Cho đến thời điểm này, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã kéo dài 24 tháng (kể từ tháng 12-2007). Nguy cơ về một cuộc Đại khủng hoảng II lại lần nữa có cơ hội bùng phát, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đang tìm cách thuyết phục các nước áp dụng các gói kích cầu cho nền kinh tế thông qua chi tiêu của chính phủ cỡ khoảng 2% GDP. Không chỉ một vài nước, mà đồng loạt các nền kinh tế từ mới nổi cho đến phát triển, trong đó có Việt Nam, đã có kế hoạch kích cầu bằng ngân sách nhà nước.
Trong quá khứ, Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt đã áp dụng chính sách kích cầu, tạo ra hàng triệu việc làm trong thời kỳ đại suy thoái nhưng cũng không tránh khỏi việc lãng phí tiền đầu tư vào những dự án không cần thiết. Hơn nữa, các gói kích cầu đều chủ yếu tập trung vào cơ sở hạ tầng, trong khi đó các dự án liên quan đến cơ sở hạ tầng luôn chậm tiến độ và vượt dự toán. Phần lớn việc chi tiêu của chính phủ thông qua các gói kích cầu nhằm mục đích đưa nền kinh tế vượt qua khủng hoảng nhưng nó đã kéo theo sự phát triển quá nóng. Hiện nay, không phải tất cả các nhà hoạch định chính sách trên thế giới đều ủng hộ lộ trình vượt khủng hoảng đang phổ biến.Thâm hụt ngân sách là điều khó tránh khỏi ở những nước có kế hoạch kích cầu trên quy mô lớn. Nếu Việt Nam thực hiện kích cầu theo đúng kế hoạch đã đề ra, mức thâm hụt ngân sách có thể lên tới 12%, gây mất cân đối nghiêm trọng cho nên kinh tế.
Như chúng ta thấy, gói kích cầu mà Chính phủ đang triển khai là một con số không hề nhỏ trong hoàn cảnh ngân sách của Việt Nam. Tuy nhiên, nếu một gói kích cầu được thiết kế không tốt, thì dù tốn kém cũng không vực dậy được nền kinh tế. Do vậy, chúng ta cần có sự nhìn nhận đánh giá cẩn thận, chính xác những điểm được và chưa được về các giải pháp kích cầu hiện nay ở Việt Nam, đồng thời nghiên cứu, tìm kiếm các giải pháp tiếp theo khả thi để tiếp tục kích thích đầu tư và tiêu dùng trong nước.
Từ những lý do trên, chúng em quyết định nghiên cứu đề tài: “Đánh giá các chính sách kích cầu của Việt Nam và giải pháp hoàn thiện trong thời gian tới” dựa trên phương pháp tổng hợp, so sánh và phân tích. Bài tiểu luận được chia thành những mục như sau:
I.LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CÁC CÔNG CỤ KÍCH CẦU
II.THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ VÀ ĐÁNH GIÁ CÁC GIẢI PHÁP KÍCH CẦU Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
III.NHỮNG ĐÁNH GIÁ, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG VỀ VIỆC HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH KÍCH CẦU TRONG THỜI GIAN TỚI
IV.KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG KÍCH CẦU
16 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 6913 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá các chính sách kích cầu của Việt Nam và giải pháp hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Cho đến thời điểm này, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã kéo dài 24 tháng (kể từ tháng 12-2007). Nguy cơ về một cuộc Đại khủng hoảng II lại lần nữa có cơ hội bùng phát, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đang tìm cách thuyết phục các nước áp dụng các gói kích cầu cho nền kinh tế thông qua chi tiêu của chính phủ cỡ khoảng 2% GDP. Không chỉ một vài nước, mà đồng loạt các nền kinh tế từ mới nổi cho đến phát triển, trong đó có Việt Nam, đã có kế hoạch kích cầu bằng ngân sách nhà nước.
Trong quá khứ, Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt đã áp dụng chính sách kích cầu, tạo ra hàng triệu việc làm trong thời kỳ đại suy thoái nhưng cũng không tránh khỏi việc lãng phí tiền đầu tư vào những dự án không cần thiết. Hơn nữa, các gói kích cầu đều chủ yếu tập trung vào cơ sở hạ tầng, trong khi đó các dự án liên quan đến cơ sở hạ tầng luôn chậm tiến độ và vượt dự toán. Phần lớn việc chi tiêu của chính phủ thông qua các gói kích cầu nhằm mục đích đưa nền kinh tế vượt qua khủng hoảng nhưng nó đã kéo theo sự phát triển quá nóng. Hiện nay, không phải tất cả các nhà hoạch định chính sách trên thế giới đều ủng hộ lộ trình vượt khủng hoảng đang phổ biến.Thâm hụt ngân sách là điều khó tránh khỏi ở những nước có kế hoạch kích cầu trên quy mô lớn. Nếu Việt Nam thực hiện kích cầu theo đúng kế hoạch đã đề ra, mức thâm hụt ngân sách có thể lên tới 12%, gây mất cân đối nghiêm trọng cho nên kinh tế.
Như chúng ta thấy, gói kích cầu mà Chính phủ đang triển khai là một con số không hề nhỏ trong hoàn cảnh ngân sách của Việt Nam. Tuy nhiên, nếu một gói kích cầu được thiết kế không tốt, thì dù tốn kém cũng không vực dậy được nền kinh tế. Do vậy, chúng ta cần có sự nhìn nhận đánh giá cẩn thận, chính xác những điểm được và chưa được về các giải pháp kích cầu hiện nay ở Việt Nam, đồng thời nghiên cứu, tìm kiếm các giải pháp tiếp theo khả thi để tiếp tục kích thích đầu tư và tiêu dùng trong nước.
Từ những lý do trên, chúng em quyết định nghiên cứu đề tài: “Đánh giá các chính sách kích cầu của Việt Nam và giải pháp hoàn thiện trong thời gian tới” dựa trên phương pháp tổng hợp, so sánh và phân tích. Bài tiểu luận được chia thành những mục như sau:
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CÁC CÔNG CỤ KÍCH CẦU
THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ VÀ ĐÁNH GIÁ CÁC GIẢI PHÁP KÍCH CẦU Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
NHỮNG ĐÁNH GIÁ, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG VỀ VIỆC HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH KÍCH CẦU TRONG THỜI GIAN TỚI
KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG KÍCH CẦU
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CÁC CÔNG CỤ KÍCH CẦU
Kích cầu là biện pháp đẩy mạnh chi tiêu của chính phủ để làm tăng tổng cầu, kích thích tăng trưởng kinh tế, thường chỉ được dùng khi nền kinh tế lâm vào trì trệ hay suy thoái, đang cần vực dậy. Kích cầu đặc biệt hay được sử dụng khi nền kinh tế rơi vào trạng thái bẫy thanh khoản, là khi mà chính sách tiền tệ trở nên mất hiệu lực vì lãi suất đã quá thấp.
Căn nguyên của tư tưởng kích cầu
Kích cầu đôi khi còn được gọi là chính sách Keynes vì biện pháp này tác động tới tổng cầu. Tư tưởng của Keynes là nếu cần, chính phủ có thể chi tiêu ngân sách mạnh đến mức dẫn tới thâm hụt cả ngân sách nhà nước để kích thích tổng cầu.
Việc sử dụng chi tiêu chính phủ để tác đông vào nền kinh tế chủ yếu dựa trên hai giả thuyết quan trọng của học thuyết Keynes.
Thứ nhất, cuộc suy thoái bắt nguồn từ nền kinh tế có năng lực sản xuất thừa: các yếu tố đầu vào không được sử dụng hết công suât, thất nghiệp, máy móc bị bỏ bê và hàng hóa bị ế thừa. Hiện tượng dư cung khiến hàng hóa có xu hứng giảm giá trên tất cả các thị trường, do đó càng không khuyến khích người mua, và cầu càng ở dưới xa mức cung thực tế. Kết quả là nền kinh tế bị mắc vào một cái bẫy suy thoái không thể tự thoát ra được.
Thứ hai, chính phủ có khả năng chi tiêu toàn bộ, thậm chí nhiều hơn thu nhập của mình. Trong khi đó, các khu vực không phải chính phủ (hộ gia đình và kinh tế tư nhân) thường chi tiêu ít hơn tổng thu nhập vì họ muốn để dành. Trong điều kiện bình thường, khoản tiết kiệm được chuyển sang khu vực doanh nghiệp để đầu tư (tạo nên thành phần của tổng cầu), nhưng trong thời kỳ suy thoái, doanh nghiệp không muốn đầu tư thêm nữa vì không có lợi nhuận. Xuất phát từ giả thuyết thứ nhất, Keynes cho rằng nền kinh tế bị suy thoái vì không có đủ cầu cho lượng cung đang dư thừa, tức là thiếu cầu hiệu lực. Do đó bài toán sẽ được giải nếu xuất hiện một lựơng cầu hiệu lực đủ lớn. Xuất phát từ giả thuyết thứ hai, Keynes đề xuất một phương án: dịch chuyển sức mua từ khu vực dân cư và tư nhân vào tay chính phủ để tăng cầu hiệu lực, đưa nền kinh tế thoát khỏi cái bẫy do thiếu sức mua.
2. Công cụ để kích cầu và các quan điểm khác nhau về hiệu quả của chúng
a) Lý thuyết chung về các công cụ kích cầu
Biện pháp kích cầu cụ thể có thể là giảm thuế hoặc tăng chi tiêu hoặc cả hai. Trong hai loại biện pháp này, biện pháp thứ hai được cho rằng có hiệu suất kích thích tổng cầu cao hơn.
Khó khăn khi thực hiện: khó lượng hóa tổng cầu cần bù đắp. Trong trường hợp suy giảm nền kinh tế, lãnh đạo các nền kinh tế thường đối phó bằng cách tăng chi tiêu của Chính phủ như là một gói giải pháp có tính nhạy bén nhất. Việc này, thường được xác định không phải từ việc biết được chính xác tổng cầu giảm bao nhiêu mà thường dựa vào mục tiêu của “gói giải pháp” đó là gì? Sau đó, trên cơ sở tính toán nguồn lực của nền kinh tế (ngân sách, dự trữ ngoại tệ...) để đưa ra quyết định sẽ sử dụng bao nhiêu tiền nhằm “giải cứu” nền kinh tế. Tuy vậy, việc này thường tạo ra hai hiệu ứng, đó là hiệu ứng khuếch đại và hiệu ứng lấn át. Hiệu ứng khuếch đại xảy ra vì kích cầu thúc đẩy sản xuất của doanh nghiệp, làm tăng thu nhập và qua đó làm tăng chi tiêu của người dân. Tuy vậy, nó cũng tạo ra hiệu ứng lấn át, đó là việc nguồn lực tài chính của một nền kinh tế mà đáng lẽ có một phần được dành cho các doanh nghiệp thì nay bị Chính phủ “hút” đi để bù đắp ngân sách cho việc tăng chi tiêu để kích cầu qua việc phát hành trái phiếu có mức lãi suất hấp dẫn hơn so với lãi suất ngân hàng. J.M. Keynes khi đưa ra lý thuyết kích cầu cũng thừa nhận khó khăn trong việc xác định liều lượng chính sách cần thiết bởi những yếu tố nói trên.
Tác động của chính sách kích cầu: Thâm hụt ngân sách là điều khó tránh khỏi ở những nước có kế hoạch kích cầu trên quy mô lớn. Các nhà kinh tế trên thế giới cũng cho rằng thâm hụt ngân sách có thể dẫn tới việc lãi suất tăng, đầu tư vào các khu vực tư nhân (khu vực có hiệu quả sử dụng vốn cao, từ đó có thể cải thiện tình hình xã hội) giảm.
b) Các công cụ kích cầu ở Việt Nam
Để kích thích tăng trưởng kinh tế, Chính phủ đã sử dụng cả chính sách tài khóa và tiền tệ.
Gói kích cầu tổng thể của Chính phủ gồm nhiều nguồn giải ngân. Nguồn thứ nhất là phát hành trái phiếu Chính phủ để tiếp tục vay tiền đầu tư vào những công trình mục tiêu như trường học, bệnh viện, cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi. Tiếp nữa là đầu tư cho các công trình nhà ở xã hội. Nguồn thứ hai dùng để kích cầu là sẽ miễn giảm, hoãn, chậm việc thu thuế để doanh nghiệp có nguồn đầu tư. Nguồn thứ ba là Chính phủ sẽ sử dụng Quỹ dự trữ Nhà nước của Chính phủ để đầu tư cho một số mục tiêu, chủ yếu là để hỗ trợ sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm để thúc đẩy tiêu dùng.
Trong phạm vi của chính sách tài khóa, kích thích tiêu dùng nội địa là một biện pháp quan trọng hàng đầu.
Về chính sách thuế sẽ điều chỉnh giãn, gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với một số ngành, lĩnh vực kinh tế; giãn thời hạn nộp thuế thu nhập cá nhân. Ngoài ra còn có các chính sách giãn thời gian ân hạn nộp thuế; giảm thuế suất thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu một số mặt hàng quan trọng.
Các chính sách bảo lãnh cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, sử dụng nhiều lao động vay vốn các ngân hàng thương mại để thực hiện dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh.
Đối với chính sách tiền tệ thì ngoài hạ lãi suất cơ bản, Chính phủ cũng dành khoản tiền hỗ trợ lãi suất cho các khoản vay sử dùng làm vốn lưu động của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tập trung hoàn chỉnh cơ chế chính sách tạo điều kiện thu mua, chế biến, dịch vụ, phân phối cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, nhất là nông, lâm, hải sản, khu vực nông nghiệp, nông thôn nhằm tăng thu nhập và tăng sức mua cho nông dân, khu vực đang khó khăn và thiệt thòi nhất nhưng có vị trí quan trọng trong phát triển bền vững. Vấn đề không kém phần quan trọng là sự đồng bộ trong triển khai các giải pháp, cùng với độ nhanh nhạy trong dự báo để có thể chuyển hướng và xử lý linh hoạt vấn đề nảy sinh. Tiếp tục giải quyết ách tắc, cản trở trong thủ tục hành chính giúp DN nắm bắt, khai thác được thời cơ, góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế.
3. Các yếu tố cần quan tâm khi thực hiện chính sách kích cầu
Theo nhà kinh tế Lawrence Summers, để biện pháp kích cầu có hiệu quả thì việc thực hiện nó phải đảm bảo: đúng lúc, vừa đủ và trúng đích.
Đúng lúc tức là phải thực hiện kích cầu ngay khi các doanh nghiệp chưa thu hẹp sản xuất và các hộ gia đình chưa thu hẹp tiêu dùng. Nếu sớm quá, kích cầu có thể làm cho nền kinh tế trở nên nóng và tăng áp lực lạm phát. Nhưng nếu chậm quá, thì hiệu quả của kích cầu sẽ giảm, đặc biệt nếu quá trình chính trị và hành chính để một gói kích cầu được phê duyệt và triển khai là phức tạp. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất đối với việc thực hiện đúng lúc là sự thiếu chính xác trong xác định thời điểm chuyển pha của chu kỳ kinh tế. Có trường hợp kinh tế đã chuyển hẳn sang pha suy thoái một thời gian rồi mà công tác thu thập và phân tích số liệu thống kê không đủ khả năng phán đoán ra.
Vừa đủ tức là gói kích cầu sẽ hết hiệu lực khi nền kinh tế đã trở nên tốt hơn. Nếu gói kích cầu quá bé thì kích thích sẽ bị hụt hơi và tổng cầu có thể không bị kích thích nữa, khiến cho gói kích cầu trở thành lãng phí. Ngược lại gói kích cầu quá lớn tạo ra tác động kéo dài khiến cho nền kinh tế đã hồi phục mà vẫn trong trạng thái tiếp tục được kích thích thì sẽ dẫn tới kinh tế mở rộng quá mức, lạm phát tăng lên. Điều này càng được chú ý nếu ngân sách nhà nước và dự trữ ngoại hối nhà nước không dư dật.
Trúng đích tức là hướng tới những chủ thể kinh tế nào tiêu dùng nhanh hơn khoản tài chính được hưởng, do đó sớm gây ra tác động tới tổng cầu hơn; đồng thời hướng tới những chủ thể kinh tế bị tác động bất lợi hơn cả bởi suy thoái kinh tế (thường là những người có thu nhập thấp hơn), sẽ tạo ra hiệu ứng lan tỏa, kích thích doanh nghiệp mở rộng sản xuất và thuê mướn thêm lao động. Để kích cầu trúng đích, các nhà hoạch định chính sách thường dựa vào các mô hình kinh tế lượng để mô phỏng hiệu quả của gói kích cầu qua các kịch bản khác nhau tương ướng với các mục tiêu khác nhau, từ đó tìm ra mục tiêu hợp lý nhất.
Ngoài ra, có hai điều kiện cần để chính sách kích cầu phát huy tác dụng. Thứ nhất, chính sách phải tạo được đầu ra cho sản phẩm của doanh nghiệp; thứ hai, ngân sách kích cầu phải được sử dụng một cách hiệu quả.
THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ VÀ ĐÁNH GIÁ CÁC GIẢI PHÁP KÍCH CẦU Ở VIỆT NAM TRONG NĂM 2008
Thực trạng nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua:
Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009, ngoài nội dung tiếp tục kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, có nội dung mới là chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế.
Muốn chủ động được trước hết phải nhận biết hết những biểu hiện của suy giảm kinh tế. Hiện nay có hai kênh tác động mạnh: Bên ngoài, suy giảm kinh tế toàn cầu làm giảm kim ngạch xuất khẩu (cả lượng và giá), vốn đầu tư (kể cả trực tiếp và gián tiếp), kiều hối và du lịch (kể cả lượng khách và doanh số). Bên trong, đầu ra của hàng tiêu dùng và xuất khẩu thu hẹp, sản xuất, kinh doanh giảm sút, việc làm, thu nhập và sức mua đều ảnh hưởng. Hơn thế, trong sản xuất, kinh doanh, nhiều doanh nghiệp (DN) có tâm lý chờ đợi (chính sách cụ thể, sự giảm giá vật tư, nguyên liệu nhập khẩu, lãi suất và tỷ giá thay đổi...).
Thách thức lớn của chúng ta là các áp lực gây lạm phát và mức lạm phát tính theo thời gian còn cao (hai con số), trong khi những tháng gần đây chỉ số giá (biểu hiện sức mua) giảm và sản xuất, kinh doanh đang ở chiều sút kém. Chúng ta vẫn phải thực hiện nhiệm vụ kiềm chế lạm phát và chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế. Vừa phải rút một số tiền thừa trong lưu thông ở những chỗ cần rút về, vừa phải đưa tiền vào lưu thông theo yêu cầu kích cầu đầu tư và tiêu dùng. Vấn đề là đưa vào đâu, rút ở chỗ nào khối lượng tiền đó để vừa không để lạm phát quay trở lại, vừa ngăn chặn suy giảm kinh tế (tất nhiên trong lúc này việc ngăn chặn suy giảm kinh tế có vị trí và ý nghĩa quan trọng). Ðây là hai vấn đề mâu thuẫn nhưng cũng hỗ trợ nhau nếu làm đúng hướng và đúng liều lượng vì nếu suy giảm kinh tế thì không duy trì được tăng trưởng, không bảo đảm ổn định kinh tế, chính trị - xã hội và không giải quyết được vấn đề an sinh xã hội.
2. Các giải pháp kích cầu ở Việt Nam trong thời gian qua:
a) Về mặt chính sách
Ngày 11/12, Chính phủ ra Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP về những giảm pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng là một trọng tâm của Nghị quyết số 30, trong đó Chính phủ xác định 12 giải pháp mà các bộ ngành liên quan phải triển khai.
Kích cầu đầu tư : 8 giải pháp cơ bản
Kích cầu tiêu dùng: 4 giải pháp cơ bản
Trong thực tiễn
Về chính sách thuế sẽ điều chỉnh giãn, gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2009 trong thời gian 9 tháng đối với một số ngành, lĩnh vực kinh tế; giãn thời hạn nộp thuế thu nhập cá nhân đến tháng 5-2009. Chính phủ cũng đã quyết định giảm 50% thuế suất thuế giá trị gia tăng từ 1-2 đến 31-12-2009 đối với một số hàng hóa, dịch vụ; tạm hoàn 90% thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa thực xuất và hoàn tiếp 10% khi có chứng từ thanh toán, giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp trong quý 4/2008 và cả năm 2009. Ngoài ra còn có các chính sách giãn thời gian ân hạn nộp thuế; giảm thuế suất thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu một số mặt hàng quan trọng.
Về tài chính có các chính sách bảo lãnh cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, sử dụng nhiều lao động vay vốn các ngân hàng thương mại để thực hiện dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh (quy mô dự án tối thiểu là 100 triệu đồng).
Đối với chính sách tiền tệ thì ngoài hạ lãi suất cơ bản xuống 7%, áp dụng từ 1-2, Chính phủ cũng dành khoản tiền trị giá 1 tỉ đô la Mỹ (tương đương 17.000 tỉ đồng) hỗ trợ lãi suất 4% cho các khoản vay sử dùng làm vốn lưu động của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Dự kiến, khoản tiền này sẽ đem về khoảng 420.000 tỉ đồng giá trị các khoản vay được hỗ trợ lãi suất.
Ngoài ra, có thể tính đến khoản 36.000 tỉ đồng trái phiếu Chính phủ và hàng loạt các chính sách an sinh xã hội, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn khác. Như vậy, tổng số tiền sử dụng cho gói kích cầu như nói ở trên, theo một số công bố của thành viên Chính phủ, tổng cộng có thể lên đến trên 120.000 tỉ đồng, tương đương khoảng 24% tổng dự toán chi ngân sách của năm 2009. Đây là khoản tiền rất lớn so với nhiệm vụ chi thường xuyên hàng năm của Chính phủ.
Tác động và những nhận định đánh giá về các giải pháp kích cầu
Tác động hiện tại
Các thành viên Chính phủ thừa nhận, công tác thống kê hiện nay yếu, dẫn đến việc triển khai các chủ trương chính sách chậm và không sát với điều kiện thực tiễn, do vậy, mỗi bộ ngành phải chịu trách nhiệm về công tác dự báo thống kê của ngành mình. Việc chi ra 1 tỉ đô la nói trên là hết sức cần thiết nhưng cũng cần hiểu gói chi tiêu này trong dự kiến của Chính phủ không nhằm mục đích thay thế toàn bộ sự giảm sút của tổng cầu trong nền kinh tế thời điểm hiện nay. Đây chỉ là một giải pháp để bù đắp một phần sự giảm sút của tổng cầu. Trong điều kiện nguồn lực có hạn, việc quản lý đang gặp khó khăn thì cần tập trung phần tăng chi tiêu của Chính phủ vào ba nhiệm vụ mà bản thân thị trường không thể thay thế, đó là: xây dựng cơ sở hạ tầng công cộng; giải quyết công ăn việc làm; phục vụ các vấn đề an sinh xã hội, đặc biệt là người nghèo, người có thu nhập thấp. Phần còn lại, những khó khăn của thị trường trong sản xuất và tiêu thụ, thì nên dành chức năng hỗ trợ cho chính sách tiền tệ nới lỏng, những cải cách pháp lý và các chính sách khác nhằm gián tiếp hỗ trợ doanh nghiệp.
Về mặt tài khóa, trong bối cảnh khó khăn của năm 2009, các nguồn thu ngân sách chủ yếu như xuất khẩu dầu mỏ, thuế VAT, thuế xuất nhập khẩu và thu nhập doanh nghiệp đều giảm mạnh, làm cho nguồn thu của Nhà nước giảm đáng kể, trong khi đó nhu cầu chi tiêu lại tăng sẽ làm cho tình hình ngân sách đã khó càng trở nên khó khăn hơn.
Nhận định và đánh giá
Sau hơn một năm thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát, Chính phủ đã quyết định dành 1 tỷ USD để kích cầu vào đầu tư và tiêu dùng. Gói giải pháp này có thể nói đã đem lại những kết quả nhất định.
Chính phủ đã có những giải pháp đúng, đem lại chuyển biến tích cực. Đến thời điểm này, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chuyển sang chiều âm, song cần phải thấy đó là do tác động của nhiều mặt chứ không chỉ nhờ các giải pháp của Chính phủ. Trong rổ hàng hóa để tính CPI, có 3 loại giảm khá mạnh (vật liệu xây dựng, nhà ở; phương tiện đi lại và cước vận tải; lương thực) làm đổi chiều chỉ số giá chung. Chính sách thắt chặt tiền tệ tác động rõ nhất là thu hẹp đầu tư làm giảm giá vật liệu xây dựng, nhà ở. Còn giá vận tải giảm chủ yếu là do giá xăng dầu thế giới xuống nhanh; giá lương thực giảm là điều không mong muốn, vì giá gạo xuống quá là không tốt, rất bất lợi cho nông dân. Ngoài 3 loại này ra, giá các thứ khác vẫn tăng nhẹ.
Nhìn trên tổng thể gói kích cầu, có khoản kích cầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng; có khoản hướng vào người dân để tăng cầu hàng hóa; đặc biệt là nhiều khoản hướng đến doanh nghiệp, nhằm giải quyết các khó khăn về tiếp cận vốn vay ngân hàng, về thiếu vốn lưu động, vốn đầu tư; có khoản về thuế nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa, của doanh nghiệp…Những phân tích từ tình hình thực tế hiện nay cho thấy rằng gói giải pháp kích cầu như trên mặc dù đã tương đối hoàn chỉnh, nhưng hiệu quả đem lại có thể không được như kỳ vọng. Đặc biệt, khi xét đến tác dụng của nó đối với việc vực dậy các ngành sản xuất đang có nguy cơ thua lỗ nặng nề.
Bên cạnh đó, những giải pháp Chính phủ đề ra vẫn còn một vài thiếu sót:
- Các gói giải pháp chống suy giảm, kích cấu đầu tư và tiêu dùng Chính phủ đề ra vẫn chưa thực sự đủ mạnh. Bây giờ, suy giảm không còn là nguy cơ mà đang diễn ra trong thực tế. Rõ ràng là sản xuất của nhiều doanh nghiệp bị đình đốn, thu hẹp, đầu tư cũng giảm, xuất khẩu mấy tháng nay đã giảm liên tiếp, việc làm thì bớt đi, sức mua cũng kém trước. Với hàng loạt yếu tố như thế thì bây giờ biện pháp đầu tiên là phải kích cầu như Chính phủ đã đề ra. Nhưng kích cầu như thế nào cho đúng thì lại phải xem xét kỹ. Vì nếu kích cầu đầu tư mà vẫn đưa vào những lĩnh vực kém hiệu quả thì tình hình càng xấu đi. Các dự án đầu tư công phải soát xét chặt chẽ, thực sự cần thiết và có hiệu quả.
- Các chính sách tài chính, tiền tệ chủ yếu chỉ có lợi cho các doanh nghiệp có kết quả kinh doanh tốt và đang duy trì được sản xuất chứ không “rót xuống” các doanh nghiệp đang thực sự rất khó khăn, mà theo một số đánh giá bi quan thì số cho rằng có thể lên đến 20% trong tổng số trên 300.000 doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể, các chính sách bảo lãnh vay vốn chỉ được áp dụng với doanh nghiệp không có nợ quá hạn, không nợ đọng thuế. Việc giảm, giãn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cũng chỉ áp dụng được đối với trường hợp doanh nghiệp kinh doanh có lãi. Chính sách giảm, hoàn thuế giá trị gia tăng chỉ có tác dụng đối với các doanh nghiệp vẫn đang duy trì hoạt động kinh doanh.
- Chính phủ đã nhấn mạnh điều này nhưng điều quan trọng là phải có cơ chế giám sát để tránh sai lầm về chủ trương đầu tư, tránh tình trạng thi công kéo dài, không bảo đảm chất lượng công trình và bị rút ruột. Đi đôi với các biện pháp giãn thuế, giảm thuế, cần có chính sách tín dụng hỗ trợ cho các thành phần kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ kinh tế gia đình sản xuất kinh doanh những sản phẩm và dịch vụ đang có nhu cầu trên thị trường trong, ngoài nước.
- Bên cạnh kích cầu đầu tư, cần có biện pháp hữu hiệu kích cầu tiêu dùng, kích hoạt thị trường trong nước. Phải tạo cho người dâ