Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu sự chuyển mình
của nền kinh tế Việt Nam. Đất nước ta chuyển đổi cơ chế quản lí kinh tế
từ cơ chế hành chính, tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường
có sự quẩn lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo cơ
chế mới này tất cả các thành phần kinh tế đều được tự do phát triển, tự
mình tìm thị trường kinh doanh, tự hạch toán kinh doanh, mở rộng thị
trường của mình. Nếu doanh nghiệp nào làm ăn có lãi, có chỗ đứng trên
thị trường thì sẽ tồn tại, nếu doanh nghiệp nào làm ăn thua lỗ thì sẽ bị đào
thải khỏi thị trường.
Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, môi trường kinh
doanh luôn biến động không ngừng cùng với sự thay đổi nhanh chóng
của khoa học kĩ thuật thì các doanh nghiệp luôn phải tìm cách tự đổi mới,
hoàn thiện mình cả về trình độ, năng lực, kinh nghiệm và hiện đại hoá
công nghệ. Do đó, hoạt động đầu tư nâng cao năng lực sản xuất kinh
doanh trong mỗi doanh nghiệp đã trở thành mối ưu tiên quan trọng trong
định hướng phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Công ty cổ phần tư vấn xây dựng Sông Đà là một doanh nghiệp
Nhà nước, hoạt động trong lĩnh vực tư vấn giám sát, khảo sát thiết kế xây
dựng, phục vụ thi công những công trình thuỷ điện, thuỷ lợi và các công
trình xây dựng công cộng. Sản phẩm của công ty là các bản vẽ thiết kế kĩ
thuật của các công trình, các hạng mục công trình và các con số khảo sát,
đặc điểm về chất đất, các kết luận thí nghiệm . Đây là những sản phẩm
chứa hàm lượng chất xám lớn, sản phẩm có chính xác, có phù hợp với
thiết kế kĩ thuật hiện đại hay không đều phụ thuộc rất nhiều vào trình độ,
năng lực, kinh nghiệm của cán bộ công nhân viên làm công tác khảo sát,
thí nghiệm, thiết kế, tư vấn của công ty cùng với độ chính xác , hiện đại
của trang thiết bị máy móc thí nghiệm khảo sát. Do đó, đầu tư nâng cao
năng lực sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ ở công ty có vai trò
quan trọng trong chiến lược sản xuất kinh doanh.
94 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1791 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đầu tư nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phần tư vấn xây dựng Sông Đà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu sự chuyển mình
của nền kinh tế Việt Nam. Đất nước ta chuyển đổi cơ chế quản lí kinh tế
từ cơ chế hành chính, tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường
có sự quẩn lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo cơ
chế mới này tất cả các thành phần kinh tế đều được tự do phát triển, tự
mình tìm thị trường kinh doanh, tự hạch toán kinh doanh, mở rộng thị
trường của mình. Nếu doanh nghiệp nào làm ăn có lãi, có chỗ đứng trên
thị trường thì sẽ tồn tại, nếu doanh nghiệp nào làm ăn thua lỗ thì sẽ bị đào
thải khỏi thị trường.
Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, môi trường kinh
doanh luôn biến động không ngừng cùng với sự thay đổi nhanh chóng
của khoa học kĩ thuật thì các doanh nghiệp luôn phải tìm cách tự đổi mới,
hoàn thiện mình cả về trình độ, năng lực, kinh nghiệm và hiện đại hoá
công nghệ. Do đó, hoạt động đầu tư nâng cao năng lực sản xuất kinh
doanh trong mỗi doanh nghiệp đã trở thành mối ưu tiên quan trọng trong
định hướng phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Công ty cổ phần tư vấn xây dựng Sông Đà là một doanh nghiệp
Nhà nước, hoạt động trong lĩnh vực tư vấn giám sát, khảo sát thiết kế xây
dựng, phục vụ thi công những công trình thuỷ điện, thuỷ lợi và các công
trình xây dựng công cộng. Sản phẩm của công ty là các bản vẽ thiết kế kĩ
thuật của các công trình, các hạng mục công trình và các con số khảo sát,
đặc điểm về chất đất, các kết luận thí nghiệm…. Đây là những sản phẩm
chứa hàm lượng chất xám lớn, sản phẩm có chính xác, có phù hợp với
thiết kế kĩ thuật hiện đại hay không đều phụ thuộc rất nhiều vào trình độ,
năng lực, kinh nghiệm của cán bộ công nhân viên làm công tác khảo sát,
thí nghiệm, thiết kế, tư vấn của công ty cùng với độ chính xác , hiện đại
của trang thiết bị máy móc thí nghiệm khảo sát. Do đó, đầu tư nâng cao
năng lực sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ ở công ty có vai trò
quan trọng trong chiến lược sản xuất kinh doanh.
Chuyªn ®Ò thùc tËp Hoµng TuÊn Khanh-§T43A
Trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần tư vấn xây dựng Sông
Đà, được sự hướng dẫn tận tình của cô Phạm Thị Thêu-GVC bộ môn
Kinh tế đầu tư cùng sự giúp đỡ của các cô, các anh, chị trong phòng Dự
án và tư vấn đấu thầu, đã giúp em nhận thức được tầm quan trọng của
việc đầu tư nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp và
lựa chọn đề tài: “Đầu tư nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh ở
công ty cổ phần tư vấn xây dựng Sông Đà”
Trên cơ sở nghiên cứu của chuyên nghành Kinh tế đầu tư và các tài
liệu tham khảo khác. Chuyên đề của em đã phân tích và đánh giá thực
trạng công tác đầu tư nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh tại công ty
CP tư vấn xây dựng Sông Đà, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn
thiện và nâng cao chất lượng hoạt động đầu tư của công ty.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết câu chuyên đề gồm 3 chương:
*ChươngI: Lí luận chung về đầu tư, đầu tư phát triển và sự cần thiết
phải đầu tư trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
*ChươngII: Thực trạng hoạt động đầu tư nâng cao năng lực sản xuất
kinh doanh của công ty CP tư vấn xây dựng Sông Đà.
*ChươngIII: Mục tiêu và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt
động đầu tư tại công ty CP tư vấn xây dựng Sông Đà.
Do trình độ nhận thức còn có hạn, thời gian thực tập tại công ty
không nhiều, những thiếu sót xuất hiện trong chuyên đề này là điều
không tránh khỏi. Vì vậy, em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy
cô cùng các cô, chú và các anh, chị trong công ty để chuyên đề này được
hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 7 tháng 5 năm 2005.
Sinh viên thực hiện
Hoàng Tuấn Khanh
Chuyªn ®Ò thùc tËp Hoµng TuÊn Khanh-§T43A
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ, ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VÀ
SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẦU TƯ TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT
KINH DOANH
I- Đầu tư và đầu tư phát triển :
1. Đầu tư:
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để tiến hành
các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định
trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả
đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả
lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh
chịu khi tiến hành đầu tư.
Các nguồn lực phải hy sinh cho hoạt động đầu tư có thể là tiền , tài
nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ của con người.
Những kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính
(tiền vốn), tài sản vật chất( nhà xưởng, đường xá, bệnh viện, trường
học…), tài sản trí tuệ( trình độ văn hoá, chuyên môn, quản lí, khoa học kĩ
thuật...) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao
động cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Trong những kết quả đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của
sự hy sinh các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm
có vai trò quan trọng trong mọi lúc mọi nơi, không chỉ với người bỏ vốn
mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ người
đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội được thụ hưởng. Chẳng hạn một nhà máy
được xây dựng, tài sản vật chất của người đầu tư trực tiếp tăng thêm,
đồng thời tài sản vật chất, tiềm lực sản xuất của nền kinh tế cũng được
tăng thêm.
Lợi ích trực tiếp do sự hoạt động của nhà máy này đem lại cho
người đầu tư là lợi nhuận còn cho nền kinh tế là thoả mãn nhu cầu tiêu
Chuyªn ®Ò thùc tËp Hoµng TuÊn Khanh-§T43A
dùng (cho sản xuất và cho sinh hoạt) tăng thêm của nền kinh tế, đóng góp
cho ngân sách , giải quyết việc làm cho lao động....
Trình độ nghề nghiệp, chuyên môn của người lao động tăng thêm
không chỉ có lợi cho chính họ (trong việc có thu nhập cao và địa vị cao
trong xã hội) mà còn bổ sung nguồn lực có kĩ thuật cho nền kinh tế để có
thể tiếp nhận công nghệ ngày càng hiện đại, góp phần nâng cao trình độ
công nghệ và kĩ thuật của nền sản xuất quốc gia.
Loại đầu tư đem lại các kết quả không chỉ cho người đầu tư mà cả
nền kinh tế xã hội được hưởng thụ trên đây, không chỉ trực tiếp làm tăng
tài sản của người chủ đầu tư mà cả của nền kinh tế xã hội chính là đầu tư
phát triển. Ngoài ra, còn có các loại hình đầu tư khác mà chỉ làm tăng tài
sản, lợi ích của cá nhân người đầu tư và không làm tăng tài sản và lợi ích
cho toàn bộ nền kinh tế, đó chính là đầu tư tài chính và đầu tư thương
mại. Tuy nhiên, do đặc điểm của đầu tư phát triển nên đây cũng là loại
đầu tư quyết định trực tiếp sự phát triển của xã hội, là chìa khoá của sự
tăng trưởng, là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát
triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ.
2. Đầu tư phát triển:
Đầu tư phát triển chính là một phạm trù hẹp của đầu tư chỉ những
hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế
xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để
đạt được các kết quả đó. Nghĩa là, người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành
các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực
sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu
để tạo việc làm nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó
chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ
tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt chúng trên bệ và bồi dưỡng đào tạo
nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt
động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở
đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. Xét trong phạm
Chuyªn ®Ò thùc tËp Hoµng TuÊn Khanh-§T43A
vi quốc gia thì đó là những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để
trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ,
hoặc duy trì sự hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có.
Trên giác độ tài chính thì đầu tư phát triển chính là quá trình chi
tiêu để duy trì sự phát huy tác dụng của vốn cơ bản hiện có và bổ sung
vốn cơ bản mới cho nền kinh tế, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng và phát
triển xã hội trong dài hạn.
II- Phân loại và tác động của các hoạt động đầu tư phát triển trong
sản xuất kinh doanh:
Có nhiều cách phân loại hoạt động đầu tư tuỳ theo bản chất , phạm
vi lợi ích do hoạt động đầu tư đem lại, tuỳ theo thời hạn đầu tư, phương
thức đầu tư.
1. Theo bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có thể
phân biệt đầu tư thành các dạng sau:
1.1. Đầu tư tài chính:
Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền cho vay hoặc mua các
chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước ( gửi tiết kiệm, mua trái
phiếu Chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của công ty phát hành( mua cổ phiếu hoặc trái phiếu công ty).
Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế quốc
dân( nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm
tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư (đánh bạc, đánh
đề...cũng là một hình thức đầu tư tài chính nhưng không được pháp luật
cho phép do gây nên các tệ nạn xã hội). Với sự hoạt động của hình thức
đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có
thể rút ra một cách nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển nhượng trái phiếu,
cổ phiếu cho người khác). Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra để
đầu tư. Để giảm độ rủi ro, họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi một ít
tiền. Đây là nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
1.2. Đầu tư thương mại:
Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và
sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua
Chuyªn ®Ò thùc tËp Hoµng TuÊn Khanh-§T43A
và khi bán. Loại hình đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền
kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản của
người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu
hàng hoá giữa người bán và người đầu tư và người đầu tư với khách hàng
của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu
thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư
phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản
xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung(
Chúng ta cần lưu ý là đầu cơ trong kinh doanh cũng thuộc đầu tư thương
mại xét về bản chất, nhưng bị pháp luật cấm vì gây ra tình trạng thừa
thiếu hàng hoá một cách giả tạo, gây khó khăn cho việc quản lí lưu thông
phân phối, gây mất ổn định cho sản xuất, làm tăng chi phí của người tiêu
dùng).
1.3. Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động:
Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các
hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản
xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để
tạo ra việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó là
việc bỏ tiền ra xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua
sắm trang thiết bị, lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn
nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động
của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang
tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. Loại đầu tư này được
gọi chung là đầu tư phát triển.
Trên giác độ tài chính thì đầu tư phát triển là quá trình chi tiêu để
duy trì sự phát huy tác dụng của vốn cơ bản hiện có và bổ sung vốn cơ
bản mới cho nền kinh tế, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế xã hội trong dài hạn.
2. Theo thời hạn đầu tư, hoạt động đầu tư phát triển được phân
thành các loại sau:
2.1. Đầu tư dài hạn:
Chuyªn ®Ò thùc tËp Hoµng TuÊn Khanh-§T43A
Là kế hoạch đầu tư mang tính chất lâu dài, định hướng sự phát
triển của công ty, thường kế hoạch đầu tư dài hạn có thời gian đầu tư từ
10 năm trở nên và có quy mô thường to lớn. Do có thời hạn đầu tư dài và
mang ý nghĩa định hướng lâu dài trong chiến lược phát triển của doanh
nghiệp nên đầu tư dài hạn có khối lượng tài sản số lượng lao động huy
động là rất lớn.
Đầu tư dài hạn là hoạt động chủ yếu nhằm xây dựng cơ sở vật chất
lâu dài cho nền kinh tế, cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Đồng thời
dựa trên các mục tiêu kế hoạch của đầu tư dài hạn, doanh nghiệp, nền
kinh tế sẽ đào tạo xây dựng được một đội ngũ cán bộ công nhân viên kĩ
thuật, cán bộ quản lí có trình độ cao hơn. Thông qua các kế hoạch dài
hạn, doanh nghiệp sẽ có chiến lược mở rộng thị trường, xây dựng thương
hiệu cho mình. Kế hoạch đầu tư dài hạn đòi hỏi những người lập kế
hoạch đầu tư dài hạn của công ty phải rất cẩn thận và có tầm nhìn chiến
lược thật tốt nếu không sẽ làm cho kế hoạch đầu tư không được thành
công và kéo theo là sự sụp đổ của doanh nghiệp hoặc làm cho doanh
nghiệp không thể phát triển được. Do thời hạn của đầu tư dài hạn là rất
dài so với sự thay đổi của tình hình phát triển của nền kinh tế thị trường
nên bên cạnh các kế hoạch đầu tư dài hạn có tính chất định hướng, doanh
nghiệp còn luôn luôn phải đề ra những kế hoạch ngắn hạn nhằm từng
bước hiện thực hoá kế hoạch đầu tư dài hạn, tránh sự phát triển lệch lạc
và bám sát hơn với sự phát triển của nền kinh tế.
2.2. Đầu tư ngắn hạn:
Là kế hoạch đầu tư có thời gian đầu tư ngắn, thường là dưới 10
năm. Đầu tư ngắn hạn có tác dụng tạo lực đẩy cho sự phát triển của công
ty tuỳ theo mỗi thời kì ngắn. Là cách mà doanh nghiệp có thể bổ trợ, củng
cố kế hoạch dài hạn. Thông qua đầu tư ngắn hạn, doanh nghiệp sẽ có đối
sách tốt hơn, phản ứng nhanh nhạy hơn với sự biến động của thị trường.
Đầu tư ngắn hạn của doanh nghiệp sẽ sớm thu hồi vốn và lợi nhuận hơn
Chuyªn ®Ò thùc tËp Hoµng TuÊn Khanh-§T43A
so với đầu tư dài hạn. Đầu tư ngắn hạn không yêu cầu phải huy động một
khối lượng vốn đầu tư lớn và một số lượng nhân lực nhiều nhưng đòi hỏi
những nhà quản lí của doanh nghiệp phải có một cái nhìn, một phản ứng
nhanh nhạy đối với thị trường trong mỗi sự biến động của thị trường.
Đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn bổ sung những khuyết điểm của
nhau và tạo cho sự phát triển thông thoáng nhanh nhạy của doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường đầy biến động. Các kế hoạch đầu tư tạo cho
doanh nghiệp hoạt động một cách trơn tru và phản ứng tốt với biến động
của thị trường.
III- Vai trò của hoạt động đầu tư :
Từ việc xem xét bản chất của đầu tư phát triển, các lí thuyêt kinh
tế, cả lí thuyết kinh tế kế hoạch hoá tập trung và lí thuyết kinh tế thị
trường đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh
tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng.
1. Tác động của đầu tư phát triển trên giác độ toàn bộ nền kinh tế
của đất nước :
Đối với một nền kinh tế, hoạt động đầu tư có một ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, nó không chỉ đóng vai trò trong quá trình tái sản xuất của xã
hội mà còn tạo ra những cú hích cho sự phát triển của nền kinh tế ở
những nước đang phát triển thoát khỏi vòng luẩn quẩn của nợ nần và
nghèo đói, tạo ra sự phát triển của các nền kinh tế phát triển.
a.Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu:
- Về mặt cầu:
Đầu tư là một yếu tố chiếm tỉ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ
nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm
khoảng 24% -28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới.
Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa
kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường D dịch
chuyển sang D’) kéo sản lượng cân bằng tăng theo từ Q0 -Q1 và giá cả của
Chuyªn ®Ò thùc tËp Hoµng TuÊn Khanh-§T43A
các đầu vào của đầu tư tăng từ P0-P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ E0-
E1.
-Về mặt cung:
Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi
vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên(
đường S dịch chuyển sang S’), kéo theo sản lượng tiềm năng tăng từ Q0-
Q1 và do đó giá cả sản phẩm giảm từ P0-P1. Sản lượng tăng, giá cả giảm
cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích
thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng
tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng
cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
b. Đầu tư tác động đến sự ổn định của nền kinh tế theo 2 mặt:
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với
tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi
của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự
ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm
cho giá của các hàng hoá có liên quan tăng( giá chi phí vốn, giá công
nghệ, lao động, vật tư) đến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm
phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của
Chuyªn ®Ò thùc tËp Hoµng TuÊn Khanh-§T43A
người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn,
thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư
làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các nghành
này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng
cao đời sống của người lâo động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động
này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.
Khi giảm đầu tư( như Việt Nam thời kì 1982-1989) cũng dẫn đến
tác động 2 mặt, nhưng theo chiều hướng ngược láio với tác động trên đây.
Vì vậy, trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạch định chính sách
cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế
các tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của
toàn bộ nền kinh tế.
c. Đầu tư tác động đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế:
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con dường tất yếu
có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn ( từ 9-10% ) là tăng trưởng
đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối
với các nghành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các
khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là rất khó
khăn. Như vậy, chính đầu tư quyết định quá trình dịch chuyển cơ cấu
kinh tế ở các nước nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ
nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân
đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kếm phát triển
thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về
tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... những vùng có khả năng phát triển
nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
d. Đầu tư làm tăng khả năng khoa học và công nghệ của đất nước :
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá, đầu tư là điều kiện
tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước
Chuyªn ®Ò thùc tËp Hoµng TuÊn Khanh-§T43A
ta hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công
nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo
UNIDO, nếu chia quá trình phát triển công nghệ thế giới thành 7 giai
đoạnthì Việt Nam đang là một trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với
trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá của Việt Nam
sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư
phát triển công nghệ nhanh và vững chắc.
Chúng ta đều biết rằng có 2 con đường cơ bản để có công nghệ là
tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài.
Dù là sự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần phải có tiền, cần
phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với
nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi.
f. Đầu tư tác động đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế:
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: Muốn giữ tốc độ
tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải