Năm 2011, ngành ngân hàng Việt Nam có nhiều biến động đáng kể. Cùng với việc thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, nhiều chỉ tiêu của ngành ngân hàng trong năm 2011 đã không được hoàn thành; tăng trưởng tín dụng trung bình chỉ ở mức 12%.
Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng của ngành ngân hàng, đây là nguồn thu chủ yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, và đồng thời đây cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn khá nhiều rủi ro. Bên cạnh đó việc ra đời ồ ạt của các ngân hàng thương mại cùng với áp lực hội nhập từ phía các ngân hàng nước ngoài đã đẩy tính rủi ro thị trường tín dụng lên cao hơn, đồng thời chưa tạo được nét đặc trưng khác biệt của mỗi ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay có rất nhiều con đường hấp thụ và phân bổ nguồn vốn nhưng một điều không thể phủ nhận là việc huy động và phân bổ nguồn vốn thông qua trung gian tài chính – Ngân hàng thương mại vẫn là một kênh có hiệu quả nhất. nền kinh tế của một đất nước chỉ có thể phát triển với tốc độ cao và ổn định khi có chính sách tài chính, tiền tệ đúng đắn và hệ thống ngân hàng hoạt động đủ mạnh, có hiệu quả cao, có khả năng thu hút tập trung các nguồn vốn và phân bổ nguồn vốn đến đúng địa chỉ - đây chính là hai mặt của tín dụng ngân hàng. Do đó việc nghiên cứu chất lượng tín dụng hay nghiên cứu chất lượng huy động vốn và chất lượng cho vay là một điều tất yếu.
Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á được thành lập năm 1992 là một trong những Ngân hàng tốt nhất ở Việt Nam hiện nay với mục tiêu “trở thành Ngân hàng bán lẻ tốt nhất và hướng đến mô hình một tập đoàn tài chính đa năng, hiệu quả hàng đầu Việt Nam”, tuy nhiên rủi ro trong hoạt động tín dụng vẫn còn tồn tại và ở một mức tỷ lệ chấp nhận được.
Ngân hàng TMCP Đông Á chi nhánh Huế tiền thân là một phòng giao dịch ở Huế nay được nâng cấp thành chi nhánh (2009) cho nên hoạt động của chi nhánh còn gặp nhiều khó khăn trong những năm đầu. Trong 2 năm qua, chi nhánh đã từng bước hoạt động ổn định và phát triển đi lên. Để chi nhánh ngày càng phát triển hơn nữa, việc phân tích tình hình hoạt động của chi nhánh để đưa ra các giải pháp hợp lý là điều rất cần thiết. qua quá trình thực tập tại ngân hàng TMCP Đông Á chi nhánh Huế tôi nhận thấy nguồn thu chủ yếu của ngân hàng là từ hoạt động tín dụng. Xuất phát từ thực tế đó, cùng với những kiến thức đã được trang bị tại nhà trường, kết hợp với quá trình thực tập tại ngân hàng TMCP Đông Á- Chi nhánh Huế, tôi xin mạnh dạn chọn đề tài "Đánh giá chất lượng tín dụng tại ngân hàng TMCP Đông Á - Chi nhánh Huế” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
76 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4154 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đánh giá chất lượng tín dụng tại ngân hàng TMCP Đông Á - Chi nhánh Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Năm 2011, ngành ngân hàng Việt Nam có nhiều biến động đáng kể. Cùng với việc thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, nhiều chỉ tiêu của ngành ngân hàng trong năm 2011 đã không được hoàn thành; tăng trưởng tín dụng trung bình chỉ ở mức 12%.
Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng của ngành ngân hàng, đây là nguồn thu chủ yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, và đồng thời đây cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn khá nhiều rủi ro. Bên cạnh đó việc ra đời ồ ạt của các ngân hàng thương mại cùng với áp lực hội nhập từ phía các ngân hàng nước ngoài đã đẩy tính rủi ro thị trường tín dụng lên cao hơn, đồng thời chưa tạo được nét đặc trưng khác biệt của mỗi ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay có rất nhiều con đường hấp thụ và phân bổ nguồn vốn nhưng một điều không thể phủ nhận là việc huy động và phân bổ nguồn vốn thông qua trung gian tài chính – Ngân hàng thương mại vẫn là một kênh có hiệu quả nhất. nền kinh tế của một đất nước chỉ có thể phát triển với tốc độ cao và ổn định khi có chính sách tài chính, tiền tệ đúng đắn và hệ thống ngân hàng hoạt động đủ mạnh, có hiệu quả cao, có khả năng thu hút tập trung các nguồn vốn và phân bổ nguồn vốn đến đúng địa chỉ - đây chính là hai mặt của tín dụng ngân hàng. Do đó việc nghiên cứu chất lượng tín dụng hay nghiên cứu chất lượng huy động vốn và chất lượng cho vay là một điều tất yếu.
Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á được thành lập năm 1992 là một trong những Ngân hàng tốt nhất ở Việt Nam hiện nay với mục tiêu “trở thành Ngân hàng bán lẻ tốt nhất và hướng đến mô hình một tập đoàn tài chính đa năng, hiệu quả hàng đầu Việt Nam”, tuy nhiên rủi ro trong hoạt động tín dụng vẫn còn tồn tại và ở một mức tỷ lệ chấp nhận được.
Ngân hàng TMCP Đông Á chi nhánh Huế tiền thân là một phòng giao dịch ở Huế nay được nâng cấp thành chi nhánh (2009) cho nên hoạt động của chi nhánh còn gặp nhiều khó khăn trong những năm đầu. Trong 2 năm qua, chi nhánh đã từng bước hoạt động ổn định và phát triển đi lên. Để chi nhánh ngày càng phát triển hơn nữa, việc phân tích tình hình hoạt động của chi nhánh để đưa ra các giải pháp hợp lý là điều rất cần thiết. qua quá trình thực tập tại ngân hàng TMCP Đông Á chi nhánh Huế tôi nhận thấy nguồn thu chủ yếu của ngân hàng là từ hoạt động tín dụng. Xuất phát từ thực tế đó, cùng với những kiến thức đã được trang bị tại nhà trường, kết hợp với quá trình thực tập tại ngân hàng TMCP Đông Á- Chi nhánh Huế, tôi xin mạnh dạn chọn đề tài "Đánh giá chất lượng tín dụng tại ngân hàng TMCP Đông Á - Chi nhánh Huế” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài nghiên cứu như: Các khái niệm về ngân hàng, dịch vụ ngân hàng, tín dụng, chất lượng tín dụng...
Để thực hiện mục tiêu chung về việc phân tích hoạt động tín dụng tại Chi nhánh nhằm phản ánh thực trạng và đưa ra giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, đề tài hướng đến các mục tiêu cụ thể như:
Làm rõ tình hình kinh doanh của ngân hàng qua các chỉ tiêu: Tình hình lao động, kết quả hoạt động kinh doanh...
Phân tích hoạt động tín dụng của Ngân hàng Đông Á thông qua các chỉ tiêu tín dụng: Tình hình nợ xấu, tổng dư nợ, hiệu suất sử dụng vốn,...
Từ kết quả phân tích tổng hợp, điều tra để đưa ra một số biện pháp và kiến nghị với những người có liên quan nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng Đông Á chi nhánh Huế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Là những vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng đối với khách hàng của ngân hàng TMCP Đông Á chi nhánh Huế.
Phạm vi nghiên cứu:
+ Thời gian: Phân tích hoạt động tín dụng qua các năm 2009 - 2011, đồng thời đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng.
+ Không gian: Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Á chi nhánh Huế.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử:
Đây là phương pháp luận được sử dụng xuyên suốt trong đề tài. Nội dung của phương pháp này là khi nghiên cứu các vấn đề, các hiện tượng không nghiên cứu ở trạng thái tĩnh mà ở trong trạng thái động, được nhìn nhận trong một thể thống nhất có quan hệ tác động qua lại và ràng buộc lẫn nhau chứ không ở riêng lẽ và biệt lập. Các sự vật không chỉ được xem xét ở trong một thời điểm cố định mà là một chuỗi thời gian nhất định để rút ra những nhận xét có tính khoa học.
- Phương pháp thu thập số liệu: Thu thập, xử lý và phân tích số liệu sơ cấp và số liệu thứ cấp.
+ Số liệu thứ cấp: Được thu thập từ phòng kế hoạch - tổng hợp, phòng tổ chức - hành chính, phòng quản lý rủi ro…của Chi nhánh Ngân hàng Đông Á Huế.
+ Số liệu sơ cấp: Được thu thập qua quan sát, phỏng vấn trực tiếp nhân viên làm việc tại ngân hàng TMCP Đông Á chi nhánh Huế
- Phương pháp xử lý số liệu
Tổng hợp và chọn lọc những thông tin, dữ liệu thu thập liên quan đến đề tài. cụ thể là các phương pháp:
+ Phân tích theo chiều ngang
Sử dụng phương pháp so sánh bằng số tuyệt đối hoặc bằng số tương đối
+ Phân tích theo chiều dọc (phân tích theo quy mô chung)
Với báo cáo quy mô chung, từng khoản mục trên báo cáo được thể hiện bằng một tỉ lệ kết cấu so với một khoản mục được chọn làm gốc có tỷ lệ là 100%.
+ Phương pháp liên hệ - cân đối: Khi tiến hành phân tích chúng ta cần chú ý đến những mối quan hệ, tính cân đối cần thiết và hữu dụng trong quản lý tài chính ở từng thời kỳ, từng khoản mục tài chính, từng hoàn cảnh kinh tế không nên quá chú trọng vào lý thuyết sẽ làm cho việc phân tích tản mạn và không hữu ích.
+ Phương pháp phân tích, đối chiếu: Dựa trên số liệu có sẵn để tìm ra những ưu điểm, nhược điểm trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong nước nhằm tìm ra những rủi ro và giải pháp khắc phục hạn chế rủi ro.
+ Phương pháp so sánh: Đây cũng là những phương pháp dựa trên những số liệu có sẵn để tiến hành đối chiếu (về tương đối, tuyệt đối) thường là so sánh giữa 2 năm để tìm ra sự tăng giảm của giá trị nào đó cho quá trình phân tích kinh doanh cũng như các quá trình khác.
+ Phương pháp thống kê, tổng hợp số liệu, tài liệu:Là phương pháp tổng hợp lại thông tin, dữ liệu thu thập được nhằm phục vụ cho công việc nghiên cứu.
Và một số phương pháp khác.
5. Kết cấu đề tài nghiên cứu
Trên cơ sở những mục tiêu giải quyết, nội dung của khóa luận gồm:
Phần I: Đặt vấn đề
Phần II: Nội dung nghiên cứu
Chương 1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu
Chương 2. Phân tích chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Đông Á Chi nhánh Huế
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Đông Á Chi nhánh Huế
Phần III: Kết luận và kiến nghị
PHẦN II : NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG ICƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
A. CƠ SỞ LÝ LUẬN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng có vị trí quan trọng nhất trong nền kinh tế thị trường ở các nước. Có nhiều khái niệm khác nhau về ngân hàng thương mại:
Ở Mỹ: NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Ở Pháp: NHTM là những xí nghiệp và cơ sở nào thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
Ở Ấn Độ: NHTM là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư.
Theo Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990 của Việt Nam: Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà nghiệp vụ thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Theo luật Các tổ chức tín dụng Việt Nam có hiệu lực vào tháng l0/1998: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”.
Nghị định của Chính phủ số 49/20001NĐ-CP ngày 12/9/2000 định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của nhà nước ".
1.1.2. Các chức năng của NHTM
1.1.2.1. Ngân hàng thương mại là trung gian tín dụng
Là chức năng quan trọng và cơ bản nhất của NHTM , nó không những cho thấy bản chất của NHTM mà còn cho thấy nhiệm vụ chính yếu của NHTM. NHTM đóng vai trò là người trung gian đứng ra tập trung, huy động các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế (bao gồm tiền tiết kiệm của các tầng lớp dân cư, vốn bằng tiền của các đơn vị, tổ chức kinh tế,...) biến nó thành nguồn vốn tín dụng để cho vay đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh và vốn đầu tư cho các ngành kinh tế và nhu cầu vốn tiêu dung của xã hội.
1.1.2.2. Ngân hàng thương mại với chức năng tạo tiền
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ... Với chức năng này, hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Rõ ràng khái niệm về tiền hay tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do NHNN phát hành mà còn bao gồm một bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các ngân hàng thương mại tạo ra.
1.1.2.3. Ngân hàng thương mại là trung gian thanh toán của khách hàng
Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi củ khách hàng tiền thu bán hàng và các thu khác theo lệnh của họ. với chức năng này, các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng... tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thong hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.3.1. Nghiệp vụ nguồn vốn (Tài sản nợ - nguồn vốn)
Nghiệp vụ huy động nguồn vốn là hoạt động tiền đề có ý nghĩa đối với bản thân ngân hàng cũng như đối với bản thân xã hội. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng thương mại được phép sử dụng những công cụ và biện pháp cần thiết mà luật pháp cho phép để huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội làm nguồn vốn tín dụng cho vay đối với nền kinh tế.
Thành phần nguồn vốn của ngân hàng thương mại gồm:
Vốn điều lệ
Các quỹ dự trữ
Vốn huy động
Vốn đi vay
Vốn tiếp nhận
Vốn khác
Vốn điều lệ và các quỹ:
Vốn điều lệ, các quỹ của ngân hàng được gọi là vốn tự có của ngân hàng, là nguồn vốn khởi đầu và được bổ sung trong quá trình hoạt động.
Vốn điều lệ của ngân hàng trước hết được dùng để xây dựng nhà cửa, văn phòng làm việc, mua sắm tài sản, trang thiết bị nhằm tạo cơ sở vật chất đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng; số còn lại để đầu tư, liên doanh, cho vay trung và dài hạn.
Các quỹ dự trữ của ngân hàng: Đây là các quỹ bắt buộc phải trích lập trong quá trình tồn tại và hoạt động của ngân hàng, các quỹ này được trích lập theo tỉ lệ quy định trên số lợi nhuận ròng của ngân hàng, bao gồm:
+ Quỹ dự trữ: Được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm để bổ sung vốn điều lệ
+ Quỹ dự phòng tài chính: Quỹ này để dự phòng bù đắp rủi ro, thua lỗ trong hoạt động của ngân hàng
+ Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ
+ Quỹ khen thưởng phúc lợi
+ Lợi nhuận để lại để phân bố cho các quỹ. Chênh lệch tỉ giá, đánh giá lại tài sản, nguồn vốn xây dựng cơ bản.
Vốn tự có của ngân hàng là yếu tố tài chính quan trọng bậc nhất, nó vừa cho thấy quy mô của ngân hàng vừa phản ánh khả năng đảm bảo các khoản nợ của ngân hàng đối với khách hàng.
Vốn huy động
Đây là nguồn vốn chủ yếu của các ngân hàng thương mại, thực chất là tài sản bằng tiền của các chủ sở hữu mà ngân hàng tạm thời quản lý và sử dụng nhưng phải có nghĩa vụ hoàn trả kịp thời, đầy đủ khi khách hàng yêu cầu. Nguồn vốn huy động là nguồn tài nguyên to lớn nhất, bao gồm:
Tiền gửi không kì hạn của các tổ chức cá nhân
Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn
Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn
Tiền phát hành kì phiếu, trái phiếu
Các khoản tiền gửi khác
Đối với tiền gửi của cá nhân và đơn vị, ngoài lãi suất thì nhu cầu giao dịch với những tiện lợi nhanh chóng và an toàn là yếu tố cơn bản để thu hút nguồn tiền này.
Đối với tiền gửi tiết kiệm, tiền phát hành kỳ phiếu, trái phiếu thì lãi suất là yếu tố quyết định và người gửi tiết kiệm hay mua kỳ phiếu đều nhằm mục đích kiếm lời.
Vốn đi vay
Nguồn vốn đi vay có vị trí quan trọng trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Thuộc loại này bao gồm:
Vốn vay trong nước:
Vay ngân hàng nhà nước: NHNN sẽ tiếp vốn cho NHTM thông qua biện pháp chiết khấu, tái chiết khấu nếu các hồ sơ tín dụng cùng các chứng từ xin tái chiết khấu có chất lượng. Làm như vậy, NHNN sẽ trở thành chỗ dựa và là người cho vay cuối cùng đối với ngân hàng thương mại.
Vay các NHTM khác thông qua thị trường liên ngân hàng.
Vốn vay ngân hàng nước ngoài.
Vốn tiếp nhận:
Đây là nguồn tiếp nhận từ các tổ chức tài chính ngân hàng, từ ngân sách nhà nước...để tài trợ theo các chương trình, dự án về phát triển kinh tế xa hội, cải tạo môi sinh... Nguồn vốn này chỉ được sử dụng theo đúng đối tượng và mục tiêu đã được xác định.
Vốn khác:
Đó là các nguồn vốn phát sinh trong quá trình hoạt động của ngân hàng (đại lý, chuyển tiền, các dịch vụ ngân hàng...)
1.1.3.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn (Tài sản có - Tài sản)
Nghiệp vụ cho vay và đầu tư là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất, quyết định đến khả năng tồn tại và hoạt động của ngân hàng thương mại. Đây là các nghiệp vụ cấu thành bộ phận chủ yếu và quan trọng của tài sản có của ngân hàng. Thành phần tài sản có của ngân hàng bao gồm:
Dự trữ
Cho vay
Đầu tư
Tài sản có khác
Dự trữ
Hoạt động tín dụng của ngân hàng nhằm mục đích kiếm lời, song cần phải bảo đảm an toàn để giữ vững được long tin của khách hàng. Muốn có được sự tin cậy về phía khách hàng, trước hết phải bảo đảm khả năng thanh toán: đáp ứng được nhu cầu rút tiền của khách hàng. Muốn vậy các ngân hàng phải để dành một phần nguồn vốn không sử dụng nó để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu thanh toán. Phần vốn để dành này gọi là dự trữ. NHNN được phép ấn định một tỉ lệ dự trữ bắt buộc theo từng thời kì nhất định, việc trả lãi cho tiền gửi dự trữ bất buộc do chính phủ quy định. Dự trữ bao gồm:
Dự trữ sơ cấp: Bao gồm tiền mặt, tiền gửi tại NHNN, tại các ngân hàng khác.
Dự trữ thứ cấp: (cấp hai) là dự trữ không tồn tại bằng tiền mà bằng chứng khoán, nghĩa là các chứng khoán ngắn hạn có thể bán để chuyển thành tiền một cách thuận lợi. thuộc loại này bao gồm:
Tín phiếu kho bạc
Hối phiếu đã chấp nhận
Các giấy nợ ngắn hạn khác.
Gọi là dự trữ thứ cấp bởi nó chỉ được sử dụng khi các khoản mục dự trữ sơ cấp bị cạn kiệt. Khi quản lý dự trữ bắt buộc, NHNN có thể áp dụng 1 trong 3 biện pháp:
Phương pháp phong tỏa: Theo đó toàn mức dự trữ bắt buộc phải gửi vào một tài khoản tại NHNN và sẽ bị phong tỏa để đảm bảo thực hiện đúng mức dự trữ.
Phương pháp bán phong tỏa: theo đó một phần của mức dự trữ bắt buộc sẽ được quản lý và phong tỏa tại một tài khoản riêng ở NHNN.
Phương pháp không phong tỏa: Theo phương pháp này tiền dự trữ được tính và thực hiện hàng ngày trên cơ sở số dư thực tế về tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kì hạn. toàn bộ mức dự trữ sẽ không bị phong tỏa, nó có thể tồn tại dưới hình thức tiền mặt hay tiền gửi NHNN hay dưới dạng chứng khoán ngắn hạn là tùy ngân hàng thương mại, tuy nhiên đến cuối mỗi tháng, NHNN sẽ kiểm tra việc thực hiện dự trữ bắt buộc, nếu các NHTM không thực hiện đúng sẽ bị phạt (cảnh cáo, phạt tiền nếu tái phạm).
Cấp tín dụng
Số nguồn vốn còn lại sau khi để dành một phần dự trữ, các ngân hàng thương mại có thể dùng để cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân bao gồm:
Cho vay: Là tín dụng nghiệp vụ của ngân hàng thương mại. Trong đó NHTM sẽ cho người đi vay vay một số vốn để sản xuất kinh doanh, hoặc đầu tư tiêu dùng. Khi đến hạn người đi vay phải hoàn trả vốn và tiền lãi. Ngân hàng kiểm soát được người đi vay, kiểm soát được quá trình sử dụng vốn. Người đi vay có ý thức trả nợ cho nên bắt buộc họ phải quan tâm đến việc sử dụng vốn làm sao cho có hiệu quả để hoàn trả nợ vay. Trong cho vay thì mức độ rủi ro rất lớn, không thu hồi được vốn vay hoặc không trả hết hoặc không đúng hạn...do chủ quan hoặc khách quan. Do đó khi cho vay các ngân hàng cần sử dụng các biện pháp bảo đảm vốn vay: thế chấp, cầm cố...
Chiết khấu: Đây là nghiệp vụ cho vay (gián tiếp) mà ngân hàng sẽ cung ứng vốn tín dụng cho một chủ thể mà một chủ thể khác thực hiện việc trả nợ cho ngân hàng. Các đối tượng trong nghiệp vụ này gồm hối phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và các giấy nợ có giá khác.
Cho thuê tài chính: Là loại hình tín dụng trung, dài hạn. Trong đó các công ty cho thuê tài chính dùng vốn của mình hay vốn do phát hành trái phiếu để mua tài sản, thiết bị theo yêu cầu của người đi thuê và tiến hành cho thuê trong một thời gian nhất định. Người đi thuê phải trả tiền thuê cho công ty cho thuê tài chính theo định kì. Khi kết thúc hợp đồng thuê người đi thuê được quyền mua hoặc kéo dài thêm thời hạn thuê hoặc trả lại thiết bị cho bên cho thuê.
Bảo lãnh ngân hàng: Trong loại hình nghiệp vụ này khách hàng được ngân hàng cấp bảo lãnh cho khách hàng nhờ đó khách hàng sẽ được vay vốn ở ngân hàng khác hoặc thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký kết.
Đầu tư: Khoản mục đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau khoản mục cho vay, nó mang lại khoản thu nhập lớn và đáng kể của ngân hàng thương mại. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng sẽ dùng nguồn vốn của mình và nguồn vốn ổn định khác để đầu tư dưới các hình thức như:
Hùn vốn mua cổ phần, cổ phiếu của các công ty; hùn vốn mua cổ phần chỉ được phép thực hiện bằng vốn của ngân hàng.
Mua trái phiếu chính phủ, chính quyền đại phương, trái phiếu công ty...
Tất cả hoạt động đầu tư chứng khoán đều nhằm mục đích mang lại thu nhập, mặt khác nhờ họat động đầu tư mà các rủi ro trong hoạt động ngân hàng sẽ được phân tán, mặt khác đầu tư vào trái phiếu chính phủ thì mức độ rủi ro sẽ rất thấp.
Tài sản có khác
Những khoản mục còn lại của tài sản có trong đó chủ yếu là tài sản cố định nhằm: xây dựng hoặc mua thêm nhà cửa để làm trụ sở văn phòng, trang thiết bị, máy móc, phương tiện vận chuyển... Ngoài ra còn các khoản phải thu, các khoản khác.
1.1.4. Hoạt động tín dụng
1.1.4.1. Khái niệm tín dụng.
Quan niệm về tín dụng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế và nó cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa. Tín dụng ra đời, tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ tín dụng được phát sinh ngay từ thời kỳ chế độ công xã nguyên thủy bắt đầu tan rã. Khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất xuất hiện, cũng là đồng thời xuất hiện quan hệ trao đổi hàng hóa. Thời kỳ này, tín dụng được thực hiện dưới hình thức vay mượn bằng hiện vật - hàng hóa. Về sau, tín dụng đã chuyển sang hình thức vay mượn bằng tiền tệ.
Cho vay, còn gọi là tín dụng, là việc một bên (bên cho vay) cung cấp nguồn tài chính cho đối tượng khác (bên đi vay) trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả tài chính cho bên cho vay trong một thời hạn thỏa thuận và thường kèm theo lãi suất Do hoạt động này làm phát sinh một khoản nợ nên bên cho vay còn gọi là chủ nợ, bên đi vay gọi là con nợ. Do đó, tín dụng phản ánh mối quan hệ giữa hai bên - Một bên là người cho vay, và một bên là người đi vay. Quan hệ giữa hai bên ràng buộc bởi cơ chế tín dụng, thỏa thuận thời gian cho vay, lãi suất phải trả.
Như vậy, “Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ từ người sở hữu sang người sử dụng và sau đó hoàn t