Đầu tư tài chính trong các công ty bảo hiểm

Đầu tư tài chính của một công ty bảo hiểm là việc công ty bảo hiểm sử dụng các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư vào các lĩnh vực đầu tư theo luật định. Mỗi nước khác nhau thì có những quy định khác nhau về lĩnh vực đầu tư của Công ty Bảo Hiểm. Theo nghị định 43 của chính phủ Nguồn vốn đầu tư của công ty bảo hiểm bao gồm: 1.Vốn chủ sở hữu bao gồmVốn điều lệ; quỹ dự trữ bắt buộc; quỹ dự trữ tự nguyện ;các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng và các quỹ được sử dụng để đầu tư hình thành từ lợi tức để lại công ty. 2. Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm. Đối với các dự án đầu tư có rủi ro cao, công ty dùng nguồn vốn chủ sở hữu; các dự án có rủi ro ít hơn,công ty dùng nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.

doc17 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 7471 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đầu tư tài chính trong các công ty bảo hiểm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH TRONG CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM: 1.Khái niệm: Đầu tư tài chính của một công ty bảo hiểm là việc công ty bảo hiểm sử dụng các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư vào các lĩnh vực đầu tư theo luật định. Mỗi nước khác nhau thì có những quy định khác nhau về lĩnh vực đầu tư của Công ty Bảo Hiểm. Theo nghị định 43 của chính phủ Nguồn vốn đầu tư của công ty bảo hiểm bao gồm: 1.Vốn chủ sở hữu bao gồm: Vốn điều lệ; quỹ dự trữ bắt buộc; quỹ dự trữ tự nguyện ;các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng và các quỹ được sử dụng để đầu tư hình thành từ lợi tức để lại công ty. 2. Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm. Đối với các dự án đầu tư có rủi ro cao, công ty dùng nguồn vốn chủ sở hữu; các dự án có rủi ro ít hơn,công ty dùng nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm. 2.Đặc điểm: Trong bảo hiểm thương mại, có 2 hình thức kinh doanh bảo hiểm đó là: Bảo Hiểm Nhân Thọ và Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ. Mỗi một hình thức sẽ có một đặc điểm đầu tư của riêng nó: +Bảo Hiểm Nhân Thọ: -Do tính chất dài hạn của các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hay nói cách khác nghĩa vụ của các công ty bảo hiểm nhân thọ cũng trong dài hạn nên các công ty bảo hiểm đầu tư với tỷ trọng cao nhất vào các loại chứng khoán dài hạn, mặc dù tỷ suất sinh lợi chỉ đạt mức vừa phải nhưng lại đạt đuợc mức thanh khoản và độ an toàn cao (Trái phiếu chính phủ là một công cụ đầu tư tài chính chủ yếu). - Do quỹ bảo hiểm nhân thọ thường đầu tư dưới hình thức đầu tư dài hạn nên nó chịu tác động rất lớn của những thay đổi về lãi suất và lạm phát,do đầu tư là dài hạn nên lợi nhuận mang tính ổn định ,lãi suất thực bằng lãi suất danh nghĩa trừ lạm phát nên khi lạm phát gia tăng theo thời gian sẽ ảnh hưởng đến lãi suất thực. -Quy mô các quỹ bảo hiểm nhân thọ lớn hơn các quỹ bảo hiểm phi nhân thọ xét dưới góc độ phí bảo hiểm. 3.Vai trò: +Đối với bản thân công ty : Đầu tư tài chính có ý nghĩa quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của công ty bảo hiểm. Đầu tư có hiệu quả chính là phát triển quỹ tài chính của công ty bảo hiểm. -Hoạt động đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của công ty bảo hiểm trên thị trường.Sở dĩ như vậy là vì gần như toàn bộ doanh thu từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm chỉ đủ chi trả phí bồi thường,hợp đồng bảo hiểm đến hạn,chính tỷ suất lợi nhuận đầu tư sẽ giúp công ty có điều kiện giảm phí bảo hiểm, từ đó tạo lợi thế thu hút khách hàng hơn so với đối thủ cạnh tranh. +Đối với xã hội: Cùng với sự điều chỉnh của Luật Công ty và các quy định trong hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm sẽ góp phần định hướng dòng lưu chuyển của quỹ đầu tư của công ty bảo hiểm đi đúng hướng nhằm điều tiết nền kinh tế vĩ mô cũng như thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững. 4.Nguyên tắc đầu tư của công ty bảo hiểm: a.Nguyên tắc an toàn: Công ty bảo hiểm đầu tư luôn đứng trước những rủi ro như: Rủi ro về lãi suất ;rủi ro tín dụng; rủi ro thị trường; rủi ro tiền tệ ;rủi ro biến động giá trong đầu tư chứng khoán. Do đó,để đảm bảo khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm, tạo lòng tin cho khách hàng từ đó tăng thêm uy tín cho công ty , công ty bảo hiểm cần phải đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình nhằm phân tán và giảm thiểu rủi ro có thể gặp phải. Nguyên tắc này còn được thể trong tỉ lệ phân bổ danh mục đầu tư trong công ty bảo hiểm. b.Nguyên tắc sinh lời: Bất kì một công ty nào khi đi vào hoạt động, một trong những nguyên tắc đầu tiên được xét đến luôn là nguyên tắc sinh lời. Lợi nhuận rất cần thiết giúp công ty tăng cường sức mạnh tài chính, đứng vững trong cạnh tranh và thực hiện các chiến lược của mình. Lợi nhuận sẽ giúp cho công ty bảo hiểm có điều kiện giảm phí bảo hiểm, mở rộng phạm vi bảo hiểm nhằm thu hút khách hàng.Tuy nhiên, muốn tỷ suất sinh lời cao thì mức rủi ro khi đầu tư cũng vì thế mà tăng theo. Vì thế để nhằm bảo đảm 2 nguyên tắc quan trọng: Nguyên tắc an toàn và sinh lời, các nhà quản lý đầu tư cần nghiên cứu sao cho hoạt động đầu tư vừa đảm bảo nguyên tắc an toàn lại vừa đem lại mức lợi nhuận như mong muốn. c.Nguyên tắc đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên: Nguyên tắc này đòi hỏi các công ty bảo hiểm luôn phải duy trì một tỉ lệ đầu tư vào các hạng mục có tính thanh khoản cao, để có thể thanh toán ngay khi cần thiết. Thực tế, 3 nguyên tắc trên thường có sự đánh đổi lẫn nhau: -Công ty muốn bảo đảm vốn đầu tư được an toàn và có tính thanh khoản cao thì phải chấp nhận mức lợi nhuận thấp. Vd: Đầu tư vào kỳ phiếu kho bạc... -Công ty muốn vốn đầu tư có mức độ an toàn cao, khả năng sinh lợi trung bình thì phải đánh đổi tính thanh khoản. VD: Đầu tư vào trái phiếu chính phủ, trái phiếu ngân hàng nhà nước... -Công ty muốn khả năng sinh lợi khá, tính thanh khoản cao thì mức rủi ro cũng vì thế mà gia tăng. VD: Đầu tư vào cổ phiếu công ty ... 5.Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư: a.Những nhân tố bên trong: *Các nghĩa vụ tài chính của công ty bảo hiểm: Khác với các công ty và các tổ chức tài chính khác - luôn coi mục tiêu tối đa hóa giá trị tài sản cho chủ sở hữu(cụ thể là lợi nhuận) là mục tiêu tiên quyết, thì trong công ty bảo hiểm mục tiêu không chỉ là tìm kiếm mức lợi nhuận tốt nhất có thể mà song song với nó là trách nhiệm đảm bảo khả năng thanh toán cho những đối tượng được bảo hiểm cũng quan trọng không kém. *Quy mô của công ty bảo hiểm: Cũng như các công ty khác, quy mô của công ty càng lớn, dòng vốn tích lũy để đem đi đầu tư cũng tăng lên kéo theo danh mục đầu tư trở nên đa dạng và phong phú hơn. Với quy mô lớn, công ty bảo hiểm có thể đa dạng hóa các kênh đầu tư của mình giúp cho công ty phòng tránh rủi ro cũng như nâng cao tính thanh khoản cho tài sản đầu tư *Chính sách phân phối lợi nhuận: Một số hợp đồng bảo hiểm như sản phẩm bảo hiểm nhân thọ trọn đời, hỗn hợp và niên kim có tính chất cam kết chia lãi của công ty bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm, chính nhân tố này lại ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm nhân thọ. Tùy vào chính sách chia lãi của công ty bảo hiểm mà xu hướng đầu tư của nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm này lại có sự thay đổi khác nhau. *Các quan điểm đầu tư của nhà quản lý: Tỷ trọng các mục đầu tư trong danh mục đầu tư của từng công ty bảo hiểm khác nhau luôn có sự khác nhau cả về phần trăm lẫn số lượng. Sở dĩ có điều đó là vì công ty bảo hiểm đó có những nhà quản lý khác nhau, nên quan điểm đầu tư của họ cũng vì thế mà khác nhau. b.Những nhân tố bên ngoài: *Chế độ thuế của nhà nước Thực tế cho thấy,bất kỳ sự thay đổi phần trăm nào của mức thuế suất áp dụng đối với thu nhập của từng lĩnh vực đầu tư tài chính là khác nhau thì kéo theo đó danh mục đầu tư của công ty bảo hiểm cũng có sự thay đổi cả về số lượng lẫn tỷ trọng. Công ty bảo hiểm sẽ tăng giá trị đầu tư vào những lĩnh vực được nhà nước khuyến khích thông qua việc giảm thuế. Điều này cho thấy, Thuế là một nhân tố quan trọng, tác động trực tiếp đến hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm- do nó tác động tới bảng báo tài chính, bảng cân đối kế toán cũng như dòng tiền lưu chuyển của công ty . *Các điều kiện của thị trường vốn Quy mô thị trường vốn và thị trường tài chính là yếu tố trong quy mô của môi trường đầu tư.Thị trường vốn được tổ chức tốt có thể cung cấp một phạm vi rộng rãi các tài sản tài chính sẵn có và điều này được thể hiện trong danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm. Và ngược lại, nếu thị trường vốn phát triển không tốt, sự lựa chọn hình thức đầu tư sẽ bị hạn chế. *Một số công cụ quản lý khác của nhà nước Ngoài hình thức áp đặt thuế để điểu chỉnh danh mục đầu tư của công ty bảo hiểm, nhà nước còn có các biện pháp hạn chế như ban hành luật, thông tư nhằm định hướng đầu tư, giới hạn danh mục đầu tư cả về tỷ trọng lẫn số lượng. Thực tế, nguồn vốn của công ty bảo hiểm là rất lớn và có vai trò quan trọng trong nên kinh tế nên nhà nước cần phải quản lý hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm nhằm mục đích: +Bảo vệ người tham gia bảo hiểm. +Định hướng sự lưu chuyển của các quỹ đầu tư. +Giảm nguy cơ tập trung quyền lực trong lĩnh vực tài chính. 6.Hình thức đầu tư trong công ty bảo hiểm: a.Gửi tiền vào các tổ chức tín dụng Tại Việt Nam, hình thức trên là một kênh đầu tư quan trọng, chiếm một tỷ trọng lớn trong danh mục đầu tư. Do hình thức gửi tiền vào các tổ chức tín dụng rất an toàn lại mang tính thanh khoản cao. b.Các công cụ nợ có lãi suất cố định của công ty Đây là một kênh đầu tư tài chính quan trọng của công ty bảo hiểm ( đặc biệt là công ty bảo hiểm nhân thọ) *Trái phiếu công ty : Là trái phiếu do các công ty phát hành, bản chất là hình thức vay nợ để tài trợ cho các nhu cầu về vốn của mình.Tại Việt Nam, dưới sự điều chỉnh của luật kinh doanh bảo hiểm, đầu tư trái phiếu công ty có bảo lãnh của các công ty bảo hiểm luôn chiếm tỷ trọng rất lớn, là 1 trong những nguồn mang lại doanh thu chính cho các công ty bảo hiểm. *Trái phiếu chính phủ và các cơ quan chính phủ phát hành: Là các trái phiếu có mức rủi ro tối thiểu, là một phần quan trọng trong danh mục đầu tư của công ty bảo hiểm. c.Cổ phiếu Với tính chất đặc thù của cổ phiếu là không ổn định về giá, tính thanh khoản và rất khó dự đoán sự biến động của nó.Trong trường hợp công ty có cổ phiếu mà công ty đầu tư bị phá sản, thì công ty bảo hiểm sẽ là pháp nhân được hưởng quyền lợi sau cùng.Chính vì những yếu tố trên nên việc đầu tư vào cổ phiếu sẽ rủi ro hơn đầu tư vào các sản phẩm có lãi suất cố định. d.Bất động sản Đầu tư trực tiếp vào bất động sản là một dạng đầu tư có tính chất giống như đầu tư cổ phần, nên việc đầu tư vào bất động sản cũng phải gánh chịu các rủi ro tương tự như đầu tư vào cổ phiếu. e.Đầu tư vào các quỹ đầu tư Quỹ đầu tư là một dạng công ty thuộc loại công ty cổ phần, nó phát hành và bán cổ phiếu để lấy vốn hoạt động. Đóng vai trò là một tổ chức tài chính trung gian với phương thức hoạt động là đầu tư tài chính để mang lại lợi nhuận. f. Cho vay Công ty bảo hiểm có thể cho các chủ thể vay, nhưng các khoản vay này phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của ngân hàng hoặc công ty này phải có vốn tự có lớn. g.Các hình thức đầu tư khác Ngoài những hình thức đầu tư trên, công ty bảo hiểm còn có thể đầu tư dưới các hình thức chứng khoán phái sinh như: thực hiên các hợp đồng option, future hoặc swap để hạn chế rủi ro đầu tư. Giới hạn về tỷ trọng đầu tư của công ty bảo hiểm nhân thọ theo nghị định 43: Danh mục đầu tư  Tỷ trọng đầu tư tối đa   Trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh, tiền gửi tại tổ chức tín dụng  Không hạn chế   Cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp không có bảo lãnh, góp vốn  50%   Kinh doanh bất động sản, cho vay, ủy thác đầu tư qua các tổ chức tài chính - tín dụng  40%   7.Tổ chức hoạt động đầu tư: Quy mô của công ty , tính chất nghiệp vụ bảo hiểm và những quy định của pháp luật có liên quan của từng nước có sự liên quan chặt chẽ với nhau. Và chính 3 yếu tố này đã tác động đến hình thức tổ chức hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm. Có 3 hình thức tổ chức phổ biến: a.Thành lập công ty đầu tư thuộc công ty bảo hiểm: Đây là hình thức áp dụng khá phổ biến ở các công ty bảo hiểm có quy mô lớn và phát triển, nó giúp cho các công ty bảo hiểm tập trung các nguồn lực của mình để nâng cao chất và lượng cũng như hiệu quả trong hoạt động đầu tư. b.Tổ chức phòng đầu tư trực thuộc công ty: Các công ty có quy mô nhỏ hoặc mới thành lập thường áp dụng hình thức này. Theo đó, phó giám đốc công ty phụ trách mảng đầu tư sẽ trực tiếp chỉ đạo phòng đầu tư nhằm thực hiện chương trình đầu tư của công ty mà hội đồng quản trị đã đề ra.Hiện nay, tại Việt Nam, hình thức tổ chức đầu tư này là khá phổ biến trong hệ thống các công ty bảo hiểm. c.Đầu tư không chi phối thông qua công ty hay các quỹ đầu tư độc lập Các công ty bảo hiểm có thể mua cổ phần ở mức không chi phối của các tổ chức đầu tư khác nhằm mở rộng và đa dạng hóa các hoạt động đầu tư của mình. 8.Đánh giá hiệu quả đầu tư trong doanh nhiệp bảo hiểm: a.Mục tiêu đánh giá: Mục tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư trong công ty bảo hiểm là để công ty có thể kiểm soát và làm chủ những hạng mục đầu tư của mình, có chiến lược đầu tư hiệu quả và phù hợp với điều kiện của công ty cũng như tình hình thị trường. b.Những chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả của hoạt động đầu tư trong công ty bảo hiểm nhân thọ: *Giá trị hiện tại thuần NPV *Thời gian hoàn vốn PP *Tỷ suất hoàn vốn nội bộ IRR *Tỷ suất lợi nhuận đầu tư Nhưng suy cho cùng thì mọi sự đầu tư đều có mục đích lớn nhất là tối đa hóa lợi nhuận. Công ty bảo hiểm phải tính toán sao cho một đồng vốn bỏ ra thu được nhiều lợi nhuận nhất. Do đó việc đánh giá hiệu quả đầu tư của công ty bảo hiểm không nằm ngoài sự đánh giá thông qua chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận so với vốn đầu tư. II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM VIỆT NAM: 1. Về tăng trưởng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế:  Các công ty bảo hiểm đã tạo lập được nguồn vốn lớn và dài hạn cho đầu tư phát triển kinh tế -xã hội .Tổng số tiền đầu tư của toàn ngành bảo hiểm trong thời gian ngắn đã đạt được một con số khả quan. : Năm 2007, các công ty bảo hiểm đã chú trọng đầu tư nguồn vốn chủ sở hữu và dự phòng nghiệp vụ đem lại lợi nhuận cao. Hầu hết các công ty bảo hiểm đều thành lập bộ phận chuyên trách đầu tư, các công ty có quy mô lớn đã thành lập ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty đầu tư tài chính, công ty quản lý quỹ. Các công ty bảo hiểm nhân thọ đã đầu tư vào nền kinh tế quốc dân 33.370 tỉ đồng, đa số là nguồn vốn trung dài hạn. Năm 2008, tổng số tiền đầu tư của bảo hiểm nhân thọ là 39.253 tỉ đồng (gồm cả 02 công ty mới là Great Eastern và Cathay Life), tăng 23,23% so với 2007. Đến cuối năm 2009, ngành bảo hiểm đã huy động, đầu tư trở lại nền kinh tế 66.913 tỷ đồng. Trong đó các, các công ty bảo hiểm nhân thọ đạt 47.600 tỷ đồng tăng 21,26% so với 2008. Năm 2010, ngành bảo hiểm đã huy động đầu tư trở lại nền kinh tế khoảng 92.809 tỷ đồng tăng gần 26 nghìn tỷ so với năm 2009. Tổng số tiền đầu tư năm 2010 của các công ty bảo hiểm nhân thọ đạt 52.063 tỷ đồng, tăng 5,16% so với năm trước. Đầu tư từ bảo hiểm nhân thọ chiếm tỷ trọng nhất định trong tổng vốn đầu tư , điều này càng khẳng định thêm vai trò của ngành bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ trong việc đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn cho phát triển kinh tế. 2.Cơ cấu và hiệu quả đầu tư: Trước đây, các công ty bảo hiểm Việt Nam không quan tâm đến công tác đầu tư vốn, mà chủ yếu chỉ gửi ngân hàng để lấy lãi. Sở dĩ có hiện tượng này vì khi đó số lượng các công ty bảo hiểm còn ít, sự cạnh tranh trên thị trường chưa khốc liệt, việc làm ăn của các công ty này tương đối "dễ thở" nên họ chưa chú ý nhiều đến đầu tư. Việc cho vay, nếu có, thì chủ yếu dành cho các khách hàng lớn của công ty, nhằm củng cố quan hệ với khách hàng. Những năm gần đây, với sự ra đời và phát triển của TTCK, một số công ty bảo hiểm lớn đã phát hành cổ phiếu cho đối tác chiến lược và công chúng để tăng vốn, thu về một lượng thặng dư vốn khá lớn. Mặt khác, các công ty sau một thời gian dài hoạt động đã tạo cho mình quỹ dự phòng bảo hiểm khá lớn, đây có thể coi là nguồn vốn huy động lý tuởng để công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tư. Bên cạnh đó, số công ty bảo hiểm mới thành lập ngày càng nhiều, Các công ty mới ra sau yếu thế: vốn ít, quỹ dự trữ nghiệp vụ chưa có, năng lực nhân sự còn thiếu và yếu, chưa có thương hiệu, chưa có thị trường…, để tồn tại, nhiều công ty phải khai thác thị trường, khách hàng bằng bất cứ giá nào trong bối cảnh các công ty lớn đang thống lĩnh thị truờng. Ngoài ra, với cơ chế mở cửa thị trường, có rất nhiều các công ty bảo hiểm nước ngoài đã tham gia vào thị trường VN, với ưu thế về quy mô, bề dày lịch sử cũng như có được lượng vốn đầu tư lớn, đó sẽ là một thách thức không nhỏ đối với các công ty bảo hiểm Việt Nam trong việc cạnh tranh tìm kiếm thị phần trong nước.Việc cạnh tranh như thế dẫn đến hầu hết công ty lỗ nghiệp vụ.Điển hình là kết quả kinh doanh của tập đoàn Bảo Việt Chỉ tiêu (tỷ đồng)  Năm 2009  16/10/07- 31/12/08   Thu phí bảo hiểm gốc  7393.4  8114.2   Thu phí nhượng tái bảo hiểm  151.7  166.5   Doanh thu thuần HĐ KDBH  5193.4  5974.8   Lợi nhuận thuần HĐ KDBH  -890.3  -721.4   Lợi nhuận thuần HĐ Ngân hàng  161.8  0.0   Lợi nhuận thuần từ các HĐ khác  -109.9  -136.9   Lợi nhuận HĐ tài chính  2061.6  1332.5   Lợi nhuận hoạt động khác  13.9  6.2   Lợi nhuận từ LD, LK  13.1  22.3   LNTT  1250.1  502.7   LNST  1011.5  325.6   LNST thuộc về cổ đông cty mẹ  891.8  529.5   EPS (đồng)  1556  924   Năm 2009, Bảo Việt Nhân Thọ tiếp tục bị lỗ hơn 890 tỷ đồng, tăng 169 tỷ so với niên độ kế toán trước. Với những diễn biến nêu trên, đặc biệt là để chống lỗ, đầu tư tài chính trở nên thiết yếu, quyết định đến sự sống còn của các công ty bảo hiểm nhân thọ. Trong các công ty kinh doanh bảo hiểm, một hoạt động không kém phần quan trọng đó là hoạt động đầu tư nguồn vốn từ phí bảo hiểm nhàn rỗi chưa phải bồi thường. Ở một số tập đoàn bảo hiểm lớn trên thế giới, lợi nhuận của công ty chủ yếu đến từ đầu tư, chứ không phải từ kinh doanh bảo hiểm đơn thuần. Ở Việt Nam, việc đầu tư nguồn vốn từ phí bảo hiểm nhàn rỗi và cả nguồn vốn chủ sở hữu còn rất yếu.Yếu là bởi vì hoạt động đầu tư bị bó hẹp, chưa đa dạng được các danh mục đầu tư (một mặt là vì trình độ quản lý dòng tiền đầu tư còn kém, năng lực chuyên môn còn hạn chế, mặt khác là vì chưa có hành lang pháp lý, chưa có môi trường đầu tư để doanh nghiệp có thể tiếp cận) nên lợi nhuận thu được chưa tương xứng với giá trị đầu tư bỏ ra, thậm chí thua lỗ do chiến lược đầu tư sai lầm. Cụ thể, vào thời điểm năm 2007-2009, khi những khoản lỗ của Vinashin chưa lộ ra, không ít doanh nghiệp sẵn sàng đầu tư vào đơn vị này, trong đó có Tập đoàn Bảo Việt. Theo đó, Tập đoàn Bảo Việt và các đơn vị thành viên mua đến 680 tỉ đồng mệnh giá trái phiếu doanh nghiệp của Vinashin. Thực tế, loại trái phiếu của Vinashin mà Tập đoàn Bảo Việt và các đơn vị thành viên đầu tư là trái phiếu doanh nghiệp không có bảo đảm. Việc đầu tư khoản tiền lớn như vậy vào Vinashin bắt nguồn từ các bộ phận chuyên môn của Bảo Việt và đơn vị thành viên thiếu căn cứ xác thực khi cho rằng Vinashin sẽ ngày càng phát triển và khẳng định thương hiệu trên thị trường quốc tế, chưa đầy đủ thông tin về thực trạng hoạt động kinh doanh của tập đoàn này. Không chỉ mua trái phiếu, Bảo Việt còn ký kết 34 hợp đồng tiền gửi tại Công ty Tài chính công nghiệp tàu thủy (VFC, thành viên của Vinashin) vượt quá hạn mức tín dụng, số dư tiền gửi của Bảo Việt tại VFC lên đến 406 tỉ đồng. Việc để vượt hạn mức tín dụng này thể hiện công tác quản trị nội bộ trong hoạt động tiền gửi của Tập đoàn Bảo Việt chưa tốt, tiềm ẩn rủi ro khi đơn vị nhận tiền gửi gặp khó khăn. Bảo Việt còn đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán và thua lỗ với số tiền hàng trăm tỉ đồng. Cụ thể, tập đoàn đầu tư vào Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt (BVSC), Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Long, Quỹ đầu tư chứng khoán Bảo Việt và đều bị thâm hụt khoản đầu tư. Tính đến hết năm 2009, BVSC lỗ lũy kế hơn 122 tỉ đồng, Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Long lỗ gần 113 tỉ đồng, Quỹ đầu tư chứng khoán Bảo Việt chỉ còn 95,2% giá trị quỹ khi mới thành lập.Nguyên nhân chính là do đơn vị này kinh doanh nhiều loại cổ phiếu, trong đó có loại mua khi thị trường chứng khoán tăng mạnh và đến khi suy thoái phải lập dự phòng giảm giá dẫn đến lỗ. Bảng tổng hợp cơ cấu đầu tư của công ty bảo hiểm nhân thọ 2007-2010 Chỉ tiêu  2007  2008  2009  2010   Cổ phiếu, các hình thức khác và Góp vốn  18,11%  7,6%  12,94%  13,08%   Cho vay  8,90%  10,15%  10%    Trái phiếu CP  56,64%  58,1%  57,26%  41,05%   Tiền gửiTCTD  15,65%  16,25%  19,04%  18,85%   Khác  0,69%  7,95%  0,76%    Ủy thác đầu tư     27,02%   Năm 2007: Đây là năm đầu tiên Việt thực hiện các cam kết khi trở thành thành viên thứ 150