Đề án Các biện pháp hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản và giải pháp thích ứng của hàng nông sản Việt Nam

1. Tính tất yếu của đề án: Trong những năm gần đây, quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Nhật Bản ngày càng trở nên tốt đẹp, đánh dấu bằng những chuyến thăm chính thức lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao hai nước như chuyến thăm chính thức Nhật Bản của thủ tướng Việt Nam vào tháng 4 và tháng 12 năm 2003 đã nâng quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản lên một tầm cao mới theo phương châm “đối tác tin cậy, ổn định, lâu dài”. Chuyến thăm này cũng là cơ sở để hình thành Sáng kiến chung Việt - Nhật, trong đó có Kế hoạch hành động gầm 44 hạng mục với những cam kết cụ thể của hai Chính Phủ về những biện pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam. Được thực hiện thông qua việc rà soát, hoàn thiện các quy định về đầu tư, cải thiện các thể chế liên quan đến đầu tư và cải thiện cơ sở hạ tầng. Đến tháng 10 năm 2006, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã sang thăm chính thức Nhật Bản. Thủ tưóng hai nước đã ký Tuyên bố chung Việt - Nhật, nâng tầm quan hệ hai nước hướng tới quan hệ đối tác chiến lược vì hoà bình và phồn vinh ở Châu Á, cả hai thủ tướng đều nhất trí phấn đấu kim ngạch thương mại hai chiều sẽ đạt 15 tỷ USD vào năm 2015. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới và cũng là một thị trường lớn với dân số vào khoảng 128 triệu, có sức tiêu thụ rất lớn. Trong những năm gần đây, kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản ngày càng tăng: năm 2001 đạt 351 tỷ USD, năm 2004 đạt 454 tỷ USD và năm 2007 là 621 tỷ USD trong đó nông thuỷ sản, thực phẩm chiếm 51 tỷ USD ( 8,3% tổng kim ngạch xuất khẩu ). Vào năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 6,608 tỷ USD và Nhật Bản tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam sau Hoa Kỳ. Từ số liệu nêu trên có thể thấy Việt Nam mới chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ tại thị trường Nhật Bản ( 1% tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản ). Trong khi đó, thị phần của Trung Quốc là 20,5%, Thái Lan 2,94%, Malaixia 2,8%. Từ thực tiễn đó đòi hỏi chúng ta cần phải nghiên cứu thị trường Nhật Bản một cách sâu sắc hơn và đưa ra được những giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa giá trị xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Các mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản đó là nông thuỷ sản, đồ gỗ, hàng dệt may, đồ thủ công mỹ nghệ. Trong đó thì nông sản đóng một vai trò rất quan trọng. Các mặt hàng nông sản của Việt Nam cũng đang tạo đựơc uy tín và vị trí tại thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu còn thấp và còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “ các biện pháp hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản và giải pháp thích ứng của hàng nông sản Việt Nam” với mong muốn tìm hiểu về vấn đề này rõ ràng hơn. 2. Mục đích: - Làm rõ xu hướng và đặc điểm nhập khẩu nông sản của Nhật Bản trên các phương diện: nhu cầu, thị hiếu của thị trường, những rào cản nhằm hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản. - Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. - Đề xuất những giải pháp nhằm giúp hàng nông sản của Việt Nam có thể thích nghi với các rào cản của thị trường Nhật Bản và đẩy mạnh xuất khẩu. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng: Nghiên cứu về các biện pháp hạn chế xuất khẩu để bảo hộ nền sản xuất trong nước và bảo vệ người tiêu dùng của Nhật Bản cùng với những giải pháp nhằm giúp cho hàng nông sản Việt Nam có thể thích ứng với những rào cản đó. Phạm vi: Giới hạn về mặt nội dung nghiên cứu là mặt hàng nông sản xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản với các sản phẩm chính là cà phê, cao su và rau quả. 4. Phương pháp nghiên cứu: So sánh, phân tích, tổng hợp số liệu thống kê, báo cáo thực tiễn. 5. Kết cấu đề án: Ngoài phần mở đầu, mục lục và danh sách tài liệu tham khảo, đề án gồm 3 chương : Chương 1: Những vấn đề chung về các biện pháp hạn chế nhập khẩu và đặc điểm thị trường Nhật Bản. Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản và khả năng thích ứng. Chương 3: Dự báo và giải pháp tăng khả năng thích ứng của hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản.

doc58 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2823 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các biện pháp hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản và giải pháp thích ứng của hàng nông sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu 1. Tính tất yếu của đề án: Trong những năm gần đây, quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Nhật Bản ngày càng trở nên tốt đẹp, đánh dấu bằng những chuyến thăm chính thức lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao hai nước như chuyến thăm chính thức Nhật Bản của thủ tướng Việt Nam vào tháng 4 và tháng 12 năm 2003 đã nâng quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản lên một tầm cao mới theo phương châm “đối tác tin cậy, ổn định, lâu dài”. Chuyến thăm này cũng là cơ sở để hình thành Sáng kiến chung Việt - Nhật, trong đó có Kế hoạch hành động gầm 44 hạng mục với những cam kết cụ thể của hai Chính Phủ về những biện pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam. Được thực hiện thông qua việc rà soát, hoàn thiện các quy định về đầu tư, cải thiện các thể chế liên quan đến đầu tư và cải thiện cơ sở hạ tầng. Đến tháng 10 năm 2006, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã sang thăm chính thức Nhật Bản. Thủ tưóng hai nước đã ký Tuyên bố chung Việt - Nhật, nâng tầm quan hệ hai nước hướng tới quan hệ đối tác chiến lược vì hoà bình và phồn vinh ở Châu Á, cả hai thủ tướng đều nhất trí phấn đấu kim ngạch thương mại hai chiều sẽ đạt 15 tỷ USD vào năm 2015. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới và cũng là một thị trường lớn với dân số vào khoảng 128 triệu, có sức tiêu thụ rất lớn. Trong những năm gần đây, kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản ngày càng tăng: năm 2001 đạt 351 tỷ USD, năm 2004 đạt 454 tỷ USD và năm 2007 là 621 tỷ USD trong đó nông thuỷ sản, thực phẩm chiếm 51 tỷ USD ( 8,3% tổng kim ngạch xuất khẩu ). Vào năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 6,608 tỷ USD và Nhật Bản tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam sau Hoa Kỳ. Từ số liệu nêu trên có thể thấy Việt Nam mới chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ tại thị trường Nhật Bản ( 1% tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản ). Trong khi đó, thị phần của Trung Quốc là 20,5%, Thái Lan 2,94%, Malaixia 2,8%. Từ thực tiễn đó đòi hỏi chúng ta cần phải nghiên cứu thị trường Nhật Bản một cách sâu sắc hơn và đưa ra được những giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa giá trị xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Các mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản đó là nông thuỷ sản, đồ gỗ, hàng dệt may, đồ thủ công mỹ nghệ. Trong đó thì nông sản đóng một vai trò rất quan trọng. Các mặt hàng nông sản của Việt Nam cũng đang tạo đựơc uy tín và vị trí tại thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu còn thấp và còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “ các biện pháp hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản và giải pháp thích ứng của hàng nông sản Việt Nam” với mong muốn tìm hiểu về vấn đề này rõ ràng hơn. 2. Mục đích: - Làm rõ xu hướng và đặc điểm nhập khẩu nông sản của Nhật Bản trên các phương diện: nhu cầu, thị hiếu của thị trường, những rào cản nhằm hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản. - Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. - Đề xuất những giải pháp nhằm giúp hàng nông sản của Việt Nam có thể thích nghi với các rào cản của thị trường Nhật Bản và đẩy mạnh xuất khẩu. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng: Nghiên cứu về các biện pháp hạn chế xuất khẩu để bảo hộ nền sản xuất trong nước và bảo vệ người tiêu dùng của Nhật Bản cùng với những giải pháp nhằm giúp cho hàng nông sản Việt Nam có thể thích ứng với những rào cản đó. Phạm vi: Giới hạn về mặt nội dung nghiên cứu là mặt hàng nông sản xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản với các sản phẩm chính là cà phê, cao su và rau quả. 4. Phương pháp nghiên cứu: So sánh, phân tích, tổng hợp số liệu thống kê, báo cáo thực tiễn. 5. Kết cấu đề án: Ngoài phần mở đầu, mục lục và danh sách tài liệu tham khảo, đề án gồm 3 chương : Chương 1: Những vấn đề chung về các biện pháp hạn chế nhập khẩu và đặc điểm thị trường Nhật Bản. Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản và khả năng thích ứng. Chương 3: Dự báo và giải pháp tăng khả năng thích ứng của hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Chương 1: Những vấn đề chung về các biện pháp hạn chế nhập khẩu và đặc điểm thị trường Nhật Bản 1.1 Những vấn đề chung về các biện pháp hạn chế nhập khẩu 1.1.1 Các công cụ và biện pháp hạn chế nhập khẩu. 1.1.1.1 Thuế quan Nhật Bản áp dụng 4 hệ thống thuế như sau : - Thuế suất chung: mức thuế cơ bản căn cứ vào Luật thuế quan hải quan, áp dụng trong một thời gian dài. - Thuế suất tạm thời: là thuế suất trong một thời gian ngắn, thay thế cho thuế suất chung. - Thuế suất ưu đãi phổ cập ( GSP): là mức thuế áp dụng cho các nước đang phát triển hay các khu vực lãnh thổ. Mức thuế có thể thấp hơn mức thuế đang áp dụng cho các nước phát triển. Hệ thống GSP của Nhật Bản bắt đầu có hiệu lực vào từ ngày 1\8\1971. - Thuế suất WTO: là mức thuế căn cứ vào cam kết WTO và các hiệp định quốc tế khác. Về nguyên tắc, mức thuế áp dụng theo thứ tự mức thuế GSP, mức thuế WTO, mức thuế tạm thời và mức thuế chung. Tuy nhiên, mức thuế GSP chỉ được áp dụng trong trường hợp thoả mãn các điều kiện cần thiết mà Nhật Bản đưa ra như : là nước đang phát triển, là thành viên của hiệp ước Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển ( UNCTAD ), là quốc gia mà Nhật Bản cho là thích hợp để hưởng quy chế GSP... Đối với mức thuế WTO, nó chỉ được áp dụng khi thấp hơn cả mức thuế tạm thời và mức thuế chung. Như vậy, mức thuế chung là mức thuế áp dụng cho các nước không phải là thành viên của WTO. Trong trường hợp mức thuế tạm thời thấp hơn các mức thuế trên, nó sẽ được áp dụng. 1.1.1.2 Các biện pháp hạn chế định lượng Hạn ngạch nhập khẩu. Tại Nhật Bản, hạn ngạch nhập khẩu được tính toán trên cơ sở dự đoán các nhu cầu về hàng hóa và khả năng sản xuất của các doanh nghiệp trong nước. Vào đầu và giữa năm tài chính ( từ tháng 4 năm trước đến tháng 4 năm tiếp theo), Bộ Công nghiệp và Ngoại Thương ( MITI) Nhật Bản phê chuẩn những mặt hàng nhập khẩu theo quy chế hạn ngạch được ghi rõ trong thông báo nhập khẩu. Trong thông báo hàng năm của MITI có quy định rõ trình tự các bước để xin hạn ngạch cho một mặt hàng hay một nhóm mặt hàng. Khi nhập khẩu các mặt hàng có quy định hạn ngạch, nhà nhập khẩu phải xin hạn ngạch nhập khẩu trước của MITI, thì mới xin được giấy phép của ngân hàng quản lý ngoại hôi hay của cơ quan quản lý khác. Hạn ngạch được áp dụng với 3 nhóm hàng sau: - Các mặt hàng thương mại thuộc kiểm soát của nhà nước, bao gồm vũ khí, rượu, chất nổ, súng cầm tay và dao, vật liệu hạt nhân, ma tuý và các thực phẩm chịu sự kiểm soát ( như gạo ). - Những mặt hàng hạn chế nhập khẩu - Các loại thực vật và động vật có tên trong Bản phụ lục I của Công ước về thương mại quốc tế về các loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng trong hệ thống động thực vật(CITES). Theo các quy định trước đây của Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch GATT (nay là tổ chức thương mại thế giới WTO) thì các nước thành viên của tổ chức này không được sử dụng hạn ngạch để tạo rào cản phi thuế quan cản trở buôn bán với các nước khác. Tuy nhiên, các nước có thể sử dụng hạn ngạch trong một số trường hợp ngoại lệ như : để bảo hộ nông nghiệp, chống bán phá giá và đảm bảo an toàn tạm thời trong trường hợp hàng nhập khẩu có thể làm tổn thương các ngành công nghiệp khác. Hạn ngạch thuế quan Chế độ hạn ngạch thuế là chế độ, trong đó quy định áp dụng mức thuế bằng không (0%) hoặc thấp đối với những hàng hoá được nhập khẩu theo đúng số lượng quy định, nhằm cung cấp với giá hợp lý cho người tiêu dùng. Khi hàng hoá vượt quá số lượng quy định thì sẽ áp dụng mức thuế cao để bảo vệ các nhà sản xuất trong nước. Chế độ hạn ngạch nhập khẩu thuế được thiết lập dựa trên quan điểm đảm bảo hài hoà mục tiêu bảo vệ người tiêu dùng và mục tiêu bảo hộ người sản xuất nội địa. Vì vậy, chính phủ phải dựa trên cơ sở xem xét cung cầu, thực trạng sản xuất trong nước để đề ra mức thuế lần một, lần hai và thời gian áp dụng... để không cản trở tự do hoá thương mại. Trong các quy định của GATT/WTO, các nước thành viên không được sử dụng chế dộ hạn ngạch nhập khẩu, nhưng lại thừa nhận chế độ hạn ngạch thuế với điều kiện không có sự phân biệt đối xử với từng nước. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện Là một dạng của hạn chế nhập khẩu, là thoả thuận theo đó một nước đồng ý hạn chế xuất khẩu của mình sang nước khác đối với một mặt hàng xác định, với một mức tối đa. Các thoả thuận này là tự nguyện chỉ ở mức độ nước xuất khẩu muốn tránh một mối đe doạ lớn hơn đối với ngoại thương của mình và do đó chọn biện pháp ít thiệt hại hơn. Tuy nhiên, đây là biện pháp tạm thời và không có hiệu quả. Bởi vì biện pháp này có thể giúp làm giảm lượng xuất khẩu của một nước nhưng lại bóp méo quá trình tự do ngoại thương và dẫn đến việc phân phối các nguồn tài nguyên quốc gia và quốc tế một cách kém hiệu quả. Tại Nhật Bản, vào cuối những năm 50 đã phải thực hiện hạn chế xuất khẩu tự nguyện đối với các sản phẩm dệt và một số mặt hàng sử dụng nhiều lao động. Giấy phép nhập khẩu Hầu hết các mặt hàng nhập khẩu vào Nhật Bản không cần giấy phép của Bộ Công Nghiệp và Ngoại thương. Nhưng các mặt hàng sau vẫn cần giấy phép nhập khẩu : - Hàng hoá liệt kê trong thông báo nhập khẩu thực hiện quản lý bằng hạn ngạch. - Hàng hoá sản xuất hay vận chuyển từ các quốc gia, khu vực quy định trong thông báo nhập khẩu đòi hỏi phải có giấy phép nhập khẩu. - Hàng hoá đòi hỏi phương thức thanh toán đặc biệt. - Hàng hoá cần sự xác nhận của hải quan về nhập khẩu và phải đáp ứng được các quy định đặc biệt của chính phủ, như các loại vắcxin nghiên cứu. 1.1.1.3 Các biện pháp hành chính kỹ thuật. Đây là nhóm các biện pháp gián tiếp ngăn cản và giám sát hàng nhập khẩu từ nước ngoài vào thị trường Nhật Bản. Các biện pháp hành chính kỹ thuật rất phong phú và đa dạng. Chúng tuỳ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Tại Nhật Bản, các biện pháp hành chính được áp dụng rât đa dạng và nó đã hình thành nên một rào cản rất lớn đối với doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường Nhật Bản. Trong quan hệ ngoại thương, giá cả thường rất quan trọng. Tuy nhiên, tại thị trường Nhật Bản thì chất lượng của sản phẩm được đặt lên hàng đầu. Ngay cả đối với những mặt hàng rẻ tiền, hạ giá thì người tiêu dùng Nhật Bản cũng rất quan tâm đến chất lượng và độ an toàn của mặt hàng đó. Thực tế là là các tiêu chuẩn về chất lượng và độ an toàn của hàng hoá của Nhật Bản còn cao hơn và chặt chẽ hơn so với yêu cầu thông thường và các tiêu chuẩn quốc tế. Vì vậy nên các sản phẩm của Nhật Bản thường có chất lượng cao và dễ tràn ngập vào các thị truờng các nước khác. Các dấu chứng nhận chất lượng mà Nhật Bản sử dụng có thể kể đến như : Tiêu chuẩn “JIS” Dấu chứng nhận tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản “ JIS” là một trong những dấu được sử dụng rộng rãi nhất ở Nhật Bản. Tiêu chuẩn này dựa trên “luật tiêu chuẩn hoá công nghiệp” được ban hành vào tháng 6 năm 1949. Dấu JIS được áp dụng cho tất cả các sản phẩm công nghiệp và khoáng sản, trừ những sản phẩm được áp dụng các tiêu chuẩn chuyên ngành như dược phẩm, phân hoá học, sợi tơ tằm, thực phẩm và các sản phẩm nông nghiệp khác được quy định trong luật về tiêu chuẩn hoá và dán nhãn các sản phẩm nông lâm sản. Các nhà sản xuất trong nước hay nước ngoài muốn được cấp giấy chứng nhận JIS phải làm đơn xin cấp giấy chứng nhận này. Bộ trưởng bộ Công nghiệp và ngoại thương có phê đuyệt đơn xin phép cấp JIS cho nhà sản xuất hay không dựa vào kết luận của Hội đồng thẩm định. Quyết định của Bộ trưởng sẽ được thông báo cho người nộp đơn. Nếu đơn xin phép được phê duyệt thì sẽ đăng trên Công báo. Thời gian cần thiết kể từ khi nộp đơn cho đến lúc nhận được quyết định và thông báo là 3 tháng. Tiêu chuẩn “JAS” Luật tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản được ban hành vào tháng 5 năm 1970. Luật này quy định các tiêu chuẩn về chất lượng và đóng dấu chất lượng tiêu chuẩn JAS. Danh sách các sản phẩm được điều chỉnh bởi Luật JAS bao gồm: đồ uống, thực phẩm chế biến, dầu ăn và mỡ, các nông, lâm thuỷ sản chế biến. Các tiêu chuẩn JAS bao quát cả sản phẩm được sản xuất trong nước và các sản phẩm nhập khẩu. Tại Nhật Bản việc sử dụng dấu chứng nhận sản phẩm JAS lên nhãn hiệu sản phẩm là tự nguyện và các nhà sản xuất cũng như các nhà bán lẻ không bị bắt buộc phải sản xuất hay kinh doanh các sản phẩm có chất lượng tiêu chuẩn JAS. Tuy nhiên, các quy định về việc ghi nhãn mác sản phẩm là bắt buộc với những sản phẩm do bộ Nông – Lâm – Ngư nghiệp quy định. Người tiêu dùng Nhật Bản rất tin tưởng vào chất lượng của các sản phẩm đã được đóng dấu JAS. Vì vậy, các nhà sản xuất nước ngoài khi xuất khẩu hàng hoá vào Nhật Bản có được dấu chứng nhận chất lượng JAS sẽ tạo thuận lợi cho việc tiêu thụ hàng hoá của mình tại đây. Các dấu chứng nhận chất lượng khác: Ngoài dấu chứng nhận chất lượng JIS và JAS còn có nhiều loại dấu chứng nhận khác được sử dụng ở Nhật Bản. Ví dụ, các dấu chứng nhận sau đang được sử dụng tại Nhật Bản : Bảng 1.1 Một số dấu chất lượng của Nhật Bản Dấu chất lượng  Ý nghĩa  Phạm vi áp dụng   Dấu Q  Chất lượng và đo độ đồng nhất của sản phẩm.  Các loại sản phẩm dệt, bao gồm quần áo trẻ em, các loại quần áo khác, khăn trải giường.   Dấu G  Thiết kế, dịch vụ sau khi bán hàng và chất lượng  Các sản phẩm như máy ảnh, máy móc, thiết bị, đồ thuỷ tinh, đồ gốm, đồ văn phòng, đồ nội thất   Dấu S  Độ an toàn (bắt buộc)  Hàng hoá dành cho trẻ em, đồ dùng gia dụng, dụng cụ thể thao.   Dấu SG  Độ an toàn ( bắt buộc)  Xe đạp, xe đẩy, nồi áp suất, mũ đi xe đạp, mũ bóng cháy và các hàng hoá khác.   Dấu SIF  Các hàng may mặc có chất lượng tốt  Hàng may mặc như quần áo nam,quần áo nữ, ô, áo khoác, balô và các sản phẩm phục vụ cho thể thao   Dấu Len  Các hàng may mặc có chất lượng tốt.  Sợi len nguyên chất, quần áo len nguyên chất, đồ len đan.   Nguồn : Nguyễn Hữu Khải, “Hàng rào phi thuế quan trong chính sách thương mại quốc tế”, trang 155 – 156. 1.1.1.4 Các biện pháp quản lý khác. Ngoài các tiêu chuẩn chất lượng khắt khe đối với hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu, Nhật Bản còn ban hành nhiều văn bản pháp luật cơ bản điều chình các hàng hoá mà có thể gây nguy hại đến sức khoẻ, vệ sinh, đạo đức và sự an toàn chung của người dân Nhật: Tiêu chuẩn môi trường. Vấn đề môi trường cũng rất được quan tâm tại Nhật Bản. Cục môi trường Nhật Bản đang khuyến khích người tiêu dùng sử dụng các sản phẩm không làm hại sinh thái ( kể cả các sản phẩm trong nước cũng như các sản phẩm nhập khẩu ). Các sản phẩm đạt được ít nhất một trong các tiêu chuẩn dưới đây sẽ được đóng dấu “Ecomark”: 1. Việc sử dụng sản phẩm đó không gây ô nhiễm tới môi trường hoặc có nhưng ít. 2. Việc sử dụng sản phẩm đó mang lại nhiều lợi ích cho môi trường. 3. Chất thải sau khi sử dụng không gây hại cho môi trường hoặc gây hại ít. 4. Sản phẩm đóng góp đáng kể vào việc bảo vệ môi trường theo các cách khác không được kể đến ở trên. Ecomark được ban hành năm 1989, và được rất nhiều người Nhật biết đến. Ecomark không đưa ra các tiêu chuẩn và cũng không nói lên chất lượng cũng như tính an toàn của sản phẩm. Các công ty nước ngoài có thể xin dấu chứng nhận Ecomark thông qua các nhà nhập khẩu. Luật vệ sinh thực phẩm. Luật vệ sinh thực phẩm ra đời và có hiệu lực từ năm 1947. Luật này áp dụng cho tât cả các hàng hoá liên quan đến thực phẩm, các gia vị, dụng cụ chứa, các máy móc chế biến thực phẩm và đồ chơi trẻ em. Hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu đều phải tuân theo những quy định của Luật như nhau. Bộ Y tế và Phúc lợi sẽ chịu trách nhiệm thực thi và quản lý vệ sinh thực phẩm Khi xuất hàng sang Nhật Bản, các nhà xuất khẩu nước ngoài phải hiểu được các quy định về luật pháp phức tạp liên quan đến vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm. Ví dụ như : theo quy định thực phẩm sản xuất tại nước xuất xứ phải theo phương pháp phù hợp với Luật vệ sinh thực phẩm của Nhật Bản. Do đó, đồ uống, chân giò, xúc xích, thịt lợn nuôi và thịt bò nuôi đưa vào bán tại thị trường Nhật Bản phải được khử trùng ở nhiệt độ theo quy định sản xuất tại Nhật Bản. Trong nhiều truờng hợp, do thiếu hiểu biết về các quy định vệ sinh, an toàn thực phẩm nên các sản phẩm của các nhà xuất khẩu bị cấm không được đưa vào Nhật Bản. Hàng đã dỡ xuống cầu cảng lại bị gửi trả lại do không đáp ứng được tiêu chuẩn. Điều này đã từng xảy ra với mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam. Do không tìm hiểu các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm của Nhật Bản nên hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản có dư lượng kháng sinh vượt quá mức cho phép. Nhiều lô hàng đã bị trả lại và các đơn hàng tiếp theo đều chịu sự kiểm soát rất gắt gao của cơ quan quản lý Nhật. Chính vì vậy, đây chính là một rào cản cần nghiên cứu kỹ để tránh những thiệt hại kinh tế lớn có thể xảy ra. Luật kiểm dịch thực vật. Được ban hành nhằm chống lại sự xâm nhập của sâu bệnh và các căn bệnh ở cây trồng. Trong Luật kiểm dịch quy định rõ các mặt hàng cấm nhập khẩu, các đối tượng kiểm tra và tổ chức việc kiểm tra rât cụ thể, chặt chẽ. Nếu khi kiểm tra hàng nhập khẩu mà phát hiện các lô hàng này bị nhiễm bệnh hay sâu hại thì các hàng này bị huỷ bỏ hoặc trả lại nước xuất khẩu. Đồng thời, việc xuất khẩu các rau quả thực vật bị cấm cho tới khi nguồn gốc sâu hại, bệnh tật được tìm ra. Luật chống các bệnh truyền nhiễm Do áp dụng luật này nên Nhật Bản là một trong số ít nước có vật nuôi không mắc bệnh truyền nhiễm, lây lan qua virus. Nhật cũng là một trong ít nước không có bệnh dại. Luật chống các bệnh truyền nhiễm được áp dụng với các đối tượng sau: - Súc vật mong chẻ (gia súc, lợn, cừu, dê…). - Ngựa. - Gia cầm và trứng. - Thỏ và ong mật. - Xương, thịt, mỡ, máu, da thú, lông chim, móng, gân. - Xúc xích, chân giò và thịt muối. Các công cụ và biện pháp hạn chế nhập khẩu được chính phủ Nhật Bản áp dụng có thể tổng hợp lại như sau : Bảng 1.2: Công cụ và biện pháp hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản TT  Tác động Công cụ  Tích cực  Hạn chế  Áp dụng   1  Thuế quan  Bảo hộ cho hàng hoá sản xuất trong nước. Tăng thu ngân sách  Làm tăng giá sản phẩm, người dân ít có cơ hội sử dụng hàng hoá ngoại nhập với giá rẻ.  Áp dụng 4 hệ thống thuế như đã trình bày ở trên.   2  Hạn ngạch nhập khẩu  Bảo hộ cho nến sản xuất trong nước, ngăn chạn sự xâm nhập của hàng hoá ngoại nhập.  Gây cản trở mậu dịch tự do, có thể dẫn đến sự trả đũa của đối phương.  Sử dụng trong một số trường hợp như : bảo hộ nông nghiệp, chống bán phá giá, bảo vệ nền sản xuất trong nước   3  Hạn ngạch thuế quan  Bảo vệ người tiêu dùng và bảo hộ sản xuất nội địa.  Cản trở tự do hoá thương mại.  Không phân biệt đối xử với từng quốc gia.   4  Hạn chế xuất khẩu tự nguyện  Bảo hộ sản xuất nội địa.  Gây ảnh hưởng tới tự do ngoại thuơng và phân phôi các nguồn tài nguyên  Có sự đồng ý của đối phương.   5  Giấy phép nhập khẩu  Hạn chế sự xâm nhập của hàng hoá ngoại nhập.   Áp dụng với một số mặt hàng đặc thù.   6  Tiêu chuẩn JIS  Phân biệt các hàng hoá công nghiệp đã đáp ứng được chất lượng yêu cầu của Nhật.  Thời gian xin giấy phép khá lâu, có thể làm mất thời cơ kinh doanh.  Áp dụng cho tất cả các sản phẩm công nghiệp và khoáng sản.   7  Tiêu chuẩn JAS  Phân biệt các hàng hoá nông nghiệp đã đáp ứng đựoc chất lượng yêu cầu của Nhật  Thời gian xin giấy phép khá lâu, có thể làm mất thời cơ kinh doanh.  Áp dụng cho đồ uống, thực phẩm chế biến, dầu ăn và mỡ, các nông, lâm thuỷ sản chế biến.   8  Các dấu chất lượng khác  Chứng nhận chất lượng của hàng hoá.   Áp dụng với các sản phẩm được liệt kê trong bảng 1.1   9  Tiêu chuẩn môi trường  Ngăn chặn các sản phẩm gây ô nhiễm môi trường.   Không mang tính bắt buộc.   10  Luật vệ sinh thực phẩm  Bảo vệ sức khoẻ của nguời tiêu dùng.  Các quy định rất là phức tạp, có thể gây nhiều thiệt hại nếu không tìm hiểu kỹ.  Áp dụng cho các hàng hóa liên quan đến thực phẩm, gia vị…   11  Luật kiểm dịch thực vật  Ngăn chặn sự xâm nhập của sâu bệnh và các căn bệnh ở cây trồng   Áp d
Luận văn liên quan