Đánh giá nguồn thu ngân sách nhà nước từ các khoản viện trợ của Việt Nam trong khoản thời gian thừ 2006-2010

Hiện nay Việt Nam đang trong quá trình đầy mạnh công cuộc công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Để có những bước phát triển lớn hơn, chúng ta cần rất nhiều nguồn lực đặc biệt vốn là một yếu tố quan trọng, không thể thiếu.Mặc dù đã trải qua hơn một thập kỷ đổi mới nhưng Việt Nam vẫn được coi là mới bắt đầu bước vào giai đoạn đầu của tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Bên cạnh việc khơi dậy và phát huy nguồn vốn nội lực,chúng ta cần tranh thủ mọi nguồn vốn bên ngoài đặc biệt là nguồn viện trợ phát triển chính thức.Nguồn vốn này ngày càng có vai trò to lớn, quan trọng trong sự nghiệp đổi mới của chúng ta hiện nay vì đây không chỉ là nguồn vốn có nhiều điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn, khối lượng, phương thức thanh toán thời gian cho vay mà nó còn có ý nghĩa trong việc chuyển giao tri thức, công nghệ thích hợp, đào tạo nguồn nhân lực, giúp xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống ở các vùng nông thôn, miền núi, cải thiện môi trường, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.Do đó huy động nguồn thu NSNN từ các khoản viện trợ được xem là một chiến lược đặc biệt quan trọng cho việc tạo đà phát triển cho nền kinh tế Việt Nam. Việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn viện trợ phát triển chính thức còn có một ý nghĩa quan trọng trong điều kiện nguồn viện trợ này có xu hướng ngày một khan hiếm. Do vậy, làm thế nào để tạo nguồn thu và sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn viện trợ trở nên bức thiết hơn bao giờ hết nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội. Thông qua việc nghiên cứu và đánh giá nguồn thu NSNN từ các khoản viện trợ, đặc biệt là ODA ở Việt Nam hiện nay để thấy được những bất cập trong quá trình quản lý nguồn vốn này. Đó là lý do mà nhóm chúng tôi chọn đề tài : “Đánh giá nguồn thu ngân sách nhà nước từ các khoản viện trợ trong khoản thời gian thừ 2006-2010” để nghiên cứu và báo cáo.

doc24 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2622 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đánh giá nguồn thu ngân sách nhà nước từ các khoản viện trợ của Việt Nam trong khoản thời gian thừ 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay Việt Nam đang trong quá trình đầy mạnh công cuộc công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Để có những bước phát triển lớn hơn, chúng ta cần rất nhiều nguồn lực đặc biệt vốn là một yếu tố quan trọng, không thể thiếu.Mặc dù đã trải qua hơn một thập kỷ đổi mới nhưng Việt Nam vẫn được coi là mới bắt đầu bước vào giai đoạn đầu của tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Bên cạnh việc khơi dậy và phát huy nguồn vốn nội lực,chúng ta cần tranh thủ mọi nguồn vốn bên ngoài đặc biệt là nguồn viện trợ phát triển chính thức.Nguồn vốn này ngày càng có vai trò to lớn, quan trọng trong sự nghiệp đổi mới của chúng ta hiện nay vì đây không chỉ là nguồn vốn có nhiều điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn, khối lượng, phương thức thanh toán thời gian cho vay mà nó còn có ý nghĩa trong việc chuyển giao tri thức, công nghệ thích hợp, đào tạo nguồn nhân lực, giúp xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống ở các vùng nông thôn, miền núi, cải thiện môi trường, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng...Do đó huy động nguồn thu NSNN từ các khoản viện trợ được xem là một chiến lược đặc biệt quan trọng cho việc tạo đà phát triển cho nền kinh tế Việt Nam. Việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn viện trợ phát triển chính thức còn có một ý nghĩa quan trọng trong điều kiện nguồn viện trợ này có xu hướng ngày một khan hiếm. Do vậy, làm thế nào để tạo nguồn thu và sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn viện trợ trở nên bức thiết hơn bao giờ hết nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội. Thông qua việc nghiên cứu và đánh giá nguồn thu NSNN từ các khoản viện trợ, đặc biệt là ODA ở Việt Nam hiện nay để thấy được những bất cập trong quá trình quản lý nguồn vốn này. Đó là lý do mà nhóm chúng tôi chọn đề tài : “Đánh giá nguồn thu ngân sách nhà nước từ các khoản viện trợ trong khoản thời gian thừ 2006-2010” để nghiên cứu và báo cáo. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN I.Tổng quan về các khoản viện trợ: 1.Khái niệm: Viện trợ nước ngoài là một luồng vốn đổ vào hoặc một sự trợ giúp nào đó từ những nước phát triển cho các nước kém và đang phát triển để tạo ra hoặc làm biến đổi một cách sâu sắc nền kinh tế của nước đó nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung. 2.Các dạng viện trợ: Có bốn dạng viện trợ chính: Thứ nhất, các khoản cho vay dài hạn phải được thanh toán lại bằng loại ngoại tệ, thường có thể trả trong vòng 10 hoặc 20 năm. Lợi thế đói với người nhận là tiền thanh toán hàng năm ít hơn nhiều so với tiền thanh toán của các khoản cho vay ngắn và trung hạn. Thứ hai là những khoản “vay mềm” có thể được thanh toán lại bằng tiền trong nước. Một số được trả bằng ngoại tệ nhưng trong một thời gian dài chẳng hạn như 99 năm với lãi suất rất thấp, trong khi đó số nợ được thanh toán bằng tiền trong nước sẽ được cho vay lại để nước nhận tiếp tục các công trình phát triển. Đôi khi, trợ cấp trực tiếp được thực hiện. Dạng thứ ba là việc bán các sản phẩm dư thừa cho một nước để đổi lấy việc thanh toán bằng tiền trong nước của nước này như chương trình PL 480 của Mỹ. Điều này có thể rất có ý nghĩa cho một nước chậm phát triển có rất ít ngoại tệ vì nó sẽ giúp những nước này mua được hàng hóa từ nước ngoài. Các nước này thường phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm và các hàng tiêu dùng khác vì khu vực nông nghiệp của họ không thể sản xuất ra đủ để nuôi sống công nhân thành thị trong các ngành xây dựng hoặc các công trình đầu tư khác. Dạng thứ tư của viện trợ, không hoàn toàn là một luồng vốn mà là sự trợ giúp về kỹ thuật dành cho các nước chậm phát triển. 3.Vai trò của viện trợ: Viện trợ nước ngoài giữ một vai trò quan trọng trong việc xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia.Viện trợ nước ngoài có thể góp phần tạo ra hoặc làm biến đổi một cách sâu sắc một ngành kinh tế hoặc thậm chí một nền kinh tế của một nước. Viện trợ nước ngoài đã nhằm hai mục tiêu song song: Mục tiêu thứ nhất: là thúc đẩy tăng trưởng dài hạn và giảm nghèo ở những nước đang phát triển; động cơ chính của mục tiêu này là sự kết hợp giữa tinh thần vị tha và những quan tâm tính toán mang tính cá nhân các nhà tài trợ hơn là nhằm vào những lợi ích lâu dài về an ninh kinh tế chính trị khi các nước nghèo tăng trưởng. Mục tiêu thứ hai: là tăng cường lợi ích chiến lược và chính trị ngắn hạn của các nước tài trợ, hoặc nhằm vào những chế độ là đồng minh chính trị của các cường quốc phương Tây. Tuy vậy viện trợ nước ngoài không phải luôn luôn tạo ra hiệu quả giống nhau mà phụ thuộc vào chính sách tiếp nhận viên trợ của từng nước Có rất nhiều nghiên cứu về lĩnh vực viện trợ nước ngoài. Tuy nhiên, có hai lý do quan trọng khiến người ta quan tâm theo dõi, nghiên cứu về vấn đề này. Thứ nhất, những thay đổi sâu sắc trong môi trường kinh tế và chính trị toàn cầu trong thời gian vừa qua - nhất là việc kết thúc chiến tranh lạnh và dòng vốn tư nhân ồ ạt đổ vào các nước đang phát triển. Thứ hai, ngày nay chiến lược phát triển kinh tế của những nước cung cấp viện trợ cũng như tiếp nhận viện trợ đã được điều chỉnh, thay đổi và do đó đã đòi hỏi phải có một phương thức viện trợ mới. Tóm lại, không thể phủ nhận tác dụng to lớn của viện trợ quốc tế trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia, chúng ta tin tuởng rằng, cùng với việc thực hiện đường lối Đổi mới về kinh tế, Việt nam đã và sẽ tiếp tục nhận được sự tài trợ mạnh mẽ của các nhà tài trợ quốc tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Trong đó, vốn ODA là một phần chủ yếu của nguồn tài chính mà chính phủ các nước phát triển và các tổ chức đa phương dành cho các nước đang phát triển nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội cho các quốc gia này. Hơn 15 năm qua Việt Nam đã có được những thành công đáng kể trong lĩnh vực này, nhưng đồng thời cũng nổi lên nhiều bất cập đòi hỏi Chính Phủ và Quốc Hội phải quan tâm đúng mức. II.Tổng quan về nguồn viện trợ ODA: 1.Khái niệm về ODA( Official Development Assistance): Hỗ trợ phát triển chính thức hay còn gọi là viện trợ phát triển chính thức (ODA - Official Development Assistance) là các khoản viện trợ không hoàn lại, khoản vay với những điều kiện ưu đãi hoặc hỗn hợp các khoản trên được cung cấp bởi các nhà nước, tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế và các tổ chức phi chính phủ nhằm hỗ trợ cho phát triển kinh tế - xã hội ở những nước đang và chậm phát triển được tiếp nhận nguồn vốn này. 2. Đặc điểm của nguồn vốn ODA - Vốn ODA là nguồn vốn có tính ưu đãi của các nước phát triển, các tổ chức quốc tế đối với các nước đang và chậm phát triển. Với mục tiêu trợ giúp các nước đang và chậm phát triển, vốn ODA mang tính ưu đãi hơn bất cứ nguồn tài trợ nào khác. Thể hiện: + Khối lượng vốn vay lớn từ hàng chục đến hàng trăm triệu USD. + Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn) dài, có thời gian ân hạn dài (chỉ trả lãi, chưa trả nợ gốc). Vốn ODA của WB, ADB, Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (Japanese Bank for International Cooperation - JBIC) có thời gian hoàn trả là 40 năm và thời gian ân hạn là 10 năm. + Thông thường vốn ODA có một phần viện trợ không hoàn lại, phần này dưới 25% tổng số vốn vay. Ví dụ OECD cho không 20-25% tổng vốn ODA. Đây chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại. + Các khoản vay thường có lãi suất thấp, thậm chí không có lãi suất. Lãi suất giao động từ 0,5% đến 5% /năm (trong khi lãi suất vay trên thị trường tài chính quốc tế là trên 7% /năm và hàng năm phải thoả thuận lại lãi suất giữa hai bên). Ví dụ lãi suất của ADB là 1%/năm; của WB là 0,75% /năm; Nhật thì tuỳ theo từng dự án cụ thể trong năm tài khoá. Ví dụ từ năm 1997-2000 thì lãi suất là 1,8%/năm. Nhìn chung, các nước cung cấp vốn ODA đều có những chính sách và ưu tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng kỹ thuật và tư vấn (về công nghệ, kinh nghiệm quản lý). Đồng thời, đối tượng ưu tiên của các nước cung cấp vốn ODA cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể. - Vốn ODA thường kèm theo các điều kiện ràng buộc nhất định: Tuỳ theo khối lượng vốn ODA và loại hình viện trợ mà vốn ODA có thể kèm theo những điều kiện ràng buộc nhất định. Những điều kiện ràng buộc này có thể là ràng buộc một phần và cũng có thể là ràng buộc toàn bộ về kinh tế, xã hội và thậm chí cả ràng buộc về chính trị. Thông thường, các ràng buộc kèm theo thường là các điều kiện về mua sắm, cung cấp thiết bị, hàng hoá và dịch vụ của nước tài trợ đối với nước nhận tài trợ. Ví dụ, Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải mua hàng hóa và dịch vụ của nước mình… Canada yêu cầu cao nhất, tới 65%. Thụy Sĩ chỉ yêu cầu 1,7%, Hà Lan 2,2%, hai nước này được coi là nhữngnước có tỷ lệ ODA yêu cầu phải mua hàng hóa và dịch vụ của Nhà tài trợ thấp. Nhìn chung, 22% viện trợ của DAC phải được sử dụng để mua hàng hóa và dịch vụ của các quốc gia viện trợ. Nguồn vốn ODA luôn chứa đựng cả tính ưu đãi cho nước tiếp nhận và lợi ích của nước viện trợ. Các nước viện trợ nói chung đều không quên dành được lợi ích cho mình, vừa gây ảnh hưởng chính trị, vừa thực hiện xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ. - ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ: Vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, các nước nhận ODA phải sử dụng sao cho có hiệu quả, tránh lâm vào tình trạng không có khả năng trả nợ. 3. Phân loại nguồn vốn ODA 3.1 Theo tính chất: - ODA không hoàn lại: là hình thức cung cấp vốn ODA mà nước tiếp nhận không phải hoàn trả lại cho các Nhà tài trợ. - ODA vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): là khoản vay với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ, bảo đảm “yếu tố không hoàn lại” (còn gọi là “thành tố hỗ trợ”) đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc; - ODA vay hỗn hợp: là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay ưu đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại, nhưng tính chung lại có “yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc. 3.2. Theo nguồn vốn cung cấp: - ODA song phương: là nguồn vốn ODA của Chính phủ một nước cung cấp cho Chính phủ nước tiếp nhận. Thông thường vốn ODA song phương được tiến hành khi một số điều kiện ràng buộc của nước cung cấp vốn ODA được thoả mãn. - ODA đa phương: là nguồn vốn ODA của các tổ chức quốc tế cung cấp cho Chính phủ nước tiếp nhận. So với vốn ODA song phương thì vốn ODA đa phương ít chịu ảnh hưởng bởi các áp lực thương mại, nhưng đôi khi lại chịu những áp lực mạnh hơn về chính trị. 3.3. Theo đối tượng sử dụng: - ODA hỗ trợ dự án: là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án cụ thể. Nó có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không hoặc cho vay ưu đãi. - ODA phi dự án: Bao gồm các loại hình sau: + Hỗ trợ cán cân thanh toán: thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp (chuyển giao tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hóa, hỗ trợ nhập khẩu. Ngoại tệ hoặc hàng hóa được chuyển qua hình thức này có thể được sử dụng để hỗ trợ ngân sách. + Hỗ trợ trả nợ (hỗ trợ ngân sách). - ODA hỗ trợ chương trình: là khoản vốn ODA dành cho một mục đích tổng quát với thời gian nhất định mà không phải xác định một cách chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào. 3.4. Căn cứ theo mục đích - Hỗ trợ cơ bản: Là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và môi trường. Đây thường là những khoản cho vay ưu đãi. - Hỗ trợ kỹ thuật: Là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức, công nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu tiền đầu tư, phát triển thể chế và nguồn nhân lực… hình thức hỗ trợ này chủ yếu là viện trợ không hoàn lại. 3.5. Căn cứ theo điều kiện - ODA không ràng buộc nước nhận: việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng. - ODA có ràng buộc nước nhận: + Bởi nguồn sử dụng: Có nghĩa là việc mua sắm hàng hóa, trang thiết bị hay dịch vụ bằng nguồn vốn ODA chỉ giới hạn cho một số công ty do nước tài trợ sở hữu hoặc kiểm soát (đối với viện trợ song phương) hoặc các công ty của các nước thành viên (đối với viện trợ đa phương). + Bởi mục đích sử dụng: Chỉ được sử dụng cho một số lĩnh vực nhất định hoặc một số dự án cụ thể. 4. Ưu và nhược điểm của vốn ODA: Ưu điểm: -Lãi suất thấp (dưới 20%, trung bình từ 0.25%năm) -Thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới phải hoàn trả và thời gian ân hạn 8-10 năm) -Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là 25% của tổng số vốn ODA. Nhược điểm Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới).Ví dụ: - Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao - Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế giới). - Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất. - Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia. - Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên. Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp... có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NGUỒN THU NSNN TỪ KHOẢN VIỆN TRỢ ODA TRONG GIAI ĐOẠN TỪ 2006-2010: Các nguồn cung ODA chủ yếu Trong thời gian qua, cộng đồng tài trợ tại Việt Nam đã được mở rộng rất nhiều, số lượng nhà tài trợ ODA cho Việt Nam ngày càng tăng. Hiện nay có 51 nhà tài trợ ODA cho Việt Nam bao gồm 28 nhà tài trợ song phương, 23 nhà tài trợ đa phương và khoảng 600 tổ chức phi chính phủ đang hoạt động thường xuyên tại Việt Nam. Ngoài các nước là thành viên của Tổ chức OECD-DAC còn có các nhà tài trợ mới nổi như Trung Quốc, Ấn độ, Hung-ga-ri, Séc,... Các nhà tài trợ song phương: Ai-xơ-len, Anh, Áo, Ba Lan, Bỉ, Ca-na-đa, Cô-oét, Đan Mạch, Đức, Hà Lan, Hàn Quốc, Hungari, I-ta-lia, Luc-xem-bua, Mỹ, Na-uy, Nhật Bản, Niu-di-lân, Ôt-xtrây-lia, Phần Lan, Pháp, Séc, Tây Ban Nha, Thái Lan, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Trung Quốc, Singapo. Các nhà tài trợ đa phương: + Các định chế tài chính quốc tế và các quỹ: nhóm Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Đầu tư Bắc Âu (NIB), Quỹ Phát triển Bắc Âu (NDF), Quỹ Phát triển quốc tế của các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC (OFID - trước đây là Quỹ OPEC),  Quỹ Kuwait. + Các tổ chức quốc tế và liên chính phủ: Ủy ban châu Âu (EC), Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Cơ quan Phòng chống ma tuý và tội phạm Liên hợp quốc (UNODC), Quỹ Đầu tư Phát triển Liên hợp quốc (UNCDF), Quỹ môi trường toàn cầu (GEF), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc (UNESCO), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO)... Bảng 1: Một số nhà tài trợ lớn và các lĩnh vực ưu tiên: Nhà tài trợ  Ưu tiên toàn cầu  Ưu tiên Việt Nam   Nhật Bản  Hạ tầng kinh tế và dịch vụ  Hạ tầng kinh tế và dịch vụ   CHLB Đức  Phát triển kinh tế, cải thiện điều kiện sống  Hỗ trợ cải cách kinh tế, phát triển hệ thống GT   Mĩ  Tăng trưởng kinh tế, ổn định dân số và sức khỏe  Cứu trợ nạn nhân chiến tranh và trẻ em mồ côi   Pháp  Phát triển đô thị, GTVT, giáo dục, khai thác mỏ  Phát triển nhân lực, GTVT, thông tin liên lạc   Canada  Cơ sở hạ tầng, phát triển khu vực tư nhân môi trường  Hỗ trợ kinh tế và tài chính, hỗ trợ thiết chế và quản lý   Thụy Điển  Môi trường và biến đổi khí hậu; Dân chủ và quyền con người.  Môi trường và biến đổi khí hậu; Dân chủ và quyền con người; Chống tham nhũng.   Thụy Sĩ  Hạ tầng kinh tế; môi trường; đào tạo nguồn nhân lực;  Đào tạo nhân lực; phát triển đô thị; môi trường; xóa đói, giảm nghèo; cải cách hành chính công   Anh  Nhiều lĩnh vực  Xóa đói giảm nghèo, GTVT   WB  Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng phúc lợi  Xóa đói giảm nghèo, GTVT   ADB  Tạo việc làm, thêm cơ hội cho người nghèo, người yếu thế  Tạo việc làm, thêm cơ hội cho người nghèo, người yếu thế   IMF  Cân bằng về mậu dịch quốc tế, ổn định tỉ giá hối đoái  Hô trợ cán cân thanh toán và điều chỉnh cơ cấu   EU  Giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo, bình đẳng.  Giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo, bình đẳng; Hỗ trợ cộng đồng dân tộc thiểu số.   Tình hình huy động vốn ODA Quy mô vốn ODA huy động giai đoạn 2006 - 2010 Nguồn vốn hỗ trợ phát triển (ODA) có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) và có đóng góp không nhỏ vào sự phát triển bền vững của nước ta. Việt Nam đã đạt được khá nhiều thành tựu trong quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn này qua từng năm, đặc biệt trong những năm gần đây, khi tình hình thế giới có nhiều biến đổi bất lợi cho việc gia tăng viện trợ thì cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế vẫn thể hiện sự cam kết cao và sự ủng hộ mạnh mẽ trong việc hỗ trợ sự nghiệp phát triển KT - XH và giảm nghèo của Việt Nam. Theo tập quán tài trợ quốc tế, hàng năm các nhà tài trợ tổ chức Hội nghị viện trợ quốc tế để vận động tài trợ cho các quốc gia đang phát triển. Đối với Việt Nam, các hội nghị viện trợ được gọi là Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam (Hội nghị CG). Đến nay, thông qua 17 Hội nghị CG tổng số vốn ODA cam kết của các nhà tài trợ cho Việt Nam đã đạt trên 56,416 tỉ USD,mức cam kết ODA năm sau luôn cao hơn năm trước và đạt kỉ lục 8,063 tỉ USD tại hội nghị CG năm 2009 (cam kết ODA cho năm 2010). Tổng vốn ODA cam kết của cộng đồng tài trợ quốc tế cho Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2010 đạt 26,689 tỉ USD đã vượt xa chỉ tiêu đề ra trong Đề án định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA thời kì 2006 – 2010 (từ 19 đến 21 tỷ USD ODA cam kết), chưa kể đến nguồn vốn ODA kí kết từ 5 năm 2001 – 2005 chuyển tiếp sang 5 năm 2006 – 2010 khoảng 8 tỷ USD. Biểu đồ 1: Vốn ODA cam kết đối với Việt Nam từ 2006 đến 2010 Đơn vị: Tỉ USD  Năm  2006  2007
Luận văn liên quan