Đánh giá giá trị giải trí và giá trị phi sử dụng của Vườn Quốc gia Ba Bể - Bắc Kạn

Vườn Quốc gia là một vùng đất tự nhiên được thành lập để bảo tồn hệ sinh thái chuẩn của một đất nước. Đó là một khu rừng đặc dụng được quản lý và bảo vệ nghiêm ngặt nhằm bảo vệ lâu dài một hay nhiều hệ sinh thái, bảo đảm các yêu cầu cơ bản sau: 1- Là vùng đất tự nhiên bao gồm mẫu chuẩn của các hệ sinh thái cơ bản (còn nguyên vẹn hoặc ít bị tác động của con người); các nét đặc trưng về sinh cảnh của các loài động, thực vật; các khu rừng có giá trị cao về mặt khoa học, giáo dục và du lịch. 2- Là vùng đất tự nhiên đủ rộng để chứa đựng được một hay nhiều hệ sinh thái và không bị thay đổi bởi những tác động xấu của con người; tỷ lệ diện tích hệ sinh thái tự nhiên cần bảo tồn phải đạt từ 70% trở lên. 3- Là khu vực có điều kiện về giao thông tương đối thuận lợi. Hiện nay, Việt Nam đã thành lập 28 VQG phân bố ở cả ba miền, được quản lý bảo vệ theo quy chế quản lý rừng đặc dụng. Việc quản lý VQG được phân cấp giao cho Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn trong trường hợp VQG nằm trên địa bàn của nhiều Tỉnh, còn lại giao cho Ủy ban nhân dân Tỉnh quản lý nếu VQG nằm trên địa bàn một địa phương. Mỗi VQG đều được thành lập một ban quản lý. Ban quản lý là chủ rừng, được giao đất lâm nghiệp và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chịu trách nhiệm quản lý, bảo vệ và xây dựng khu rừng được giao. Do tầm quan trọng của bảo tồn mà Vườn Quốc gia được chia thành các phân khu chức năng như sau: - Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: là khu vực được bảo toàn nguyên vẹn, được quản lý bảo vệ chặt chẽ để theo dõi diễn biến tự nhiên; nghiêm cấm mọi hành vi làm thay đổi cảnh quan tự nhiên của khu rừng. Đây là những khu vực có rừng nguyên sinh, có tính đa dạng sinh học cao được bảo vệ nghiêm ngặt.

doc109 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3310 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đánh giá giá trị giải trí và giá trị phi sử dụng của Vườn Quốc gia Ba Bể - Bắc Kạn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ ĐỊNH GIÁ GIÁ TRỊ GIẢI TRÍ VÀ GIÁ TRỊ PHI SỬ DỤNG CỦA MỘT VƯỜN QUỐC GIA 4 1.1. Vườn Quốc gia và Tổng giá trị kinh tế của Vườn Quốc gia 4 1.1.1.Vườn Quốc gia và sự cần thiết đánh giá giá trị của VQG 4 1.1.2. Tổng giá trị kinh tế của0 một Vườn Quốc gia 6 1.1.3. Phương pháp định giá giá trị của một VQG 10 1.2. Phương pháp chi phí du lịch định giá giá trị giải trí của VQG 11 1.2.1. Phương pháp chi phí du lịch (TCM - Travel Cost Method) 11 1.2.2. Mô hình lý thuyết hàm chi phí du lịch 12 1.2.3. Một số phương pháp tiếp cận chi phí du lịch 14 1.2.4. Tổng quan các nghiên cứu sử dụng phương pháp chi phí du lịch để đánh giá giá trị cảnh quan 19 1.2.5. Một số ưu điểm hạn chế của phương pháp chi phí du lịch 21 1.3. Phương pháp định giá ngẫu nhiên trong định giá giá trị phi sử dụng 22 1.3.1. Phương pháp định giá ngẫu nhiên (Contingent Valuation Method - CVM) 22 1.3.2. Mô hình lý thuyết về định giá ngẫu nhiên 24 1.3.3. Các bước tiến hành định giá ngẫu nhiên 26 1.3.4. Tổng quan các nghiên cứu sử dụng CVM đo lường giá trị phi sử dụng của môi trường 28 1.3.5. Một số ưu điểm và hạn chế của phương pháp định giá ngẫu nhiên 31 CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ VƯỜN QUỐC GIA BA BỂ - BẮC KẠN 33 2.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển VQG Ba Bể 33 2.2. Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội 35 2.2.1. Điều kiện tự nhiên 35 2.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 37 2.3. Giá trị cảnh quan và giá trị đa dạng sinh học của VQG Ba Bể 39 2.3.1. Giá trị cảnh quan văn hoá lịch sử 39 2.3.2. Giá trị đa dạng sinh học 41 2.4. Hoạt động của Vườn Quốc gia Ba Bể 45 2.4.1. Hoạt động bảo tồn thiên nhiên và giáo dục môi trường 45 2.4.2. Hoạt động du lịch 48 2.4.3. Hoạt động kinh tế - xã hội của dân cư và tác động đến tài nguyên rừng 50 2.5. Những áp lực bảo tồn và những việc cần ưu tiên trong quản lý, bảo tồn 52 2.5.1. Mục tiêu đặt ra đối với công tác bảo tồn 52 2.5.2. Các áp lực và thách thức đối với công tác bảo tồn 53 2.5.3. Các hoạt động cần ưu tiên trong công tác bảo tồn 55 CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ GIẢI TRÍ VÀ GIÁ TRỊ PHI SỬ DỤNG VƯỜN QUỐC GIA BA BỂ 57 3.1. Bảng hỏi phỏng vấn và các đặc điểm xã hội của đối tượng phỏng vấn 57 3.1.1. Bảng hỏi phỏng vấn 57 3.1.2. Mẫu điều tra 58 3.1.3. Một số đặc điểm kinh tế - xã hội của đối tượng phỏng vấn 59 3.2. Sử dụng phương pháp chi phí du lịch theo vùng (ZTCM) đánh giá giá trị giải trí tại VQG Ba Bể 64 3.2.1. Những giả thiết cơ bản 64 3.2.2 Phân vùng khách du lịch 65 3.2.3. Xác định chi phí du lịch 69 3.2.4. Hàm cầu giải trí 76 3.2.5. Đường cầu giải trí và giá trị cảnh quan du lịch của VQG Ba Bể 78 3.3. Đánh giá giá trị phi sử dụng VQG Ba Bể bằng phương pháp CVM 79 3.3.1. Mô hình đánh giá 79 3.3.2.Thiết lập thị trường giả tưởng 80 3.3.3. Thu nhận thông tin về mức sẵn lòng chi trả 81 3.3.4. Phân tích các yếu tố tác động đến sự bằng lòng chi trả 84 3.3.5. Lượng giá giá trị phi sử dụng VQG Ba Bể 89 3.4. Kết luận rút ra từ nghiên cứu và một số đề xuất 90 KẾT LUẬN 94 TÀI LIỆU THAM KHẢO 95 PHỤ LỤC 1 97 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BV  GIÁ TRỊ LƯU TRUYỀN   BỘ NN&PTNT  BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN   CVM  PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ NGẪU NHIÊN   DLST  DU LỊCH SINH THÁI   ĐDSH  ĐA DẠNG SINH HỌC   EV  GIÁ TRỊ TỒN TẠI   NUV  GIÁ TRỊ PHI SỬ DỤNG   OLS  PHƯƠNG PHÁP BÌNH PHƯƠNG NHỎ NHẤT   TCM  PHƯƠNG PHÁP CHI PHÍ DU LỊCH   TCTK  TỔNG CỤC THỐNG KÊ   TEV  TỔNG GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA MÔI TRƯỜNG   TNBQ  THU NHẬP BÌNH QUÂN   UV  GIÁ TRỊ SỬ DỤNG   VQG  VƯỜN QUỐC GIA   WTA  BẰNG LÒNG CHẤP NHẬN   WTP  BẰNG LÒNG CHI TRẢ   DANH MỤC BẢNG BIỂU TÊN BẢNG  TRANG   Bảng 1.1: Giá trị tồn tại và giá trị để lại của một số VQG  29   Bảng 2.1: Thu nhập của dân cư vùng hồ Ba Bể  37   Bảng 2.2: So sánh tài nguyên thú rừng một số VQG  45   Bảng 2.3: Số lượng khách du lịch đến Ba Bể từ 2003 đến 2005  49   Bảng 3.1 Đặc điểm kinh tế - xã hội của du khách trong nước  59   Bảng 3.2: Đặc điểm kinh tế xã hội của du khách nước ngoài  61   Bảng 3.3 : Số du khách trong mỗi nhóm  62   Bảng 3.4: Đánh giá chất lượng môi trường của du khách  64   Bảng 3.5: Tỷ lệ du khách theo vùng xuất phát  68   Bảng 3.6: Phương tiện du khách sử dụng đến VQG  70   Bảng 3.7: Chi phí đi lại của du khách  71   Bảng 3.8: Chi phí thời gian của du khách  73   Bảng 3.9: Chi phí ăn ở của du khách tại Ba Bể  75   Bảng 3.10: Tổng hợp chi phí của du khách theo các vùng  76   Bảng 3.11: Lợi ích giải trí của du khách từ các vùng đến Ba Bể  79   Bảng 3.12: Tỷ lệ du khách sẵn sàng chi trả cho bảo tồn  82   Bảng 3.13: Mục đích chi trả của du khách  82   Bảng 3.14: Mức chi trả trung bình cho bảo tồn  83   Bảng 3.15: Mô tả các biến trong mô hình  84   Bảng 3.16: Kết quả ước lượng  85   Bảng 3.17: Kiểm định mô hình  86   Bảng 3.18: Tổng mức sẵn lòng chi trả  90   DANH MỤC HÌNH VẼ TÊN HÌNH  TRANG   Hình 1.1: Tổng giá trị kinh tế của môi trường  11   Hình 1.2: Đường cầu du lịch  17   Hình 1.3: Đường cầu du lịch trong trường hợp chất lượng môi trường thay đổi  19   Hình 3.1: Các hoạt động chính của du khách tại VQG  63   Hình 3.2: Một số điểm du khách chưa hài lòng  63   Hình 3.3: Bản đồ phân vùng điểm xuất phát của du khách  67   Hình 3.4: Đường cầu giải trí  78   MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Rừng nhiệt đới là một nguồn tài nguyên quan trọng và có giá trị to lớn ở nước ta song thời gian qua chúng đã được khai thác quá mức làm suy giảm cả diện tích và chất lượng. Nếu năm 1945 độ che phủ rừng của cả nước là 45% thì nay độ che phủ chỉ còn khoảng 30%. Nhận thức giá trị của rừng đối với cuộc sống là vô cùng quan trọng nên ngay từ những năm 1960, Nhà nước đã cho thành lập các Vườn Quốc gia và Khu bảo tồn thiên nhiên để bảo tồn các giá trị của rừng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các Vườn Quốc gia, các Khu bảo tồn vẫn bị xâm hại vì những lợi ích trước mắt. Lý do được nhìn nhận trên quan điểm kinh tế là chúng ta chưa hiểu hết giá trị của rừng. Cuộc sống của con người tại các quốc gia nhiệt đới như Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào rừng. Rừng không chỉ cung cấp cho con người những giá trị sử dụng trực tiếp như gỗ củi, các loài động thực vật mà còn mang lại nhiều giá trị gián tiếp như hấp thụ cácbon, hạn chế lũ lụt, tạo ra những cảnh quan và là nguồn cảm hứng sáng tạo của loài người. Hơn thế, việc bảo tồn các giá trị của hệ sinh thái rừng không chỉ mang lại lợi ích cho thế hệ hiện tại mà còn mang lại lợi ích cho thế hệ tương lai. Vườn Quốc gia Ba Bể là một trong số 28 VQG ở Việt Nam có giá trị cảnh quan độc đáo và tính đa dạng sinh học cao với nhiều loài đặc hữu. Đây là một VQG với đầy đủ các nét đặc trưng của một rừng nguyên sinh miền Bắc đồng thời là một hệ sinh thái đất ngập nước với một hồ nước ngọt lớn bậc nhất cả nước. Vườn được thành lập từ năm 1992 với nhiệm vụ bảo tồn các hệ động thực vật, nghiên cứu khoa học và phát triển du lịch sinh thái. Thời gian gần đây việc phát triển du lịch và phát triển kinh tế của dân cư quanh Vườn đã tạo sức ép đối với công tác bảo tồn. Do đó, việc nhận thức đầy đủ các giá trị của Vườn sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với công tác bảo tồn. Đề tài “Đánh giá giá trị giải trí và giá trị phi sử dụng của Vườn Quốc gia Ba Bể - Bắc Kạn” được thực hiện nhằm xác định giá trị giải trí của VQG Ba Bể bằng phương pháp chi phí du lịch và xác định giá trị phi sử dụng bằng phương pháp định giá ngẫu nhiên. Đây là những giá trị phi thị trường mà việc bảo tồn VQG có thể mang lại cho thế hệ hiện tại và tương lai. Từ trước tới nay người ta đều nhận thức được các giá trị vô hình này song việc lượng giá chúng không dễ dàng, mặc dù theo một số nghiên cứu ngoài nước thì chỉ riêng giá trị phi sử dụng đã chiếm khoảng 35 -70% giá trị của tài sản môi trường. Mặt khác, với giá trị cảnh quan, đã có nhiều nghiên cứu đánh giá ở trong và ngoài nước nhưng với giá trị chưa sử dụng có thể đây là một nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam. Do đó, đề tài mong muốn xây dựng một phương pháp xác định giá trị chưa sử dụng có thể tham khảo khi thực hiện xác định giá rừng ở nước ta. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là đánh giá giá trị cảnh quan và giá trị chưa sử dụng của Vườn Quốc gia Ba Bể thông qua làm rõ các vấn đề sau: Sử dụng phương pháp chi phí du lịch theo vùng ước tính chi phí của du khách đến Ba Bể, từ đó xây dựng hàm cầu và xác định giá trị cảnh quan của khu du lịch Ba Bể. Đánh giá chất lượng dịch vụ du lịch, sự hài lòng của du khách và đề xuất mức phí vào cổng của VQG Ba Bể. Sử dụng phương pháp định giá ngẫu nhiên để xác định sự bằng lòng chi trả (WTP) của du khách cho hoạt động bảo tồn của VQG. Sử dụng mô hình kinh tế lượng phân tích các yếu tố tác động đến WTP. Đề xuất một số giải pháp nhằm kết hợp hài hoà giữa hoạt động du lịch và hoạt động bảo tồn. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu Về khoa học, đề tài thực hiện đánh giá giá trị giải trí và giá trị chưa sử dụng của VQG dựa trên lý thuyết của kinh tế học môi trường. Về địa điểm nghiên cứu, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu tại khu vực VQG Ba Bể. Về thời gian, đề tài tiến hành điều tra thu thập số liệu bằng bảng hỏi đối với du khách và thu thập thông tin thứ cấp từ tháng 7 năm 2005 đến tháng 12 năm 2005 tại VQG Ba Bể. Phương pháp nghiên cứu Để có số liệu phân tích đánh giá, đề tài sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp du khách, phỏng vấn trực tiếp các hộ dân đang sinh sống trong vùng lõi VQG. Đề tài sử dụng phương pháp thu thập số liệu thứ cấp từ các cơ quan liên quan, sử dụng phương pháp điều tra thực tế và phương pháp thống kê kinh tế lượng. Kết cấu của đề tài Đề tài ngoài phần mở đầu kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Lý thuyết về đánh giá giá trị giải trí và giá trị phi sử dụng của một VQG. Chương 2: Tổng quan về Vườn Quốc gia Ba Bể - Bắc Kạn. Chương 3: Đánh giá giá trị giải trí và giá trị phi sử dụng của VQG Ba Bể. CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ ĐỊNH GIÁ GIÁ TRỊ GIẢI TRÍ VÀ GIÁ TRỊ PHI SỬ DỤNG CỦA MỘT VƯỜN QUỐC GIA 1.1. Vườn Quốc gia và Tổng giá trị kinh tế của Vườn Quốc gia 1.1.1.Vườn Quốc gia và sự cần thiết đánh giá giá trị của VQG 1.1.1.1 Vườn Quốc gia Vườn Quốc gia là một vùng đất tự nhiên được thành lập để bảo tồn hệ sinh thái chuẩn của một đất nước. Đó là một khu rừng đặc dụng được quản lý và bảo vệ nghiêm ngặt nhằm bảo vệ lâu dài một hay nhiều hệ sinh thái, bảo đảm các yêu cầu cơ bản sau: 1- Là vùng đất tự nhiên bao gồm mẫu chuẩn của các hệ sinh thái cơ bản (còn nguyên vẹn hoặc ít bị tác động của con người); các nét đặc trưng về sinh cảnh của các loài động, thực vật; các khu rừng có giá trị cao về mặt khoa học, giáo dục và du lịch. 2- Là vùng đất tự nhiên đủ rộng để chứa đựng được một hay nhiều hệ sinh thái và không bị thay đổi bởi những tác động xấu của con người; tỷ lệ diện tích hệ sinh thái tự nhiên cần bảo tồn phải đạt từ 70% trở lên.  3- Là khu vực có điều kiện về giao thông tương đối thuận lợi. Hiện nay, Việt Nam đã thành lập 28 VQG phân bố ở cả ba miền, được quản lý bảo vệ theo quy chế quản lý rừng đặc dụng. Việc quản lý VQG được phân cấp giao cho Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn trong trường hợp VQG nằm trên địa bàn của nhiều Tỉnh, còn lại giao cho Ủy ban nhân dân Tỉnh quản lý nếu VQG nằm trên địa bàn một địa phương. Mỗi VQG đều được thành lập một ban quản lý. Ban quản lý là chủ rừng, được giao đất lâm nghiệp và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chịu trách nhiệm quản lý, bảo vệ và xây dựng khu rừng được giao. Do tầm quan trọng của bảo tồn mà Vườn Quốc gia được chia thành các phân khu chức năng như sau:  - Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: là khu vực được bảo toàn nguyên vẹn, được quản lý bảo vệ chặt chẽ để theo dõi diễn biến tự nhiên; nghiêm cấm mọi hành vi làm thay đổi cảnh quan tự nhiên của khu rừng. Đây là những khu vực có rừng nguyên sinh, có tính đa dạng sinh học cao được bảo vệ nghiêm ngặt. - Phân khu phục hồi sinh thái : Là khu vực được quản lý, bảo vệ chặt chẽ để rừng phục hồi, tái sinh tự nhiên; nghiêm cấm việc du nhập những loài động vật, thực vật không có nguồn gốc tại khu rừng. Thông thường đây là khu vực đang được khoanh nuôi để rừng tái sinh tự nhiên. - Phân khu dịch vụ - hành chính : Là khu vực để xây dựng các công trình làm việc và sinh hoạt của Ban quản lý, các cơ sở nghiên cứu - thí nghiệm, dịch vụ du lịch, vui chơi giải trí. Đồng thời, để ngăn chặn những tác động xấu, Vườn Quốc gia phải thiết lập vùng đệm. Vùng đệm là vùng rừng, vùng đất hoặc vùng đất có mặt nước nằm sát ranh giới với các Vườn Quốc gia; có tác động ngăn chặn hoặc giảm nhẹ sự xâm phạm khu rừng đặc dụng. Mọi hoạt động trong vùng đệm phải nhằm mục đích hỗ trợ cho công tác bảo tồn, quản lý và bảo vệ khu rừng đặc dụng; cấm săn bắn, bẫy bắt các loài động vật và chặt phá các loài thực vật hoang dã là đối tượng bảo vệ. Diện tích của vùng đệm không tính vào diện tích của khu rừng đặc dụng. Vùng đệm của VQG thường có dân cư sinh sống. Dân cư sống trong VQG chủ yếu được ổn định tại chỗ phải chấp hành nghiêm chỉnh Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, phải tuân theo các quy định của Ban quản lý khu rừng đặc dụng.  Không được di dân từ nơi khác tới VQG và vùng đệm.     Trong Vườn Quốc gia, có thể xây dựng nhiều điểm, tuyến du lịch dịch vụ theo nguyên tắc vừa khuyến khích phát triển các hoạt động du lịch để du khách hiểu thêm giá trị của VQG, vừa không được làm ảnh hưởng xấu đến mục tiêu bảo tồn. 1.1.1.2 Sự cần thiết định giá giá trị của VQG Định giá giá trị của một VQG hay khu bảo tồn là công việc khó khăn song có ý nghĩa quan trọng và đã được thực hiện tại nhiều quốc gia trên thế giới. Đó là việc sử dụng các công cụ kỹ thuật nhằm lượng giá giá trị bằng tiền của các tài sản môi trường là các VQG làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách về khai thác, sử dụng và quản lý VQG. Ở Việt Nam, việc định giá giá trị của tài sản môi trường là một VQG hay khu bảo tồn thiên nhiên còn mới mẻ song nếu thực hiện được sẽ có ý nghĩa như sau: Thứ nhất, Nhà nước đang thực hiện đầu tư rất lớn bằng ngân sách cho hoạt động bảo tồn các hệ sinh thái cảnh quan VQG song lợi ích thu được mới chỉ được nhìn nhận định tính. Lượng giá giá trị của VQG hay khu bảo tồn thiên nhiên sẽ giúp nhìn nhận lợi ích từ công tác bảo tồn đầy đủ hơn, cụ thể hơn. Thứ hai, định giá giá trị VQG giúp tránh gây thiệt hại tới vốn tài nguyên thiên nhiên quan trọng, chẳng hạn tính đa dạng sinh học, sự tồn tại của các loài quý hiếm… và cảnh báo những dự án có tác động tới VQG. Thứ ba, trong một số trường hợp việc lượng giá giá trị bằng tiền của tài sản môi trường là cơ sở để Nhà nước cân nhắc khi đưa ra một quyết định ảnh hưởng đến vốn tự nhiên; là cơ sở để Nhà nước xác định mức đền bù hoặc bồi thường khi cá nhân, tổ chức gây tổn hại đến tài sản tự nhiên. Thứ tư, khi tài sản môi trường được định giá tức giá trị của chúng được thừa nhận gồm cả giá trị sử dụng và giá trị phi sử dụng từ đó nâng cao nhận thức về môi trường của cộng đồng và đưa ra những chỉ dẫn trong quá trình ra quyết định kinh tế của VQG. 1.1.2. Tổng giá trị kinh tế của một Vườn Quốc gia Vườn Quốc gia là một tài sản môi trường nên tổng giá trị kinh tế của một VQG về nguyên tắc có thể xem xét thông qua các thành phần giá trị của một tài sản môi trường. Các nhà kinh tế học đã rất thành công khi phân loại giá trị kinh tế của một tài sản môi trường. Mặc dù thuật ngữ có thể chưa được thống nhất hoàn toàn, nhưng phương pháp luận này đặt cơ sở cho việc giải thích về sự hình thành của giá trị trên cơ sở sự tương tác giữa chủ thể con người - người định ra giá trị và khách thể - vật được đánh giá. Về tổng quan, để đo lường tổng giá trị kinh tế của một tài sản môi trường nói chung và một VQG nói riêng, các nhà kinh tế học bắt đầu bằng việc phân biệt giữa giá trị sử dụng và giá trị phi sử dụng. Giá trị sử dụng là những lợi ích thu được từ việc sử dụng nguồn tài nguyên trên thực tế. Đôi khi cũng có thể hiểu giá trị sử dụng là giá trị các cá nhân gắn với việc tiêu dùng một cách trực tiếp hay gián tiếp các dịch vụ do nguồn tài nguyên cung cấp. Ví dụ, đối với một VQG hay một khu rừng, con người có thể thu được lợi ích từ gỗ làm nhà, củi đốt; dùng cây cỏ làm thuốc; đi dạo trong rừng, ngắm nhìn các loài động thực vật hoặc chiêm ngưỡng cảnh đẹp. Giá trị sử dụng hình thành từ việc thực sự sử dụng tài sản môi trường, trên thực tế nó bao gồm: Giá trị sử dụng trực tiếp là các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trực tiếp cung cấp mà chúng ta có thể tính được giá cả và khối lượng trên thị trường. Một quan điểm khác cho rằng giá trị sử dụng trực tiếp là các lợi ích nhận được từ việc sử dụng trực tiếp tài sản và có thể được chia thành hai loại là sử dụng tiêu hao và không tiêu hao. Chẳng hạn, giá trị sử dụng trực tiếp của rừng gồm giá trị sử dụng tiêu hao như sản xuất gỗ, thực phẩm và các lâm sản ngoài gỗ khác; giá trị sử dụng không tiêu hao bao gồm các hoạt động giải trí và các hình thái du lịch thậm chí chỉ là xem hình ảnh phóng sự trên tivi. Giá trị sử dụng gián tiếp là những giá trị chủ yếu dựa trên chức năng của hệ sinh thái, có ý nghĩa về mặt sinh thái và môi trường. Nói cách khác đây là các chức năng cơ bản của môi trường gián tiếp hỗ trợ cho hoạt động kinh tế của con người. Chẳng hạn, khả năng chống gió bão, khả năng hấp thụ cacbon là giá trị sử dụng gián tiếp của rừng. Giá trị tuỳ chọn là lượng mà mỗi cá nhân sẵn sàng chi trả để bảo tồn nguồn lực hoặc một phần nguồn lực để sử dụng cho tương lai. Đây là giá trị do nhận thức, lựa chọn của con người đặt ra trong hệ sinh thái. Giá trị tuỳ chọn không có tính thống nhất chung và cũng phải được tính về mặt tiền tệ theo tính chất lựa chọn của nó. Tuy nhiên, trong một số trường hợp ranh giới giữa giá trị tuỳ chọn và giá trị không sử dụng là không rõ ràng. Giá trị phi sử dụng còn gọi là giá trị không sử dụng hoặc giá trị chưa sử dụng và thường trừu tượng hơn giá trị sử dụng. Giá trị phi sử dụng là thành phần giá trị của một tài sản môi trường thu được không phải do việc tiêu dùng một cách trực tiếp hay gián tiếp các các hàng hóa dịch vụ do tài sản môi trường cung cấp. Nó thể hiện các giá trị phi thị trường nằm trong bản chất của sự vật, không liên quan đến việc sử dụng trên thực tế, hoặc thậm chí việc chọn lựa sử dụng tài sản này. Thay vào đó các giá trị này được coi như những yếu tố phản ánh sự lựa chọn của con người, sự lựa chọn có kể đến cả sự quan tâm đồng cảm và trân trọng đối với quyền lợi hoặc sự tồn tại của các sinh vật không phải là con người. Các giá trị này bao hàm cả nhận thức về giá trị tồn tại của các giống loài khác hoặc của cả quần thể hệ sinh thái. Ví dụ, một cá nhân có thể cảm thấy hài lòng khi biết Vườn Quốc Gia Ba Bể tồn tại, các loài đặc hữu vẫn được bảo vệ mặc dù họ chưa tới đó bao giờ, và chắc chắn cũng không tới đó trong tương lai. Giá trị phi sử dụng bao gồm các thành phần: Giá trị để lại (Bequest value) là thành phần giá trị thu được từ sự mong muốn bảo tồn và duy trì nguồn tài nguyên cho lợi ích của các thế hệ hiện tại và tương lai. Chẳng hạn, người dân sống tại vùng cát Quảng Bình hiểu rằng cuộc sống của họ và con cháu họ trong tương lai phụ thuộc rất nhiều vào rừng phòng hộ chắn cát bay. Họ sẵn sàng đóng góp tiền bạc và công sức để duy trì rừng vì lợi ích của họ và con cháu họ. Trong trường hợp này, mức sẵn sàng đóng góp của họ được xem là giá trị để lại, giá trị lưu truyền cho thế hệ sau. Giá trị tồn tại (Existence value) là giá trị của tài sản môi trường có được từ nhận thức rằng tài sản đó còn tồn tại. Xét về tổng thể, xã hội cũng nhận được các lợi ích từ hàng hoá môi trường ngoài sự hữu dụng liên quan tới việc sử dụng trực tiếp hay gián tiếp. Sự tiêu dùng không có một hàng hoá cụ thể nhưng rõ ràng các cá nhân cảm thấy hài lòng khi biết một nguồn tài nguyên nào đó vẫn còn tồn tại. Rất khó giải thích tại sao xã hội lại đánh giá các lợi ích này. Tuy nhiên, chúng ta