Trong 9 tháng đầu năm 2008 Việt Nam đã có một bước đột phá trong việc thu hút FDI với một con số vốn đăng ký đầy ấn tượng 57,2 tỷ USD tăng gấp 5 lần so với cùng kỳ năm 2007. Nó cũng đánh dấu một bước ngoặc mới trong nền kinh tế Việt Nam, đưa nước ta vươn lên trở thành 1 trong 3 nước thu hút được nhiều vốn FDI nhất khu vực Châu Á. Điều này cũng đã chứng minh được niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển của nền kinh tế. 9 tháng đầu năm với biết bao khó khăn và biến động. Tốc độ lạm phát cao, giá nguyên vật liệu xây dựng tăng vọt, giá xăng dầu tăng nhanh Điều này không ít thì nhiều cũng đã ảnh hưởng đến luồng vốn FDI vào Việt Nam. Nhưng với những nỗ lực và các giải pháp kịp thời của Chính Phủ, niềm tin của các nhà đầu tư vẫn không suy giảm nhiều về một tương lai tươi sáng của nền kinh tế Việt Nam
15 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2558 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong 9 tháng đầu năm 2008 Việt Nam đã có một bước đột phá trong việc thu hút FDI với một con số vốn đăng ký đầy ấn tượng 57,2 tỷ USD tăng gấp 5 lần so với cùng kỳ năm 2007. Nó cũng đánh dấu một bước ngoặc mới trong nền kinh tế Việt Nam, đưa nước ta vươn lên trở thành 1 trong 3 nước thu hút được nhiều vốn FDI nhất khu vực Châu Á. Điều này cũng đã chứng minh được niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển của nền kinh tế. 9 tháng đầu năm với biết bao khó khăn và biến động. Tốc độ lạm phát cao, giá nguyên vật liệu xây dựng tăng vọt, giá xăng dầu tăng nhanh… Điều này không ít thì nhiều cũng đã ảnh hưởng đến luồng vốn FDI vào Việt Nam. Nhưng với những nỗ lực và các giải pháp kịp thời của Chính Phủ, niềm tin của các nhà đầu tư vẫn không suy giảm nhiều về một tương lai tươi sáng của nền kinh tế Việt Nam
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng mừng, chúng ta cần nhìn nhận một cách thẳng thắn và đầy đủ về những thành tựu, hạn chế của Việt Nam trong suốt thời gian qua. Bởi con số 57,2 tỷ USD ở trên sẽ mãi chỉ là con số vốn ảo nếu chúng ta không có một chính sách tốt để có thể khiến các nhà đầu tư thực hiện giải ngân nó. Dưới đây là bức tranh toàn cảnh về hoạt động FDI tại Việt Nam trong thời gian qua. Trong khuôn khổ bài viết có thể còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp của tất cả thầy cô và những người quan tâm đến vấn đề này.
Chương I : Tổng quan về FDI
ĐỊNH NGHĨA VỐN FDI:
Theo tổ chức thương mại thế giới: “đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước có được tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty".
LỢI ÍCH CỦA THU HÚT VỐN FDI:
Bổ sung cho nguồn vốn trong nước
Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Trong một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ muốn có cả vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn FDI
Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý
Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động được phần nào bằng “chính sách thắt lưng, buộc bụng”. Tuy nhiên công nghệ và bí quyết quản lý thì không thể có được bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, việc phổ biến các công nghệ và bí quyết quản lý đó ra cả nước thu hút đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước
Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu
Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ có xí nghiệp có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu.
Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công
Vì một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được chi phí sản xuất thấp, nên xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa phương. Thu nhập của một bộ phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế của địa phương. Trong quá trình thuê mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà trong nhiều trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu hút FDI, sẽ được xí nghiệp cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng cho nước thu hút FDI. Không chỉ có lao động thông thường, mà cả các nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm việc và được bồi dưỡng nghiệp vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Nguồn thu ngân sách lớn
`Đối với nhiều nước đang phát triển hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn ngân sách quan trọng.
NHỮNG NHÂN TỐ THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI:
Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước
Helpman & Sibert, Richard S. Eckaus cho rằng có sự khác nhau về năng suất cận biên của vốn giữa các nước
Một nước thừa vốn thường có năng suất cận biên thấp hơn. Còn một nước thiếu vốn thường có năng suất cận biên cao hơn. Tình trạng này sẽ dẫn tới sự di chuyển dòng vốn từ nơi dư thừa sang nơi khan hiếm nhằm tối đa hóa lợi nhuận
Chu kỳ sản phẩm
Akamatsu Kaname (1962) cho rằng sản phẩm ban đầu được phát minh và sản xuất ở nước đầu tư sau đó mới được xuất khẩu sang thị trường nước ngoài. Tại nước nhập khẩu, ưu điểm của sản phẩm mới làm cho nhu cầu của thị trường nội địa tăng lên, nên nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất để thay thế sản phẩm nhập khẩu này bằng cách chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thuật của nước ngoài. Khi nhu cầu thị trường của sản phẩm mới trong thị trường trong nước bảo hòa, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện. Hiện tượng này xảy ra theo chu kỳ và dẫn tới sự hình thành FDI
Raymond Vernon (1966) lại cho rằng, khi sản xuất một sản phẩm đạt tới giai đoạn chuẩn hóa trong chu kỳ phát triển của mình cũng là lúc thị trường sản phẩm này có rất nhiều nhà cung cấp. Ở giai đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến, nên cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dẫn tới quyết định giảm giá và do đó dẫn tới quyết định cắt giảm chi phí sản xuất. Đây là lý do để các nhà cung cấp chuyển sản xuất sản phẩm sang những nước cho phép chi phí sản xuất thấp hơn.
Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia
Stephen H. Hymes (1960) công bố năm 1976, John H Dunning (1981), Rugman A. A (1987) và một số người khác cho rằng các công ty đa quốc gia có những lợi thế đặc thù ( chẳng hạn như năng lực cơ bản) cho phép công ty vượt qua những trở ngại về chi phí ở nước ngoài nên họ sẵn sàng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Khi chọn địa điểm đầu tư, những công ty đa quốc gia sẽ chọn nơi nào có các điều kiện (lao động, đất đai, chính trị…) cho phép họ phát huy các lợi thế đặc thù nói trên.
Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một biện pháp để tránh xung đột thương mại song phương. VD: Nhật Bản hay bị Mỹ và các nước Tây Âu phàn nàn do Nhật Bản có thặng dư thương mại còn các nước kia bị `thâm hụt thương mại trong quan hệ song phương. Đối phó, Nhật Bản đã tăng cường đầu tư trực tiếp vào các thị trường đó. Họ sản xuất và bán ô tô, máy tính ngay tại Mỹ và châu Âu để giảm xuất khẩu các sản phẩm này từ Nhật Bản sang. Họ còn đầu tư trực tiếp vào các nước thứ 3 và từ đó xuất khẩu sang Bắc Mỹ và châu Âu.
Khai thác chuyên gia và công nghệ
Không phải FDI chỉ đi theo hướng từ nước phát triển hơn sang nước kém phát triển hơn. Chiều ngược lại thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa. Nhật Bản là nước tích cực đầu tư trực tiếp vào Mỹ để khai thác đội ngũ chuyên gia ở Mỹ. VD: các công ty ô tô của Nhật Bản đã mở các bộ phận thiết kế xe ở Mỹ để sử dụng các chuyên gia người Mỹ.
Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên
Để có nguồn nguyên liệu thô, nhiều công ty đa quốc gia tìm cách đầu tư vào những nước có nguồn tài nguyên phong phú. Làn sóng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài lớn đầu tiên của Nhật Bản và thập niên 1950 là vì mục đích này. FDI của Trung Quốc hiện nay cũng có mục đích tương tự.
Chương II : Thực trạng FDI tại Việt Nam
1. CỘT MỐC CHO HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
Ngày 19/12/1987 Quốc hội đã thông qua luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Khoảng 20 năm qua là một khoảng thời gian đủ dài để đánh giá một cách khách quan, có căn cứ thực tế hoạt động FDI tại Việt Nam
2.TỔNG QUAN NGUỒN VỐN FDI TẠI VIỆT NAM
Số dự án
Vốn đăng kí (Triệu USD)
Vốn thực hiện (Triệu USD)
Tỷ lệ giải ngân (%)
Năm
10,695
152,296.2
53,545.5
35.15879
1988
37
341.7
0
0
1989
67
525.5
0
0
1990
107
735
0
0
1991
152
1,291.5
328.8
25.45877
1992
196
2,208.5
574.9
26.03124
1993
274
3,037.4
1017.5
33.49905
1994
372
4,188.4
2,040.6
48.72028
1995
415
6,937.2
2,556
36.84484
1996
372
10,164.1
2,714
26.70182
1997
349
5,590.7
3,115
55.71753
1998
285
5,099.9
2,367.4
46.42052
1999
327
2,565.4
2,334.9
91.01505
2000
391
2,838.9
2,413.5
85.01532
2001
555
3,142.8
2,450.5
77.97187
2002
808
2,998.8
2,591
86.40123
2003
791
3,191.2
2,650
83.04086
2004
811
4,547.6
2,852.5
62.72539
2005
970
6,839.8
3,308.8
48.37568
2006
987
12,004
4,100.1
34.15611
2007
1,544
21,347.8
8,030
37.61512
Sơ bộ 2008
885
52,700
8,100
15.37002
Nguồn: Tổng cục thống kê (2007).
Nguồn:Tổng cục thống kê (2007).
3.THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN FDI 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2008
Vốn đăng ký: 57,2 tỷ USD, gấp 5 lần so với cùng kỳ năm 2007
Vốn thực hiện đạt 8,1 tỷ USD tăng 37,3% so với cùng kỳ năm trước
Công nghiệp và xây dựng chiếm 32,3 tỷ USD; dịch vụ chiếm 23,7 tỷ USD; Nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 1,2 tỷ USD .
Nguồn : tổng cục thống kê Việt Nam (2008).
NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ TĂNG MẠNH VỐN FDI VÀO VIỆT NAM
Việt Nam đã có được nhiều cải thiện trong hệ thống cơ chế và chính sách thu hút đầu tư
Việt Nam có nền kinh tế vĩ mô ổn định và tăng trưởng tốt trong thời gian vừa qua
Có một nền chính trị ổn định và an toàn
Hệ thống pháp luật đã có nhiều cải thiện
Việc tham gia các hiệp định thương mại, đặc biệt là tham gia WTO… giúp Việt Nam tăng sức cạnh tranh của mình trên trường quốc tế
Sự suy yếu của các nền kinh tế Châu Mỹ, Châu Âu là nguyên nhân các nhà đầu tư đổ xô vào các nền kinh tế Đông Á đang có tiềm năng phát triển mạnh
VAI TRÒ CỦA VỐN FDI TẠI VIỆT NAM
Đóng góp đáng kể vào giá trị sản lượng công nghiệp, góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng công nghiệp của cả nước
Khu vực đầu tư nước ngoài hiện chiếm tới 36,4% giá trị sản lượng công nghiệp. Hiện nay khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 100% về khai thác dầu thô, sản xuất ô tô, máy giặt, tủ lạnh, điều hòa nhiệt độ, thiết bị văn phòng, máy tính. Khoảng 60% sản lượng sợi các loại, 49% về da giày, 25% về chế biến thực phẩm và đồ uống.
Từ những năm đầu của thập niên 90 đến nay, khu vực FDI có tốc độ tăng giá trị sản lượng công nghiệp nhanh hơn các khu vực khác của nền kinh tế bình quân giai đoạn 1991-1995 là 23,3 %, giai đoạn 2001-2003 là 15,6% cao hơn so với mức tăng giá trị sản lượng công nghiệp của khu vực doanh nghiệp nhà nước và khu vực ngoài quốc doanh trong thời kỳ 1991-2000
Thúc đẩy sản xuất hàng hóa: Kim ngạch xuất khẩu từ khu vực kinh tế này trung bình chiếm khoảng 57% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước
Mở rộng thị trường, phát triển các ngành dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, chuyển dịch kinh tế theo hướng công nghiệp hóa
Hiện đại hóa, tạo ra năng suất lao động cao, từng bước đưa nền kinh tế nước ta chuyển biến theo hướng kinh tế thị trường hiện đại
Đóng góp vào ngân sách của khu vực FDI ngày càng tăng. Bình quân khu vực FDI đóng góp khoảng 7% tổng thu ngân sách hàng năm
Thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện cán cân thanh toán, góp phần đưa nước ta tham gia hiệu quả vào quá trình phân công lao động quốc tế, thúc đẩy mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế; tạo điều kiện cho việc thực hiện đường lối đối ngoại mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng và Nhà Nước ta
Bổ sung nguồn vốn trong nước: các thành phần kinh tế FDI đóng góp tới 20% trong tổng số nguồn vốn đầu tư phát triển
Nâng cao đời sống, tạo công ăn việc làm cho người lao động:
Khu vực vốn đầu tư FDI hiện thu hút được khoảng 1,2 triệu lao động Việt Nam với mức lương ngày càng được cải thiện, góp phần nâng cao đời sống cho người lao động.
HẠN CHẾ CỦA NGUỒN VỐN FDI TẠI VIỆT NAM
Tỷ trọng đầu tư vào các lĩnh vực không đồng đều
Vốn FDI đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ trong khi đó đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp rất thấp, chiếm khoảng 7% và liên tục giảm qua các thời kỳ. Theo số liệu đầu tư trực tiếp nước ngoài 9 tháng đầu năm 2008 đầu tư vào lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp chỉ chiếm 0,37% trong tổng số vốn đầu tư (1,2 tỷ USD trong tổng số 57,2 tỷ USD vốn đăng ký)
Chưa phát huy đầy đủ tiềm năng của đất nước
Vốn FDI hiện nay chủ yếu tập trung vào lĩnh vực khai khoáng và dầu mỏ (Dự án lọc dầu Nghi Sơn, liên doanh giữa Việt Nam, Nhật Bản và Kuwait trị giá tới 8 tỷ USD. Dự án sản xuất thép Vũng Áng (Hà Tĩnh) của tập đoàn Formosa giai đoạn 1 tới gần 8 tỷ USD). Điều này làm mất cân đối nền kinh tế. Trong khi đó các lĩnh vực Việt Nam có thế mạnh như nông nghiệp, du lịch lại ít được chú trọng. Điều này làm lãng phí nguồn tài nguyên quốc gia khi những khu du lịch sập sệ vì thiếu vốn đầu tư, những khu đất nông nghiệp bị hoang phế vì bỏ hoang.
Phân bổ nguồn vốn đầu tư nước ngoài không đồng đều giữa các địa phương
Hiện nay vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu tập trung vào các tỉnh, thành phố lớn nơi có hệ thống hạ tầng cơ sở tương đối hoàn chỉnh như Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Vũng Tàu, Đà Nẵng… Trong khi đó vốn đầu tư vào các tỉnh trung du và miền Núi còn rất thấp vì vậy đã làm gia tăng khoảng cách nguồn thu ngân sách giữa các tỉnh thành, mặt khác nó làm phát sinh hiện tượng đổ xô về các thành phố lớn tìm việc làm, gây mất trật tự và phát sinh nhiều vấn đề xã hội khác
Tốc độ giải ngân chậm và tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký còn rất thấp
Vốn đăng kí (triệu USD) từ 1988 đến 9/2008
Vốn thực hiện (triệu USD) từ 1988 đến 9/2008
Tỷ lệ giải ngân (%)
152,296.2
53,545.5
35.15879
Ta thấy tỷ lệ vốn giải ngân so với vốn đăng ký chỉ đạt khoảng 35,16% điều này phát sinh do nhiều lý do chủ quan cũng như khách quan về phía nhà đầu tư như: một số nhà đầu tư chỉ đăng ký đặt chỗ trước, thiếu thiện chí đầu tư, tình hình kinh tế vĩ mô trong nước, cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính….
Tốc độ chuyển giao công nghệ chậm và các hàng hóa xuất đi có nguồn gốc từ Việt Nam rất ít được sản xuất từ các công nghệ mới
Mong muốn lớn của Việt Nam khi cấp phép cho các dự án lớn là sau một thời gian nhất định được chuyển giao công nghệ hiện đại nhưng thực tế không diễn ra như vậy. Trong vòng 12 năm chỉ có khoảng 150 hợp đồng chuyển giao công nghệ được bộ khoa học công nghệ chấp thuận, và rất ít sản phẩm xuất khẩu từ Việt Nam dựa trên công nghệ mới “ không ai ở Bộ biết được có bao nhiêu chủ sở hữu cồng nghệ nước ngoài đã quyết định không đưa công nghệ của mình vào Việt Nam bởi môi trường pháp lý không thuận lợi”
7. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ CỦA NGUỒN VỐN FDI TẠI VIỆT NAM
Cơ sở hạ tầng còn kém chất lượng, quy hoạch thiếu tính đồng bộ
Chính phủ Việt Nam đã có những chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng như cầu, đường, cảng biến… nhưng tiến độ quá chậm, trong khi các yếu tố hạ tầng này là rất cần thiết cho nhu cầu vận chuyển hàng hóa. Hiện tại, sự tắc nghẽn tại các con đường tại TPHCM, đặc biệt vào các giờ cao điểm là một bức xúc. Ngay cầu Đồng Nai, một cây cầu nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cũng gây ra những lo lắng… Sự tắc nghẽn về các yếu tố hạ tầng trên đang gây nhiều cản trở cho các hãng vận tải Quốc tế và phần nào đó ngăn cản họ đến đầu tư tại Việt Nam.
Trong lĩnh vực vận tải đường biển, các cảng biển tại Việt Nam đang có dấu hiệu tắc nghẽn, nhất là khu vực thành phố HCM. Việc huy động vốn đầu tư vào các cảng biển hiện còn chậm trễ, cụ thể là một số dự án như cảng Cái Lân, Sao Mai, Vân Phong… Chính vì vậy các cảng biển vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hóa cho nhà đầu tư. Hiện nay hầu hết các cảng đều quá đông, tình trạng duy tu và quản lý kém, trang thiết bị lạc hậu, hệ thống hạ tầng ra cảng (cả thủy và bộ) đều không đáp ứng được nhu cầu sử dụng ngày càng tăng. Vị trí và hiện trạng của các cảng dẫn tới chi phí cao hơn cho các hãng tàu và những nhà xuất nhập khẩu
Trong lĩnh vực giao thông đường sắt trong tổng số 3142 km chiều dài chỉ có 10 km khu gian Nông Sơn – Trà Kiệu được xem là đạt chuẩn. Kết cấu hại tầng đường sắt cơ bản cho đến lúc này vẫn là cảnh chắp vá, tiêu chuẩn thấp. Trên toàn mạng có 1777 cây cầu thì có hơn 1000 cây cầu yếu, 7000 thanh ray mòn, 2198 bộ ghi đang sử dụng phần lớn là ghi tâm ghép chất lượng kém, ray hộ bánh đều bị mòn, hỏng chưa được thay thế.
Ngoài ra hệ thống cung cấp điện không đảm bảo công suất cũng là nỗi bức xúc cho nhiều nhà đầu tư. Việc cắt điện triền miên, vô tội vạ đã gây thiệt hại cho rất nhiều doanh nghiệp. Và gây mất niềm tin nơi nhà đầu tư nước ngoài.
Chi phí cho việc thuê văn phòng cao, chi phí viễn thông còn kém hấp dẫn
Theo các kết quả điều tra khảo sát, chi phí cho việc thuê văn phòng tại Việt Nam ngang bằng với chi phí tại Singapore và cao gấp 2 lần so với chi phí thuê văn phòng tại Hàn Quốc.
Ngoài ra, chi phí viễn thông tại Việt Nam dù đã có nhiều cải thiện nhưng vẫn còn cao so với một số nước, cộng với chất lượng cung cấp không được như cam kết cũng là những khó khăn cho các nhà đầu tư.
Nguồn lao động có trình độ cao còn ít
Theo bộ lao động thương binh và xã hội, đến cuối năm 2007, tổng số lao động trong lĩnh vực khoa học công nghệ, bao gồm những người làm việc trực tiếp trong lĩnh vực nghiên cứu và triển khai, các viện, trung tâm nghiên cứu và triển khai công nghệ của cả nước là gần 40.000 người. Việt Nam hiện có khoảng 45,3 triệu lao động, trong đó ¾ là lao đông ở nông thôn. Sau nhiều năm phát triển, thị trường lao động Việt Nam vẫn chưa tương xứng với yêu cầu về nguồn lao động cho thị trường, hiện mới chỉ có 32% lao động đã qua đào tạo và tỷ lệ lao động đã có chứng chỉ đào tạo lao động ngắn hạn là 14,4%, Việt Nam thiếu trầm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao nên nhiều nghề và công việc phải thuê lao động nước ngoài điều này đã gây khó khăn cho các nhà đầu tư và làm tăng chi phí sản xuất.
Thủ tục hành chính còn rườm rà, dù đã có nhiều cải cách
Chính phủ đã cho thành lập cục đầu tư nước ngoài trực thuộc bộ kế hoạch đầu tư như một biện pháp cải cách thủ tục hành chính, thực hiện một cửa về đầu tư nước ngoài. Hoạt động của cục đã được dư luận, các nhà đầu tư và các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Tuy nhiên một số nhà đầu tư nước ngoài đề xuất “Chính phủ nên thành lập một ban đàm phán trung ương nhằm đảm bảo quy trình thương thuyết suôn sẻ và thích hợp. Mọi hợp đồng lớn có thể được thương thảo với một nhóm đàm phán có đủ thẩm quyền quyết định. Việc cấp phép nên thực hiện thông qua một quy trình tập trung mà không cần qua nhiều cấp trung gian”(P.V Hanoinet,2005).
Thiếu sự quan tâm đúng mức đến sự quảng bá hình ảnh và nâng cao chất lượng đầu tư tại Việt Nam
Vấn đề quan trọng là tăng cường giới thiệu một hình ảnh Việt Nam với môi trường đầu tư có sức hấp dẫn với cộng đồng bên ngoài. Mặc dù thời gian gần đây chính phủ liên tục có những cuộc xúc tiến đầu tư tầm quốc gia do chính những nguyên thủ thực hiện. Tuy nhiên hoạt động quảng bá này vẫn chưa đến được với số đông nhà đầu tư. Việt Nam cần xúc tiến thêm các buổi hội thảo xúc tiến đầu tư cả ở trong nước và ở nước ngoài điều này sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư quan tâm và muốn tìm hiểu về môi trường đầu tư tại Việt Nam. Qua đó họ sẽ quyết định có nên đầu tư hay không
Hệ thống pháp luật còn kém phát triển, vận hành pháp luật không rõ ràng
Quy định về bảo hộ sở hữu trí tuệ cũng khiến các nhà đầu tư nước ngoài quan ngại. Đại diện một doanh nghiệp lớn phát biểu, ở các nước như Hồng Kông, Singapore không có các công ty trùng tên. Còn ở Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều công ty sở hữu cùng một tên mà lại kinh doanh các ngành nghề khác nhau. Những cái tên: công ty TNHH Hòa Bình, công ty thương mại Hòa Bình, công ty quảng cáo Hòa Bình… rất dễ gây nhầm lẫn, kiện tụng.
Theo Jetro (tổ chức xúc tiến thương mại Nh