Cạnh tranh xuất hiện cùng với nền kinh tế thị trường và nó như một tất yếu khách quan không thể xóa bỏ. Đồng thời, cạnh tranh cũng là một điều kiện thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển. Đối với các doanh nghiệp, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Đối với người tiêu dùng, nhờ có cạnh tranh mà họ được thỏa mãn được nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ: chất lượng sản phẩm ngày càng cao với một mức giá ngày càng phù hợp. Đối với nền kinh tế quốc dân, cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển bình đẳng của mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện để phát huy lực lượng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại hoá nền sản xuất xã hội, đó cũng là điều kiện để xoá bỏ độc quyền bất hợp lý, xoá bỏ bất bình đẳng trong kinh doanh, phát huy tính tháo vát và năng động, óc sáng tạo của các doanh nghiệp, gợi mở nhu cầu thông qua việc tạo ra nhiều sản phẩm mới, nâng cao chất lượng đời sống xã hội.
Ở nước ta trong thời kỳ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, cạnh tranh hầu như không tồn tại. Mọi quan hệ kinh tế trong giai đoạn này đều do Nhà nước chi phối, độc quyền quyết định, các doanh nghiệp không có môi trường cạnh tranh để phát triển và tồn tại một cách bị động phụ thuộc hoàn cảnh vào nhà Nhà nước. Chính vì vậy, nền kinh tế luôn bị kìm hãm và không thể phát triển.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt nam đang tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước và người ta bắt đầu đề cập nhiều đêná vấn đề cạnh tranh. Thực tế cho thấy rằng năng lực cạnh tranh của hầu hết các hàng hoá Việt nam trên thị trường trong nước cũng như nước ngoài còn rất yếu kém. Vấn đề càng trở nên bức xúc khi sản phẩm lực cạnh tranh do quá trình tự do hoá thương mại, trước hết là thời hạn có hiệu lực của CEPT trong khuôn khổ AFTA cứ mỗi lúc một gần. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt nam lại tỏ ra chưa sẵn sàng đối mặt với những thách thứ từ cuộc cạnh tranh gay gắt ấy. Nếu tình này vẫn tiếp tục được duy trì thì nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế Việt nam sẽ rất nghiêm trọng, nhất là trong bối cảnh xu thế hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới đang gia tăng. Do vậy, để tồn tại, đứng vững và phát triển, khẳng định được của mình các doanh nghiệp phải tìm giải pháp tốt nhất để tăng cường năng lực cạnh tranh của mình trên cả thị trường trong và ngoài nước. Vấn đề là phải làm gì và làm như thế nào để phát huy được lợi thế cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của cả đất nước, tận dụng có hiệu quả những cơ hội có được, nhất là Việt nam đã trở thành thành viên của ASEAN, APEC và không lâu nữa sẽ gia nhập AFTA, WTO.
Trước tình hình trên, Công ty xây dựng số 7 luôn đặt ra cho mình mục tiêu là phải nâng cao đựơc năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường. Trong những năm gần đây, công ty đã có quyết định đúng đắn là phải tiếp tục đổi mới công nghệ, đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm để có thể duy trì và phát triển uy tín của mình trên thị trường.
Nhằm vận dụng những kiến thức đã tìm hiểu được trong thời gian qua và góp một vài ý kiến trong quá trình đâu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Cụng ty Cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội , em đã lựa chọn đề tài: “Đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội”.
61 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1667 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần kinh doanh phát triển nhà và đô thị Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Cạnh tranh xuất hiện cùng với nền kinh tế thị trường và nó như một tất yếu khách quan không thể xóa bỏ. Đồng thời, cạnh tranh cũng là một điều kiện thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển. Đối với các doanh nghiệp, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Đối với người tiêu dùng, nhờ có cạnh tranh mà họ được thỏa mãn được nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ: chất lượng sản phẩm ngày càng cao với một mức giá ngày càng phù hợp. Đối với nền kinh tế quốc dân, cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển bình đẳng của mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện để phát huy lực lượng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại hoá nền sản xuất xã hội, đó cũng là điều kiện để xoá bỏ độc quyền bất hợp lý, xoá bỏ bất bình đẳng trong kinh doanh, phát huy tính tháo vát và năng động, óc sáng tạo của các doanh nghiệp, gợi mở nhu cầu thông qua việc tạo ra nhiều sản phẩm mới, nâng cao chất lượng đời sống xã hội.
Ở nước ta trong thời kỳ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, cạnh tranh hầu như không tồn tại. Mọi quan hệ kinh tế trong giai đoạn này đều do Nhà nước chi phối, độc quyền quyết định, các doanh nghiệp không có môi trường cạnh tranh để phát triển và tồn tại một cách bị động phụ thuộc hoàn cảnh vào nhà Nhà nước. Chính vì vậy, nền kinh tế luôn bị kìm hãm và không thể phát triển.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt nam đang tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước và người ta bắt đầu đề cập nhiều đêná vấn đề cạnh tranh. Thực tế cho thấy rằng năng lực cạnh tranh của hầu hết các hàng hoá Việt nam trên thị trường trong nước cũng như nước ngoài còn rất yếu kém. Vấn đề càng trở nên bức xúc khi sản phẩm lực cạnh tranh do quá trình tự do hoá thương mại, trước hết là thời hạn có hiệu lực của CEPT trong khuôn khổ AFTA cứ mỗi lúc một gần. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt nam lại tỏ ra chưa sẵn sàng đối mặt với những thách thứ từ cuộc cạnh tranh gay gắt ấy. Nếu tình này vẫn tiếp tục được duy trì thì nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế Việt nam sẽ rất nghiêm trọng, nhất là trong bối cảnh xu thế hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới đang gia tăng. Do vậy, để tồn tại, đứng vững và phát triển, khẳng định được của mình các doanh nghiệp phải tìm giải pháp tốt nhất để tăng cường năng lực cạnh tranh của mình trên cả thị trường trong và ngoài nước. Vấn đề là phải làm gì và làm như thế nào để phát huy được lợi thế cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của cả đất nước, tận dụng có hiệu quả những cơ hội có được, nhất là Việt nam đã trở thành thành viên của ASEAN, APEC và không lâu nữa sẽ gia nhập AFTA, WTO.
Trước tình hình trên, Công ty xây dựng số 7 luôn đặt ra cho mình mục tiêu là phải nâng cao đựơc năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường. Trong những năm gần đây, công ty đã có quyết định đúng đắn là phải tiếp tục đổi mới công nghệ, đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm để có thể duy trì và phát triển uy tín của mình trên thị trường.
Nhằm vận dụng những kiến thức đã tìm hiểu được trong thời gian qua và góp một vài ý kiến trong quá trình đâu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Cụng ty Cổ phần kinh doanh phỏt triển nhà và đụ thị Hà Nội , em đã lựa chọn đề tài: “Đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần kinh doanh phỏt triển nhà và đụ thị Hà Nội”.
Vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh là vấn đề phức tạp nên chuyên đề này chỉ tập trung nghiên cứu một số chỉ tiêu, thực trạng, các vấn đề tồn tại, khó khăn và đưa ra giải pháp về đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần kinh doanh phỏt triển nhà và đụ thị Hà Nội.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của chuyên đề thực tập tốt nghiệp:
Chương I: Lý luận chung về đầu tư nâng cao năng lực canh tranh tại doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng về năng lực cạnh và tình hình đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty .
Chương III: Một số giải pháp chủ yếu để đầu tư nâng cao được năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần kinh doanh phỏt triển nhà và đụ thị Hà Nội
Chương I
Lý luận chung về đầu tư nâng cao năng lực
cạnh tranh tại doanh nghiệp
I. Một số vấn đề chung về đầu tư
1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư phát triển
Xuất phát từ phạm trù phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chúng ta có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư.
Đầu tư là việc bỏ ra một lượng vốn ban đầu và thu được một số lượng lớn hơn trong tương lai.
Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các họat động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn nguồn lực đã bỏ qua để đạt được các kết quả đó.
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá, các của cải vật chất khác), tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kỹ thuật) và nguồn nhân lực có điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Trong kết quả đã đạt được như trên đây, những kết quả là những tài sản vật chất, trí tuệ.
Trong các kết quả đã đạt được như trên đây, những kết quả là các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó.
Như vậy, nếu xem xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực sẵn có thuộc phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp hay đầu tư phát triển. Đối với một quốc gia, hay một nền kinh tế thì hoạt động đầy tư phát triển luôn đóng một vai trò quyết định trong sự đi lên phát triển hay hưng thịnh của chính quốc gia đó. Có thể hiểu đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với các hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Với những tác dụng to lớn trên, chúng ta nhận thấy rằng chỉ có đầu tư phát triển mới làm cho nền kinh tế tăng trưởng, phát triển theo mục tiêu ta lựa chọn.
2. Những đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển.
Hoạt động đầu tư phát triển có các điểm khác biệt với các loại hình đầu tư khác là:
Đầu tư phát triển đòi hỏi một lượng vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn cho đầu tư phát triển.
Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra.
Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật, phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế...
Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài trong nhiều năm, có khi hàng trăm năm, thậm chí tồn tại vĩnh viễn.
Vị trí của các công trình xây dựng là cố định, các công trình này sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó, các điều kiện về địa hình có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác động sau này của kết quả đầu tư.
Ngoài ra, các yếu tố rủi ro đầu tư luôn luôn rình rập. Nếu người đầy tư, người quản lý không đánh giá đúng hay nhận dạng đủ các nhân tố rủi ro có thể xảy ra và có kế hoạch quản lý phòng ngừa thì rất dễ gây ra sự đổ vỡ cho dự án.
3. Vai trò của đầu tư phát triển
3.1. Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước
3.1.1. Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu
Về mặt cầu: đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24 - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng, kéo theo mức sản lượng cân bằng tăng và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng.
Về mặt cung: khi thành quả cảu đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng và do đó giá cả giảm. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
3.1.2. Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng lên làm cho giá của hàng hoá có liên quan tăng đến mức một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm nhiều lao động, giản tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống của người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.
Khi giảm đầu tư cũng dẫn đến tác động hai mặt, nhưng theo chiều hướng ngược lại so với các tác động trên đây. Vì vậy, trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
3.1.3. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức độ trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15 - 25% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước.
Từ đó suy ra:
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5 - 7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá trị cao. Còn ở các nước chậm phát triển, ICOR thấp từ 2 - 3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ.
3.1.4. Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn (từ 9 - 10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5 - 6% là rất khó khăn. Như vây, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị, ... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
3.1.5. Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá, Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay.
Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO, nếu chia quá trình phát triển công nghệ thế giới làm 7 giai đoạn thì Việt nam năm 1990 ở vào giai đoạn 1 và 2. Việt nam đang là một trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc.
Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi.
3.2. Đối với cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ
Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở.
Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiếu bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất - kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ đang tồn tại: sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất - kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất - kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học - kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư.
Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động không để thu lợi nhuận cho bản thân mình) đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư.
4. Đầu tư xây dựng cơ bản
4.1. Khái niệm
Đầu tư xây dựng cơ bản trong nền kinh tế quốc dân là một bộ phận của đầu tư phát triển. Đây là quá trình bỏ vốn để tiến hành các hoạt động xây dựng cơ bản nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng ra các tài sản cố định trong nền kinh tế. Do vậy đầu tư xây dựng cơ bản là tiền đề quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của nền kinh tế nói chung và của các cơ sở sản xuất kinh doanh nói riêng. Đầu tư xây dựng là hoạt động chủ yếu tạo ra tài sản cố định đưa vào hoạt động trong lĩnh vực kinh tế xã hội, nhằm thu được lợi ích dưới nhiều hình thức khác nhau. Đầu tư xây dựng cơ bản trong nền kinh tế quốc dân được thông qua nhiều hình thức như xây dựng mới, cải tạo, mở rộng, hiện đại hoá hay khôi phục tài sản cố định cho nền kinh tế.
4.2. Vai trò của đầu tư xây dựng cơ bản
Để đảm bảo cho nền kinh tế xã hội không ngừng phát triển, điều kiện trước tiên và cần thiết là phải đầu tư xây dựng cơ bản. Trong một nền kinh tế xã hội, đối với bất kỳ một phương thức sản phẩm nào cũng đều phải có cơ sở vật chất, kỹ thuật tương ứng. Việc đảm bảo tính tương ứng đó là nhiệm vụ của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản.
Đầu tư xây dựng cơ bản là điều kiện cần thiết để phát triển tất cả các ngành kinh tế quốc dân và thay đổi tỷ lệ cân đối giữa chúng. Những năm qua, ở nước ta do tăng cường đầu tư xây dựng cơ bản mà cơ cấu kinh tế đã có những biến đổi quan trọng. Cũng với việc phát triển các ngành kinh tế mới đã bắt đầu xuất hiện như bưu điện, hàng không ... Nhiều khu công nghiệp, nhiều vùng kinh tế mới đã và đang được hình thành.
Mặt khác, đầu tư xây dựng cơ bản là tiền đề cho việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho các cơ sở sản xuất dịch vụ, từ đó nâng cao năng lực sản xuất cho từng nhành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tạo điều kiện phát triển sản xuất xã hội, tăng nhanh giá trị sản xuất và giá trị tổng sản phẩm trong nước, tăng tích luỹ, đồng thời nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cơ bản về chính trị, xã hội....
II. Doanh nghiệp - doanh nghiệp ngành xây dựng
1. Khái niệm chung về doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập để thực hiện các hoạt động kinh doanh, thực hiện chức năng sản xuất, mua bán hàng hoá, dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu của con người, xã hội, và kiếm lợi nhuận thông qua các hoạt động hữu ích đó.
Theo Điều 3 Luật Doanh nghiệp do Quốc hội thông qua ngày 12/6/1999, "Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh". Theo khái niệm này, trừ loại hình kinh doanh cá thể, các tổ chức kinh tế đảm bảo các điều kiện về tài sản, tên riêng, trụ sở giao dịch và có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đều được gọi là doanh nghiệp.
Có nhiều cách phân loại doanh nghiệp, nhưng cách phân loại thường được sử dụng nhiều nhất và có vai trò quan trọng nhất trong việc nghiên cứu hoạt động của doanh nghiệp là phân loại theo hình thức sở hữu. Theo đó, doanh nghiệp được phân thành các nhóm sau:
Doanh nghiệp nhà nước.
Doanh nghiệp tư nhân.
Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
Hợp tác xã.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
2. Doanh nghiệp ngành xây dựng
Những năm trước đây, trong thời kỳ bao cấp với nền kinh tế tập trung mệnh lệnh, dịch vụ xây dựng do các doanh nghiệp của Nhà nước độc quyền cung ứng theo kế hoạch. Đến nay, mặc dù các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước vẫn còn chiếm tỷ lệ cao trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ xây dựng, nhưng cũng có khá nhiều doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân được thành lập. Đặc biệt là có sự tham gia của các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài.
2.1. Vai trò của doanh nghiệp ngành xây dựng
Các doanh nghiệp ngành xây dựng có nhiệm vụ tái sản xuất các tài sản cố định cho mọi lĩnh vực sản xuất và phi sản xuất của đất nước. Có thể nói không một ngành sản xuất nào, không một hoạt động văn hoá - xã hội nào là không sử dụng sản phẩm của ngành xây dựng.
Các công trình xây dựng của các doanh nghiệp có vai trò tăng năng lực sản xuất kinh doanh của chính doanh nghiệp mình, đồng thời tạo sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và tạo thêm chỗ làm cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho họ.
Các doanh nghiệp ngành xây dựng phải sử dụng một lượng vốn lớn, do đó một sai lầm trong xây dựng có thể dẫn đến lãng phí lớn lao rất khó sửa chữa trong nhiều năm.
Hoạt động của các doanh nghiệp ngành xây dựng đóng góp đáng kể vào giá trị tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân.
2.2. Đặc điểm và nội dung hoạt động của doanh nghiệp ngành xây dựng
Tình hình và điều kiện sản xuất trong các doanh nghiệp ngành xây dựng luôn thiếu tính ổn định, luôn biến đổi theo địa điểm xây dựng và giai đoạn xây dựng. Đặc điểm này đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng phải chú ý tăng cường tính cơ động, linh hoạt, gọn nhẹ về mặt trang bị tài sản cố định sản xuất, lựa chọn các hình thức tổ chức sản xuất linh hoạt, phấn đấu giảm chi phí có liên quan đến vận chuyển, lựa chọn vùng hoạt động thích hợp, lợi dụng tối đa lực lượng xây dựng tại chỗ và liên kết tại chỗ để có thể trúng thầu xây dựng.
Thời gian xây dựng các công trình thường dài. Đặc điểm này làm cho vốn đầu tư xây dựng công trình và vốn sản xuất của doanh nghiệp xây dựng thường bị ứ đọng lâu tại công trình đang còn xây dựng, các doanh nghiệp xây dựng dễ gặp phải các rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian, công trình xây dựng xong dễ bị hao mòn vô hình.
Quá trình sản xuất xây dựng rất phức tạp, có những thời điểm đòi hỏi một số