Đầu tư tài chính

Cùng với việc nền kinh tế đang bước vào giai đoạn phục hồi sau cuộc suy thoái kinh tế thế giới 2008 cách đây 5 năm, các thị trường chứng khoán trên thế giới trong đó có thị trường chứng khoán Việt Nam đang dần phục hồi và có tín hiệu khả quan. Với chức năng như là “phong vũ biểu” của nền kinh tế, thị trường chứng khoán Việt Nam đang có những bước chuyển biến tích cực và hứa hẹn mang lại nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư. Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời là nguồn huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế. Đồng thời cung cấp môi trường đầu tư hấp dẫn, đem lại lợi nhuận cao đối với các nhà đầu tư. Bên cạnh đó cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, không chỉ rủi ro của doanh nghiệp mà còn rủi ro của toàn bộ thị trường. Vậy nên khi đầu tư vào thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư phải xem xét cẩn thận trong việc lựa chọn danh mục đầu tư, phân bổ vốn thích hợp, quản lý danh mục để đạt được mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận. Trước sự không ổn định của các biến số kinh tế vĩ mô cũng như nguồn cung quá lớn từ những đợt phát hành thêm hoặc niêm yết mới cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam, giá cổ phiếu của hầu hết các ngành đều bị tác động không tích cực ở các mức độ khác nhau. Những ngành nhiều khả năng sẽ được hưởng lợi từ sự ổn định của nhu cầu tại thị trường trong nước và thế giới đó là Sản xuất săm lốp, Dược phẩm, Thực phẩm và đồ uống, Khoáng sản cơ bản, Mía đường, Bảo hiểm phi nhân thọ, Bất động sản cao cấp và Cảng biển. Sau khi nghiên cứu nền kinh tế, phân tích ngành, phân tích doanh nghiệp, kết hợp với quan điểm đầu tư trong thời gian trung và dài hạn, chúng tôi đã lựa chọn được 2 chứng khoán là DHG, DRC và tiến hành phân bổ vốn hợp lý để tạo ra danh mục đầu tư hiệu quả.

doc47 trang | Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 1828 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đầu tư tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG BÀI TẬP NHÓM MÔN: ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH GVHD: PGS.TS Võ Thị Thúy Anh Lớp học phần: DTTCH_2 SVTH: Nhóm 8 Phan Văn Phước 35K14 Nguyễn Thanh Phương Tuấn 35K14 Nguyễn Thanh Vân Trịnh Thị Thủy 36K06.1 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Cùng với việc nền kinh tế đang bước vào giai đoạn phục hồi sau cuộc suy thoái kinh tế thế giới 2008 cách đây 5 năm, các thị trường chứng khoán trên thế giới trong đó có thị trường chứng khoán Việt Nam đang dần phục hồi và có tín hiệu khả quan. Với chức năng như là “phong vũ biểu” của nền kinh tế, thị trường chứng khoán Việt Nam đang có những bước chuyển biến tích cực và hứa hẹn mang lại nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư. Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời là nguồn huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế. Đồng thời cung cấp môi trường đầu tư hấp dẫn, đem lại lợi nhuận cao đối với các nhà đầu tư. Bên cạnh đó cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, không chỉ rủi ro của doanh nghiệp mà còn rủi ro của toàn bộ thị trường. Vậy nên khi đầu tư vào thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư phải xem xét cẩn thận trong việc lựa chọn danh mục đầu tư, phân bổ vốn thích hợp, quản lý danh mục để đạt được mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận. Trước sự không ổn định của các biến số kinh tế vĩ mô cũng như nguồn cung quá lớn từ những đợt phát hành thêm hoặc niêm yết mới cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam, giá cổ phiếu của hầu hết các ngành đều bị tác động không tích cực ở các mức độ khác nhau. Những ngành nhiều khả năng sẽ được hưởng lợi từ sự ổn định của nhu cầu tại thị trường trong nước và thế giới đó là Sản xuất săm lốp, Dược phẩm, Thực phẩm và đồ uống, Khoáng sản cơ bản, Mía đường, Bảo hiểm phi nhân thọ, Bất động sản cao cấp và Cảng biển. Sau khi nghiên cứu nền kinh tế, phân tích ngành, phân tích doanh nghiệp, kết hợp với quan điểm đầu tư trong thời gian trung và dài hạn, chúng tôi đã lựa chọn được 2 chứng khoán là DHG, DRC và tiến hành phân bổ vốn hợp lý để tạo ra danh mục đầu tư hiệu quả. PHẦN 1: PHÂN TÍCH VĨ MÔ Tình hình vĩ mô kinh tế thế giới Tổng quan nền kinh tế Kinh tế Kinh tế thế giới 6 tháng đầu năm 2013 tiếp tục xu hướng hồi phục, tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế giữa các nhóm nước không đồng đều, một số nền kinh tế chủ chốt tăng trưởng thấp hơn dự kiến. Thương mại quốc tế gặp khó khăn do tác động của các biện pháp bảo hộ thương mại, gây hiệu ứng không thuận lợi đối với nhiều nền kinh tế đang phát triển. Các nước tiếp tục chú trọng điều chỉnh chính  sách kinh tế, bao gồm nới lỏng chính sách tiền tệ và thúc đẩy các thỏa thuận thương mại tự do. Tăng trưởng kinh tế Bảng1.1: Tổng kết tốc độ tăng trưởng sản lượng của thế giới (%) Nước 2009 2010 2011 2012 2013E Thế giới -0,6 5,3 3,9 3,3 4,1 Các nước phát triển –3,6 3,2 1,6 1,4 2,0 Mỹ -3,5 3,0 1,7 1,5 2,4 Châu Âu -4,3 1,9 1,4 -0,3 0,4 Nhật -5,5 4,4 -0,7 2,2 1,7 Những nước phát triển khác -2,2 4,5 2,5 2,1 1,0 Các nước mới nổi và đang phát triển 2,8 7,5 6,2 5,4 5,6 Nguồn báo cáo phân tích của NH sacombank, IMF, các tổ chức TC khu vực, báo cáo quốc gia. Qua bảng số liệu có thể nhận thấy tốc độ tăng trưởng của một số nền kinh tế chủ lực của thế giới có sự biến động giảm trong giai đoạn 2010-2012. Nguyên nhân của sự sụt giảm này là do ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng nợ công và bước đầu lâm vào suy thoái kinh tế. Cuối năm 2012 đến đầu 2013, nền kinh tế thế giới đã có dấu hiệu khôi phục trở lại. Lạm phát Bảng 1.2: Tổng kết lạm phát thế giới (%) . ( xem phụ lục 2) Lạm phát đang trở thành mối lo hàng đầu của tất cả các quốc gia. Trong những năm vừa qua mức lạm phát đã giảm và kinh tế vĩ mô giữ được ở mức khá ổn định trong tầm ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu xét về trung và dài hạn thì kinh tế vĩ mô vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn, khó lường. Thất nghiệp Bảng 1.3 Chỉ tiêu thất nghiệp của một số quốc gia trên thế giới ( xem phụ lục 3) Trong những năm gần đây, Trung quốc và Nhật Bản được đánh giá là những nước có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất thế giới (dưới 5%). Châu Âu và Mỹ còn ở mức cao tương đối. Nhưng nhìn chung ở các quốc gia này – là những quốc gia đứng đầu thế giới về mọi mặt nhưng tình trạng thất nghiệp vẫn diễn ra ở mức cao. Nợ công Bảng 1.4 Tình hình nợ công ở các quốc gia trên thế giới. (xem phụ lục 4) Trong giai đoạn 2010-2012 có thể thấy rằng tình hình nợ trên toàn thế giới có chiều hướng tăng. Nợ công của nhiều quốc gia đã vượt quá cao so với ngưỡng an toàn. Những diến biến chính Các nền kinh tế phát triển tăng trưởng không đồng đều.           Trong năm 2013, kinh tế Hoa Kỳ tăng trưởng 2,4% trong quý I nhờ các biện pháp thúc đẩy kinh tế của chính quyền Obama. Tuy mức tăng trưởng quý II được dự báo sẽ giảm xuống còn 1,9 – 2,0%, kinh tế Hoa Kỳ gần đây vẫn có một số dấu hiệu lạc quan về việc làm, thị trường bất động sản, chứng khoán, niềm tin đầu tư và tiêu dùng. Kinh tế Nhật Bản tăng trưởng 4,1% trong quý I vượt xa các nước công nghiệp khác, nhờ vào chính sách kích thích kinh tế qui mô lớn của Thủ tướng Abe.             Trái với tình hình kinh tế Hoa Kỳ và Nhật Bản, kinh tế EU tiếp tục tăng trưởng âm 0,2% trong quý I, đánh dấu đợt suy thoái dài nhất trong lịch sử của khu vực này. Tuy nhiên, kinh tế EU bước đầu cho thấy dấu hiệu cải thiện với việc chỉ số lòng tin tiêu dùng và kinh doanh của 27 nước EU tăng 1,1 điểm lên 90,8 điểm trong tháng 5/2013 sau khi sụt giảm mạnh trong tháng 4/2013. Các nền kinh tế đang nổi tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao mặc dù thấp hơn so với kỳ vọng.           Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 7,7% trong quý I, giảm so với mức 7,9% trong quý IV/2012. Một số nền kinh tế đang nổi qui mô lớn trong nhóm BRICS cũng giảm tốc độ tăng trưởng như Nga, Brasil Trong khi đó, các nước ASEAN như Thái Lan, Philippines, Malaysia, Indonesia, Lào, Campuchia cơ bản tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng của năm 2012 chủ yếu nhờ sự gia tăng tiêu dùng nội địa. Thương mại quốc tế tăng trưởng chậm.           Thương mại toàn cầu chỉ tăng trưởng 0,7% trong quý I, bằng mức tăng của quý IV/2012. Nét mới trong thương mại 6 tháng đầu năm 2013 là thương mại tại các nước phát triển có xu hướng được cải thiện, trong khi thương mại của các nền kinh tế mới nổi phần nào giảm sút. FDI chưa hồi phục mạnh nhưng vẫn gia tăng tại một số nước Đông Á.           FDI toàn cầu chưa có sự hồi phục mạnh mẽ do một số nền kinh tế lớn tiếp tục gặp khó khăn. Tuy nhiên, FDI vào một số nước Đông Á trong thời gian qua vẫn gia tăng như Indonesia tăng 24%, Malaysia tăng 90,6%, Trung Quốc tăng 1%...           Nguồn: Tài liệu của Vụ Tổng hợp kinh tế (Bộ Ngoại giao). Nhận xét chung: Trong giai đoạn 2010-2012 có thể thấy rằng khủng hoảng nợ công và bất ổn ở châu Âu vẫn cản trở sự tăng trưởng toàn cầu. Các nền kinh tế mới nổi tiếp tục vững vàng trước thách thức, suy thoái rất có khả năng xảy ra ở khu vực đồng Euro, thị trường chứng khoán toàn cầu sẽ có một năm rất khó khăn, dù chứng khoán châu Á vẫn là điểm sáng. Đồng Euro và USD sẽ mất giá đáng kể khi các nhà đầu tư đa dạng hóa danh mục tiền tệ. Triển vọng kinh tế thế giới năm 2014 Kinh tế toàn cầu được dự báo tăng trưởng 4,1% năm 2014. Trong báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu vừa cập nhật, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2013 chỉ đạt 3,5%, thấp hơn dự báo 3,6% đưa ra trước đó. Năm 2014, kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng khoảng 4,1%, thấp hơn 0,1% so với dự báo trước. Cũng theo IMF, kinh tế eurozone sẽ giảm 0,2% thay vì tăng trưởng 0,3% như dự báo trước đó. IMF dự báo khu vực này chỉ tăng trưởng trở lại vào năm 2014. IMF cảnh báo, eurozone vẫn tiềm ẩn rủi ro lớn đối với kinh tế toàn cầu nếu giới chức ở đây không nỗ lực cải thiện nền kinh tế và tiến tới lập liên minh ngân hàng. Trong khi đó, IMF dự báo kinh tế Mỹ sẽ tăng trưởng 2% đến 2,1% năm 2013 và 3% năm 2014. Nhật Bản tăng trưởng lần lượt 1,2% và 0,7% năm 2013, 2014. IMF giữ nguyên dự báo tăng trưởng Trung Quốc là 8,2% và 8,5%. II. Tình hình kinh tế Việt Nam Với nhiều giải pháp hỗ trợ thị trường, hạ lãi suất, giảm thuế, bức tranh kinh tế 9 tháng đã có dấu hiệu sáng dần. Tuy nhiên, tình hình vẫn được đánh giá còn nhiều khó khăn, đặc biệt là về ngân sách. 1. Phân tích tình hình vĩ mô ở VN 1.1. Tăng trưởng kinh tế 'GDP cả năm có thể đạt 5,4-5,5%' Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 9 tháng đầu năm 2013 ước tăng 5,14% so với cùng kỳ năm trước, nhỉnh hơn mức tăng 5,1% của 9 tháng đầu năm 2012. Qua từng quý, tốc độ tăng GDP cũng được cải thiện dần. Nguồn: Tổng cục thống kê Khu vực dịch vụ tiếp tục đóng góp chủ yếu chủ yếu vào mức tăng trưởng chung của nền kinh tế với mức tăng 6,25%. Trong khi khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản vốn được coi là “trụ đỡ hay đệm giảm xóc” cho nền kinh tế đang trên đà giảm tốc, 9 tháng đầu năm chỉ tăng 2,39% - thấp nhất trong 3 năm gần đây. Bảng 1.5 Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước 9 tháng 2011, 2012 và 2013 Tốc độ tăng so với cùng kỳ năm trước (%) Đóng góp vào tăng trưởng 9 tháng 2013 (điểm phần trăm) 9 tháng năm  2011 9 tháng năm  2012 9 tháng năm 2013 Tổng số 6,03 5,10 5,14 5,14 Nông, lâm và thủy sản 3,74 2,50 2,39 0,44 CN&XD 6,75 5,76 5,20 1,99 Dịch vụ 6,43 5,66 6,25 2,71 Nguồn: TCTK 1.2. Lạm phát Bảng 1.6 Tình hình lam phát Việt Nam(%) Năm 2010 2011 2012 E-2013 Tỷ lệ lạm phát (%) 11.5 18.6 6.81 8 - 10 Lạm phát tiếp tục giảm xuống mức thấp. Tổng cầu hiện vẫn còn thấp. Sang tháng 10/2013, lạm phát so với cùng kỳ giảm xuống mức thấp nhất kể từ năm 2010 (5,92%) và lạm phát cơ bản cũng trong xu hướng giảm . CPI tăng 0,49% do sự tăng lên của nhóm hàng lương thực thực phẩm và nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng. Lạm phát cả năm 2013 dự báo vẫn được kiểm soát xung quanh mức 7% nếu như có sự quản lý và điều tiết tốt việc điều chỉnh giá các mặt hàng và dịch vụ do nhà nước quản lý. Đây sẽ là thành quả nổi bật của kinh tế Việt Nam trong việc duy trì lạm phát ổn định liên tiếp 2 năm giúp ổn định kỳ vọng lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. 1.3. Cán cân thương mại Phục lục 6 : Biểu đồ chỉ số CPI năm 2013 Phụ lục 7: Biểu đồ cán cân thanh toán thương mại của Việt Nam Cán cân tổng thể của Việt Nam đã biến chuyển theo hướng tích cực: từ bị thâm hụt trong 2 năm 2009 (-8,4 tỷ USD), 2010 (-1,7 tỷ USD) sang thặng dư trong năm 2011 (2,5 tỷ USD) và tiếp tục thặng dư trong năm 2012 . Một trong những điểm sáng của bức tranh kinh tế vĩ mô 9 tháng đầu năm 2013 là cán cân thương mại được cải thiện. Từ đầu năm đến nay, nhập siêu của cả nước ước chỉ khoảng 124 triệu USD, bằng 0,1% kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn nhiều mức 7-8% do Quốc hội giao. 1.4. Thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối Tỷ giá hối đoái Ở Việt Nam, tỷ giá hối đoái không chỉ tác động đến xuất nhập khẩu, cán cân thương mại, nợ quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp, gián tiếp, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của dân chúng. Theo nhận định của UBGSTCGQ, thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái nhiều khả năng sẽ tiếp tục duy trì được sự ổn định trong những tháng cuối năm 2013 do cung và cầu ngoại hối trên thị trường trong những tháng cuối năm vẫn ổn định, dự trữ ngoại tệ tiếp tục tăng khá. Chính sách tiền tệ Năm 2011-2012 đã cho thấy một chính sách điều hành CSTT thận trọng của Chính phủ, các công cụ đã được sử dụng một cách linh hoạt hơn, cung tiền được kiểm soát chặt chẽ. Năm 2013 dù lạm phát đã được chặn đứng, lãi suất cho vay giảm nhanh và mạnh, tỷ giá ổn định, vị thế đồng tiền cũng đang được cải thiện tích cực, nhưng chính sách tiền tệ của Việt Nam vẫn đang đối mặt với những thách thức không nhỏ, trong năm nay chính sách tiền tệ của Việt Nam sẽ còn phải tập trung để xử lý vấn đề nợ xấu và giải bài toán làm sao để nền kinh tế hấp thụ được vốn. Thị trường tiền tệ trong 9 tháng đầu năm 2013 tiếp tục có những cải thiện tích cực. 1.5. Tình hình ngân sách nhà nước Thu ngân sách thấp, bội chi quá kế hoạch UBGSTCQG cho rằng khả năng cân đối NSNN theo kế hoạch đề ra sẽ tiếp tục gặp những khó khăn thách thức lớn trong những tháng cuối năm 2013. Theo số liệu thống kê, đến nay thu ngân sách mới đạt 62,5% dự toán năm. Tiến sĩ Võ Trí Thành - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương từng đánh giá "Chưa bao giờ ngân sách khó như hiện nay". Thu ngân sách thấp chủ yếu do doanh nghiệp khó khăn khiến nguồn thu thuế giảm, ngoài ra các chính sách miễn, giãn, giảm thuế cũng khiến ngân sách thất thu hàng nghìn tỷ đồng. Tính đến 15/8, bội chi ngân sách lên tới 130.700 tỷ đồng, bằng 5,4% GDP (theo giá hiện hành), cao hơn mức 4,8% được Quốc hội thông qua cho cả năm. Một số dự báo quan trọng năm 2014-2015: Từ sự đánh giá tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2013 có thể thấy, năm 2014 nền kinh tế vẫn chưa thể ra khỏi giai đoạn trì trệ. Những khó khăn đặt ra trong năm 2013 vẫn sẽ tiếp tục kéo dài trong năm 2014. Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng, song tốc độ chậm; khu vực kinh tế trong nước vẫn còn tiếp tục khó khăn: Khu vực FDI giữ được lợi thế tăng trưởng, nhưng không có sự đột biến trong năm 2014; Nông nghiệp đã đạt đến đỉnh tăng trưởng do chưa thay đổi về cơ cấu, nên khó có khả năng tăng trưởng cao hơn năm 2013; Khu vực dịch vụ sẽ tăng trưởng khá hơn năm 2013, nhưng chưa có khả năng thúc đẩy cả nền kinh tế. Tuy nhiên, bức tranh chung của nền kinh tế năm 2014 vẫn sáng hơn 2 năm 2012-2013. Do đó, có thể dự báo trong năm 2014 tốc độ tăng GDP khoảng 5,5% và CPI tăng khoảng 7%. Nhiệm vụ chính trong năm 2014-2015 vẫn là giữ ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế và quan trọng nhất là khôi phục lại niềm tin của thị trường. Nhận xét Qua các phân tích tình hình vĩ mô về nền kinh tế thế giới và nền kinh tế Việt Nam qua các chỉ tiêu trên, ta có thể thấy rằng trong những năm qua, nền kinh tế bị khủng hoảng biện hiện là tăng trưởng kinh tế chậm, tình trạng thất nghiệp vẫn diễn ra ở hầu hết các nước, nợ công cao đặc biêt ở các nước Châu Âu; tình hình chung thế giới như vậy nền Việt Nam cũng không ngoài bối cảnh chung đó. Vì thế, trong nền kinh tế biến động như vậy, đứng vai trò là nhà đầu tư cần phải lựa chọn đầu tư vào các ngành ít chịu sự ảnh hưởng, bị tác động của nền kinh tế nhất, đồng thời có triển vọng phát triển trong thời gian tới. Đánh giá các nhóm ngành Với tình hình lạm phát tạm ổn định, lãi suất đang giảm nhưng khó có thể dự đoán được biến động tương lai. Do đó, những ngành có hoạt động kinh doanh ổn định, chỉ số tài chính tốt, là những ngành chủ lực sẽ có lợi thế cao hơn. Nhóm ngành được đánh giá với nhiều triển vọng là dược phẩm, khai khoáng, thực phẩm, bất động sản cao cấp. Vì theo phân tích, những ngành này đang có tỷ suất sinh lợi trước thuế cao trên thị trường, tỷ lệ nợ trong cơ cấu vốn ở mức thấp, do đó, rủi ro về tài chính sẽ được giảm thiểu đáng kể. Ngành dược là ngành có tốc độ phát triển mạnh và tương đối ổn định. Tốc độ phát triển nhanh do nhu cầu đảm bảo sức khoẻ ngày càng tăng. Sản phẩm ngành dược thuộc nhóm sản phẩm thiết yếu nên nhu cầu luôn được duy trì ổn định, tăng trưởng và ít biến động nhiều cả khi nền kình tế suy thoái. Ngoài ra, ngành dược còn được sự bảo hộ bởi các chính sách của Nhà nước nên rất an toàn và bền vững. Nhóm ngành triển vọng khác là bất động sản, xây dựng và cao su. Mặc dù hiện nay chưa phải là thời điểm thuận lợi cho ngành bất động sản, xây dựng và vật liệu xây dựng (không bao gồm sản xuất và kinh doanh thép) do những khó khăn trong nền kinh tế khiến cầu giảm và chi phí tài chính khá lớn.Tuy nhiên, xét về dài hạn đây vẫn là những ngành còn tiềm năng tăng trưởng khi nhu cầu thực ở những thành phố lớn như Hà Nội và TPHCM vẫn ở mức cao. Đặc biệt, trong điều kiện kinh tế hiện nay với chính sách tiền tệ nới lỏng, giảm lãi suất, tạo điều kiện để ngành bất động sản phát triển trở lại sau một thời gian tụt dốc. . Ngành đang giảm được hệ số nợ cũng như lợi nhuận đang có xu hướng cải thiện. Cao su và cụ thể sản xuất săm lốp là ngành có hệ số nợ thấp và chủ yếu là nợ ngắn hạn nên chi phí lãi vay không đáng kể, lợi nhuận biên của ngành cũng khá tốt. Đây chính là lợi thế không nhỏ của ngành này trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế. Trái ngược với các nhóm ngành trên, nhóm ngành sản xuất ô tô, nhựa và thép lại nhận dự báo không mấy sáng sủa. Sau khi đã cân nhắc kĩ, chúng tôi xem xét về tiềm năng phát triển cũng như khả năng đáp ứng nhu cầu đầu tư dài hạn, chúng tôi quyết định đầu tư vào ngành dược và ngành sản suất săm lốp. Để làm rõ hơn cho quyết đinh đầu tư này của nhóm, chúng ta cùng tìm hiểu kỹ hơn về 2 ngành này: PHẦN 2: PHÂN TÍCH NGÀNH VÀ PHÂN TÍCH CÔNG TY Phân tích ngành: Quan điểm đầu tư của chúng tôi là đầu tư vào các ngành có vốn hóa thị trường lớn để đảm bảo rủi ro thấp và đầu tư về mặt giá trị sẽ nhận được cao trong tương lai so với các ngành khác. Nhận thấy ngành dược và ngành sản xuất săm lốp là 2 ngành có tiềm năng cao trong tương lai, nhu cầu trong tương lai vẫn còn rất lớn nên dự kiến sẽ mang lại sự tăng trưởng bền vững trong tương lai. Đây cũng là 2 ngành ít chịu tác động bởi những điều kiện bất lợi của nền kinh tế hiện nay. 1. Phân tích ngành dược 1.1. Giới thiệu chung Theo đánh giá của tổ chức y tế thế giới (WHO), công nghiệp dược Việt Nam ở mức đang phát triển. Việt Nam đã có công nghiệp dược nội địa, nhưng đa số phải nhập khẩu nguyên vật liệu, do đó nhìn nhận một cách khách quan có thể nói rằng công nghiệp dược Việt Nam vẫn ở mức phát triển trung bình - thấp. Ngành dược là ngành ít chịu ảnh hưởng khi nền kinh tế đi xuống, đồng thời lại có cơ hội tăng trưởng mạnh khi kinh tế đi lên. Đặc điểm của nhóm ngành dược là sự ổn định về lợi nhuận , doanh thu và cổ tức do thuộc nhóm ngành thiết yếu và có sự tăng trưởng ổn định . Nhìn chung, ngành dược vẫn được dự báo khả quan cùng với hoạt động kinh doanh của các công ty ổn định, doanh thu và lợi nhuận vẫn giữ được đà tăng trưởng tốt ngay cả trong những năm kinh tế khó khăn. Cổ phiếu dược phẩm rất an toàn và gần như các công ty đều báo lãi. Các công ty này đều đang thể hiện những con số lãi từ vài chục tỷ đồng đến hàng trăm tỷ đồng trong báo cáo tài chính quý II. Như vậy, so với các lĩnh vực khác như chứng khoán, bất động sản, hay DN sản xuất đang báo lỗ diễn ra trên diện rộng, rõ ràng các đơn vị dược phẩm y tế gần như báo lãi toàn bộ. Do các tiêu chuẩn của chính phủ và các tổ chức y tế thế giới, một doanh nghiệp mới muốn tham gia sản xuất hay phân phối thuốc thì cần phải đáp ứng nhiều điều kiện. Rào cản gia nhập ngành khá lớn.Dược phẩm là một mặt hàng thiết yếu do đó khó có thể có sản phẩm thay thế cho mặt hàng này. 1.2. Triển vọng phát triển quy mô thị trường ngành dược Ngành dược tăng trưởng cao và ổn định. Cũng theo BMI tốc độ tăng trưởng tiêu thụ dược phẩm tại Việt Nam được dự đoán tăng 14,5%/năm cho đến năm 2015. Mức chi tiêu cho tiền thuốc bình quân đầu người nước ta còn thấp (23 USD/người/năm) so với các nước trong khu vực (31-32 USD/người/năm) nên ngành Dược vẫn có tiềm năng tăng trưởng tốt trong ngắn hạn và dài hạn Thu nhập và đời sống của khoảng 90 triệu dân số Việt Nam đang được cải thiện và nhu cầu sử dụng thuốc tăng nhanh khiến cầu về thuốc ngày càng lớn. Với gần 200 doanh nghiệp, ngành dược trong nước chỉ đáp ứng gần 50% nhu cầu nội địa. Do đó, tiềm năng từ nội địa là rất lớn. Mặt khác chính phủ đang khuyến khích gia tăng sản xuất nguyên vật liệu trong nước. Xét về quy mô thì thị trường thuốc tân dược của việt nam vẫn còn nhỏ so với các nước trong khu vực với khoản doanh thu ước tính toàn ngành khoảng 2,4 tỷ USD trong năm 2012 và chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước mà phải nhập khẩu tới 60% cho nhu cầu nội địa. Tuy nhiên với sự tăng trưởng kinh tế ở mức vừa phải và dân số 90 triệu dân thì việt nam vẫn là còn tiềm năng dài hạn cho ngành dược với sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước. 2. Phân tích ngành săm lốp 2.1. Giới thiệu chung Ngành săm lốp Việt Nam có quy mô nhỏ, khoảng 16.800 tỷ đồng (800 triệu USD), chiếm khoảng 0,34% thị trường săm lốp thế giới. Nguyên nhân chủ yếu là do sản lượng tiêu thụ lốp ô tô quá thấp, chỉ khoảng 4,3 triệu lốp/năm so với hơn 1,3 tỷ lốp/năm trên toàn thế gi
Luận văn liên quan