểm c, Khoản 2 Điều 147 và Điểm c khoản 2 Điều 148:BLDS 2005).
Bổ sung thêm 1 phần khác nhau đó là các chủ thể của đại diện theo ủy quyền thì đều là người có đầy đủ năng lực dân sự ( cả người đại diện và được đại diện ) chỉ trừ trường hợp đặc biệt đã trình bày ở trên .
II) Phạm vi đại diện .
1)Phạm vi đại diện .
“ Phạm vi đại diện là giới hạn quyền và nghĩa vụ của người đại diện trong việc nhân danh người được đại diện xác lập và thực hiện giao dịch với người thứ ba”
Việc xác định phạm vi đại diện có những ý nghĩa pháp lý quan trọng sau đây :
+Thứ nhất , về nguyên tắc “ người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện”( khoản 3, điều 1444, BLDS 2005) và qua đó mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người được đại diện và người thứ ba .Thậm chí , nếu người đại diện có lỗi trong khi thực hiện việc đại diện nhưng trong phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho người thứ ba thì trách nhiệm vẫn thuộc về người đại diện . Người đại diện có lỗi trong phạm vi đại diện sẽ phảo chịu trách nhiệm độc lập với người được đại diện . ( trường hợp này khác với người đại diện vượt quá phạm vi đại diện hoặc không có thẩm quyền đại diện ).
+Người thứ ba phải biết rõ về phạm vi thẩm quyền đại diện bởi họ đang xác lập, thực hiện giao dịch một cách gián tiếp với chủ thể phía bên kia trong quan hệ .
+Thứ ba, phạm vi đại diện còn là căn cứ để xem xét tính hiệu lực của một số giao dịch do người đại diện xác lập , thực hiện.
Khoản 5 Điều 144 quy định : “ Người đại diện không được xác lập , thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó , trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. VD: Ông A ủy quyền cho B mua oto cho A và ông B lại chính là người bán oto, vậy một mình B sẽ đứng về hai phía trong một quan hệ .
Liên quan đến vấn đề này thì trường hợp đối với những cá nhân không có đủ năng lực hành vi , bị tâm thần , không có khả năng nhận thức và điều chỉnh hành vi được pháp luật quy định người giám hộ ( là đại diện cho người được giám hộ ) có quy định để đảm bảo quyền lợi cho người được giám hộ .Tại khoản 3 , điều 69 , BLDS2005 quy định : “ Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan tới tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu , trừ trường hợp giao dịch dược thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của của người giám sát việc giám hộ”.
- Phạm vi đại diện được xác định tùy theo từng hình thức đại diện :
+ Đối với đại diện theo pháp luật :
Khoản 1 Điều 144 BLDS 2005 : “Người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập , thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện”. Như vậy pháp luật cho phép người đại diện theo pháp luật có quyền chủ động tối đa trong việc chủ động lựa chọn , xác lập và thực hiện các giao dịch lien quan đến người được đại diện nhưng phải xuất phát từ lợi ích của người được đại diện. Như vậy , có nghĩa là khi có bất kì khiếu kiện thì người đại diện phải chứng minh được giao dịch đó là vì lời ích của người đại diện . Nếu có chứng minh về sự lạm quyền gây thiệt hại cho người được đại diện thì giao dịch đã xác lập bị tuyên vô hiệu .
Trường hợp đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự , thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật chỉ là “ đồng ý” hay “ không đồng ý” cho phép người bị hạn chế năng lực hành vi tự họ xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự .
+ Đối với đại diện theo ủy quyền :
Khoản 2 Điều 144 BLDS 2005 quy định: “ phạm vi đại diện theo ủy quyền được xác lập theo sự ủy quyền”.
Như vậy , thẩm quyền của người đại diện được giới hạn bởi nội dung ghi trong hợp đồng ủy quyền hay giấy ủy quyền .( Phụ thuộc vào ý chí của người được đại diện cho phép , giới hạn trong một phạm vi ).
Nếu được sự đồng ý của người được đại diện thì người đại diện có thể ủy quyền lại cho người khác .
2) Trường hợp không có thẩm quyền đại diện và vượt quá phạm vi thẩm quyền đại diện .
Về nguyên tắc , giao dịch dân sự do người đại diện xác lập thực hiện chỉ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người được đại diện nếu trong phạm vi đại diện , vì giao dịch được thực hiện phù hợp với ý chí và lợi ích của người được đại diện.
Nếu giao dịch dân sự do người không có thẩm quyền đại diện xác lập , thực hiện thì sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cho người được đại diện .Tuy nhiên , nếu sau đó người đại diện hoặc người được đại diện đồng ý chấp nhận giao dịch đó thì vẫn mang lại quyền và nghĩa vụ của giao dịch .Người đã giao dịch với người không có thẩm quyền đại diện phải thông báo cho người được đại diện hoặc người đại diện của người đó để trả lời trong thời h