Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách kinh tế, các chính sách về tự do hóa thương mại – đầu tư và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã và đang hoàn thiện dần cơ chế nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển phù hợp với quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa. Song song với việc cải cách kinh tế, Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, gia nhập tổ chức WTO, một sân chơi nhiều thuận lợi nhưng cũng đầy thách thức và khó khăn.
Thực tiễn đặt ra như vậy, đòi hỏi nền kinh tế của VN trong những năm tiếp theo phải thực sự vững mạnh và phát triển. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nước vốn được biết đến là giữ vị trí chủ đạo, hoạt động trong lĩnh vực then chốt của nền kinh tế nước ta nhưng lại có cơ chế quản lý thiếu chặt chẽ, trình độ công nghệ sản xuất tụt hậu, thiếu năng động trong kinh doanh, bộ máy quản lý cồng kềnh, không hiệu quả từ nhiều năm nay. Chính vì vậy mà Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ ba (Khóa IX) đã khẳng định: “Đẩy mạnh cổ phần hóa những doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, xem đó là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”
Trước chủ trương đúng đắn và rất cần thiết đối với tiến trình phát triển của đất nước về việc đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, chúng tôi đã chọn đề tài “Đánh giá quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam và các giải pháp đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới”
23 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5096 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đánh giá quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam và các giải pháp đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời gian, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 2
I. MỤC TIÊU CỦA TIỂU LUẬN 2
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3
PHẦN NỘI DUNG 4
I TỔNG QUAN VỀ CỔ PHẦN HÓA 4
I.1 Lý luận về cổ phần hóa và công ty cổ phần 4
I.1.1 Quan niệm về cổ phần hóa 4
I.1.2 Quan niệm về công ty cổ phần 4
I.1.3 Mục tiêu và đối tượng của cổ phần hóa 5
I.2 Sự cần thiết phải cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 6
I.2.1 Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước hiện nam 6
I.2.2 Vai trò của cổ phần hóa và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa ở Việt Nam 7
I.3 Kinh nghiệm cổ phần hóa của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 8
I.4 Cơ sở pháp lý về cổ phần hóa tại Việt Nam 9
II THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM 9
II.1 Thực trạng cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam 9
II.1.1 Giai đoạn thí điểm (1992-5/1996) 9
II.1.2 Giai đoạn thí điểm mở rộng (5/1996-6/1998) 10
II.1.3 Giai đoạn triển khai từ tháng 7/1998 đến nay 10
II.2 Thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện CPH 12
II.2.1 Thuận lợi 12
II.2.2 Khó khăn 13
II.3 Những thành tựu đạt được từ việc CPH 14
II.4 Những hạn chế trong công tác CPH 15
III GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA 19
III.1 Thách thức trong quá trình thực hiện cổ phần hóa DNNN hiện nay 19
III.2 Giải pháp 20
III.2.1 Giải pháp vĩ mô: 20
III.2.2 Giải pháp vi mô: 21
KẾT LUẬN 22
LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách kinh tế, các chính sách về tự do hóa thương mại – đầu tư và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã và đang hoàn thiện dần cơ chế nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển phù hợp với quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa. Song song với việc cải cách kinh tế, Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, gia nhập tổ chức WTO, một sân chơi nhiều thuận lợi nhưng cũng đầy thách thức và khó khăn.
Thực tiễn đặt ra như vậy, đòi hỏi nền kinh tế của VN trong những năm tiếp theo phải thực sự vững mạnh và phát triển. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nước vốn được biết đến là giữ vị trí chủ đạo, hoạt động trong lĩnh vực then chốt của nền kinh tế nước ta nhưng lại có cơ chế quản lý thiếu chặt chẽ, trình độ công nghệ sản xuất tụt hậu, thiếu năng động trong kinh doanh, bộ máy quản lý cồng kềnh, không hiệu quả từ nhiều năm nay. Chính vì vậy mà Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ ba (Khóa IX) đã khẳng định: “Đẩy mạnh cổ phần hóa những doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, xem đó là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”
Trước chủ trương đúng đắn và rất cần thiết đối với tiến trình phát triển của đất nước về việc đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, chúng tôi đã chọn đề tài “Đánh giá quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam và các giải pháp đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới”
MỤC TIÊU CỦA TIỂU LUẬN
Từ năm 1991 đến nay, nhiều công ty cổ phần VN đã ra đời và được phân bố dọc theo chiều dài đất nước, và theo thời gian chính sự tồn tại và phát triển không ngừng của chúng đã mang lại nhiều thành quả đáng kể như hiệu quả hoạt động của DN được nâng cao, cơ cấu quản lý doanh nghiệp đi dần đến hoàn thiện, doanh thu và lợi nhuận không ngừng nới rộng, đời sống của người lao động ngày càng cải thiện theo mức thu nhập ngày một gia tăng, và doanh thu cho ngân sách nhà nước từ những khoản thuế của DN ngày được chất chồng thêm, cũng có nghĩa là uy tín và tên tuổi của chúng đang dần lan xa, và tại sao chúng trở thành những mục tiêu chính yếu luôn nằm trong tằm ngắm của nhiều nhà đầu tư nước ngoài . Điều đó đã chứng tỏ rằng: “CPH DNNN ở Việt Nam” trở thành một tất yếu khách quan, một xu hướng phù hợp với thời đại. Song bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì nhìn chung tiến độ thực thi còn chậm, vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại cần phải giải quyết. Chính vì vậy, việc nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra giải pháp thúc đẩy tiến trình CPH ở nước ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Do đó, qua đề tài này chúng tôi muốn mang đến cho các bạn cái nhìn tổng quan về thực trạng quá trình cổ phần hóa DNNN ở VN và cùng nhau thảo luận về các giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả của các công ty cổ phần hóa DNNN xứng tầm với vị thế vốn có của nó, đóng góp vào nền tăng trưởng kinh tế của nước nhà ngày một phồn vinh sung mãn.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp thống kê: Chỉ tiêu thống kê là sự biểu hiện một cách tổng hợp đặc điểm về mặt lượng trong sự thống kê về mặt chất của tổng thể hiện tượng trong điều kiện về thời gian và địa điểm cụ thể. Phương pháp thống kê được sử dụng chủ yếu là thu thập các số liệu và tổng hợp lại theo trình tự để thuận lợi cho quá trình đánh giá.
Phương pháp so sánh: Đây là phương pháp được áp dụng rất phổ biến. So sánh là đối chiếu các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế đã được lượng hóa có cùng một nội dung, có tính chất tương tự để xác đinh xu hướng biến động của các chỉ tiêu. Trên cơ sở đó ta có thể đánh giá một cách khách quan, những mặt phát triển hay chưa phát triển, hiệu quả hay kém hiệu quả, để từ đó đưa ra cách giải quyết, các biện pháp nhằm đạt được hiệu quả tối ưu.
PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Do thời gian nghiên cứu ngắn, phạm vi và lĩnh vực nghiên cứu còn cần nhiều cải cách, định hướng cho nên đề tài nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào việc tìm hiểu khái quát về:
Cổ phần hóa và các lí do dẫn đến cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam cũng như các quy định hiện hành của khung pháp lý về cổ phần hóa.
Thực trạng cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và đánh giá những thành tựu, cũng như các hạn chế còn tồn tại trong quá trính cổ phần hóa thời gian qua.
Nhận thức những thách thức cho quá trình cổ phần hóa và đưa ra các giải pháp đẩy nhanh tiến độ cổ phàn hóa hiện nay.
PHẦN NỘI DUNG
TỔNG QUAN VỀ CỔ PHẦN HÓA
Lý luận về cổ phần hóa và công ty cổ phần
Quan niệm về cổ phần hóa
Theo tài liệu của hầu hết các học giả nước ngoài thì việc xem xét vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đều đặt nó trong một quá trình rộng lớn hơn đó là quá trình tư nhân hóa. Tư nhân hóa theo như định nghĩa của Liên Hiệp Quốc là sự biến đổi tương quan giữa Nhà nước và thị trường trong đời sống kinh tế của một nước ưu tiên thị trường. Theo cách hiểu này thì toàn bộ các chính sách, thể chế, luật lệ nhằm khuyến khích, mở rộng, phát triển khu vực kinh tế tư nhân hay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, giảm bớt quyền sở hữu và can thiệp trực tiếp của nhà nước vào các hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, giành cho thị trường vai trò điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh đáng kể thông qua tự do hóa giá cả, tự do lựa chọn đối tác và ngành nghề kinh doanh.
Xét về mặt hình thức, thì cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị tài sản của mình cho các cá nhân hay tổ chức kinh tế trong hoặc ngoài nước, hoặc bán trực tiếp cho cán bộ, công nhân của chính doanh nghiệp nhà nước thông qua đấu thầu công khai, hay thông qua thị trường chứng khoán để hình thành nên các công ty cổ phần.
Như vậy cổ phần hóa chính là phương thức thực hiện xã hội hóa sơ hữu – chuyển hình thức kinh doanh từ một chủ sở hữu là doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được với nhu cầu kinh doanh hiện đại.
Từ quan niệm trên, kết hợp với điều kiện cụ thể với nước ta, có thể đưa ra khái niệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp mà chủ sở hữu là nhà nước (doanh nghiệp đơn sở hữu) thành công ty cổ phần (doanh nghiệp đa sở hữu), chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp
Quan niệm về công ty cổ phần
Xét về mặt pháp lý : công ty Cổ phần là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân độc lập, được hưởng quy chế pháp lý của Nhà nước, có tư cách bên nguyên để kiện các pháp nhân khác đồng thời cũng có thể bị các pháp nhân khác kiện. Công ty Cổ phần có vốn kinh doanh do nhiều người đóng góp dưới hình thức cổ phần. Các cổ đông trong công ty chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vị vốn góp của mình cho công ty chứ không chịu trách nhiệm vô hạn như hình thức kinh doanh một chủ hay hình thức kinh doanh chung vốn. Nhờ đó mà khả năng thu hút vốn đầu tư và khả năng mạo hiểm cao hơn.
Thuận lợi và khó khăn của công ty cổ phần
Thuận lợi của công ty Cổ phần phải kể đến là :
Thứ nhất, việc thu hút và sử dụng vốn nhàn rỗi trong dân cư nhờ vào việc phát hành cổ phiếu thông qua thị trường chứng khoán và các nguồn vốn nhàn rỗi từ khu vực dân cư, các nhà đầu tư nhỏ lẽ.
Thứ hai, việc đầu tư vào các công ty Cổ phần thường đem lại lợi ích lớn hơn so với việc gửi tiền vào các quỹ tín dụng hay ngân hàng. Thông thường lợi tức do cổ phiếu đem lại cao hơn lãi suất tiền gửi, dẫn đến hiệu quả kinh doanh cao, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Thứ ba, các cổ đông trong công ty không được phép rút vốn ra khỏi công ty mà chỉ có thể mua, bán, chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho những người khác. Do vậy số vốn kinh doanh của công ty luôn luôn ổn định cho dù có những biến động lớn về nhân sự trong công ty .
Thứ tư, điều kiện áp dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ trong họat động sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao năng suất lao động dễ dàng hơn do nguồn vốn dự phòng cho đầu tư phát triển được mở rộng và tính tự chủ cao về mặt quản lý điều hành DN
Với những thuận lợi trên, công ty Cổ phần đã có vai trò thúc đẩy sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán; tạo điều kiện thực hiện xã hội hoá các hình thức sở hữu.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, công ty Cổ phần vừa chuyển đổi từ DNNN cũng phải đối mặt với những khó khăn như:
Sự ảnh hưởng nặng nề của tư duy kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ trong điều kiện chiến tranh kéo dài. Trong tư duy cũng như trong thực tiễn xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật , người ta vẫn thường xem nhẹ các quy luật kinh tế khách quan của thị trường , coi kinh tế thị trường là của riêng Chủ nghĩa tư bản, từ đó dẫn đến hậu quả là việc hạch toán kinh tế trong các doanh nghiệp là mang tính hình thức,.
Hơn nữa, lực lượng sản xuất của ta còn quá yếu kém; cơ sở hạ tầng còn nghèo nàn, lạc hậu; hệ thống pháp luật, chính sách quản lý còn chưa thống nhất đồng bộ, thủ tục hành chính còn quá rườm rà, quan liêu; cơ cấu kinh tế chưa hợp lý…
Tóm lại, những thuận lợi và khó khăn của công ty Cổ phần là một mâu thuẫn lớn , song bắt buộc phải kiên quyết đổi mới, phải có những giải pháp và bước đi phù hợp với trình độ thực tế cơ sở. Do vậy mà mục tiêu và quan điểm đổi mới doanh nghiệp Nhà nước thông qua Cổ phần hoá là đúng đắn và cần thiết
Mục tiêu và đối tượng của cổ phần hóa
Theo Nghị định số 109/2001/NĐ-CP ngày 26/06/2007 về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần thì mục tiêu, đối tượng là:
Mục tiêu:
Chuyển đổi những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài để nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp.
Thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán.
Như vậy mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của nước ta được xác định rất rõ nhằm:
Thứ nhất: chuyển hoá từ đơn sở hữu sang đa sở hữu doanh nghiệp, đảm bảo quyền làm chủ thực sự của những người góp vốn và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có điều kiện huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ha, thay đổi căn bản về tổ chức các quan hệ quản lý nội bộ doanh nghiệp. Với cơ cấu tổ chức mới, có sự phân công, phân cấp và giám sát lẫn nhau chặt chẽ. Thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.
Thứ ba, thay đổi căn bản về quan hệ quản lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Từ chỗ doanh nghiệp bị chi phối toàn diện trong quá trình sản xuất kinh doanh bởi Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu duy nhất, sang quyền tự chủ kinh doanh được mở rộng và tính chịu trách nhiệm được đề cao.
Đối tượng cổ phần hóa:
Công ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ, ngành, địa phương.
Công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế (sau đây gọi tắt là tập đoàn), Tổng công ty nhà nước (kể cả Ngân hàng Thương mại nhà nước).
Công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con.
Công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập.
Đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty nhà nước độc lập, tập đoàn, tổng công ty nhà nước, công ty mẹ, công ty thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty.
Công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Sự cần thiết phải cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước hiện nam
Vai trò của DNNN
Trong đổi mới kinh tế, một vấn đề lớn được đặt ra là phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất. Để giải phóng lực lượng sản xuất, tất yếu phải phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường và xây dựng thể chế kinh tế thị trường, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, thể hiện ở những mặt sau:
DNNN có vị trí rất quan trọng, góp phần để khu vực kinh tế Nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là động lực thúc đẩy sự phân bố lại dân cư theo hướng công nghiệp hóa, hình thành các trung tâm kinh tế, văn hóa, đô thị mới, đào tạo cán bộ kĩ thuật, công nhân lành nghề và tạo thêm điều kiện hạ tầng cho quá trình phát triển.
DNNN là công cụ vật chất để Nhà nươc điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
DNNN đang đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách xã hội và ổn định chính trị- xã hội, định hướng công bằng, văn minh, góp phần cùng khu vực kinh tế khác giải quyết vấn đề việc làm, thu nhập cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, phát triển văn hóa giáo dục, y tế làm cơ sở và nền tảng cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Những tồn tại của DNNN
Ngoài một số những thành quả đạt được, nhìn chung hiện nay hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước nói chung và hệ thống doanh nghiệp nhà nước nói riêng vẫn chưa cao, chưa thể hiện vai trò đầu tàu của mình trong nền kinh tế. Những tồn tại yếu kém cụ thể là:
Thứ nhất, hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao, chưa tương xứng với vị trí và sự đầu tư của ngân sách.
Thứ hai, DNNN có quy mô nhỏ. Do quy mô doanh nghiệp còn rất nhỏ nên khả năng đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ rất hạn chế.
Thứ ba, DNNN lạc hậu về công nghệ sản xuất, về trình độ quản lí.
Thứ tư, cơ cấu phân bố chưa hợp lí. Còn khá nhiều DNNN hoạt động trong các lĩnh vực mà trong đó chúng khó có thể cạnh tranh được trong những dịch vụ thông thường. Bên cạnh đó, có thể nhận thấy DNNN được phân bổ không hợp lí theo địa phương, theo ngành. Có những địa phương, ngành như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, ngành công nghiệp, thương mại DNNN tập trung với số lượng lớn trong lúc đó nhiều địa phuơng lại có rất ít các DNNN.
Thứ năm, cơ chế quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp cũng như cơ chế quản lý trong bản thân doanh nghiệp cồng kềnh và thiếu hiệu quả. Quản lý vĩ mô DNNN chưa hiệu quả, chưa theo kịp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế, của việc nâng cao hiệu quả của DNNN.
Chế độ chủ quản đối với DNNN, chế độ chức năng đối với DNNN rất nhiều tầng cấp khiến chúng bị ràng buộc bởi quá nhiều yêu cầu và đòi hỏi khác nhau. Trong lúc đó, lợi ích của người lao động trong DNNN chưa trở thành động lực thúc đẩy họ lao động tốt hơn, gắn với doanh nghiệp một cách chặt chẽ hơn.
Thứ sáu, như là hệ quả của những điểm yếu trên, DNNN có ít khả năng cạnh tranh trên thị trường. Trong bối cảnh đất nước ta đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia nhiều hơn về các khu vực tự do mậu dịch hoặc các hiệp định thương mại song phương, đa phương, tính cạnh tranh thấp của DNNN là một thách thức sống còn đối với nền kinh tế nước ta.
Để các DNNN hoạt động có hiệu quả, cơ chế quản lí tốt, khả năng cạnh tranh trên thị trường tốt hơn, người lao động gắn bó hơn với doanh nghiệp thì DNNN cần sắp xếp, đổi mới một trong những giải pháp tốt nhất là cổ phần hóa, đây là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta.
Vai trò của cổ phần hóa và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa ở Việt Nam
Xuất phát từ thực tế nêu trên, thực hiện CPH là một nhiệm vụ rất cần thiết và quan trọng trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, CPH sẽ giải quyết được các vấn đề sau:
Thứ nhất, thực hiện CPH là để giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. CPH góp phần thực hiện chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Trước đây chúng ta xây dựng một cách cứng nhắc chế độ công hữu, thể hiện ở một số lượng quá lớn các DNNN mà không nhận thấy quan hệ sản xuất này không phù hợp với lực lượng sản xuất còn nhiều yếu kém, lạc hậu. Vì vậy CPH sẽ giải quyết được mâu thuẫn này, giúp lực lượng sản xuất phát triển.
Thứ hai, thực hiện CPH nhằm xã hội hoá lực lượng sản xuất, thu hút thêm nguồn lực sản xuất. Khi thực hiện CPH , người lao động sẽ gắn bó , có trách nhiệm với công việc hơn, họ trở thành người chủ thực sự của doanh nghiệp. Ngoài ra, phương thức quản lý được thay đổi, doanh nghiệp sẽ trở nên năng động, tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sản xuất.
Thứ ba, bên cạnh đó, CPH là một yếu tố thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán, đưa nền kinh tế hội nhập với kinh tế khu vực và trên thế giới.
Thứ tư, thực hiện CPH là một trong những giải pháp quan trọng nhằm huy động các nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế. Với việc huy động được các nguồn lực, các công ty cổ phần có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao được khả năng cạnh tranh trên thị trường, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Thứ năm, cổ phần hoá tác động tích cực đến đổi mới quản lý ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần không những chỉ là sự thay đổi về sở hữu, mà còn là sự thay đổi căn bản trong công tác quản lý ở cả phạm vi doanh nghiệp và ở cả phạm vi nền kinh tế quốc dân.
Thứ sáu, cổ phần hoá là một giải pháp quan trọng để cơ cấu lại nền kinh tế trong quá trình đổi mới.
Như vậy, đứng trước thực trạng hoạt động yếu kém của hệ thống DNNN, CPH với những ưu điểm và mục tiêu của mình đã chứng tỏ đó là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với quá trình đổi mới, phù hợp với giai đoạn quá độ đi lên CHXH ở nước ta.
Kinh nghiệm cổ phần hóa của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Chương trình thí điểm cổ phần hoá nhằm cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước được tiến hành ở Trung Quốc vào tháng 12/1986 và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Theo con số thống kê cuối năm 1992, Trung Quốc có khoảng 3.700 xí nghiệp cổ phần hoá trong đó 750 xí nghiệp nguyên là quốc doanh được chuyển đổi.
Từ năm 1994, quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc chuyển sang một giai đoạn mới với nhiều biện pháp mới như thành lập Công ty quản lý doanh nghiệp trung ương và biến các công ty cổ phần hoá thành công ty con của Công ty quản lý; tách hoạt động quan trọng ra khỏi doanh nghiệp nhà nước và chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần; đẩy mạnh thu hút vốn nước ngoài vào các xí nghiệp