Tháng 11 năm 2006 Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Có thể nói đây là mốc đánh dấu sự thay đổi lớn trong tiến trình phát triển nền kinh tế của Việt Nam. Bên cạnh sự kiện này, sự phát triển, mở rộng theo chiều hướng đa dạng hóa, đa phương hóa của nền kinh tế thị trường đã tạo ra nhiều cơ hội lớn cho các cá nhân, tổ chức kinh tế tại Việt Nam, đồng thời cũng phải đối mặt với những thử thách và cạnh tranh gay gắt.
Sự hình thành và lớn mạnh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước trong một môi trường kinh doanh tạo nên nhiều kênh thông tin tài chính khác nhau. Nhu cầu sử dụng thông tin tài chính ngày càng nhiều và đa dạng do đó đặt ra yêu cầu cung cấp những thông tin về tính chính xác và kịp thời ngày càng tăng. Trong xu thế phát triển tất yếu đó, dịch vụ kiểm toán là có uy tín nhất trong việc thẩm định thông tin tài chính của các doanh nghiệp. Những người quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp coi báo cáo kiểm toán là ý kiến cuối cùng trong việc thẩm định, xác minh tính trung thực, hợp lý của BCTC.
Thực tế cho thấy, yêu cầu đặt ra với dịch vụ kiểm toán là rất lớn song các công ty kiểm toán hiện nay đã làm việc thực sự có hiệu quả hay chưa? Có hay không những vụ kiện tụng của khách hàng đối với các công ty kiểm toán? Trong điều kiện môi trường với những rủi ro ngày càng tăng lên, KTV làm thế nào để đưa ra kết luận cuối cùng trung thực nhất? Một trong những đầu tiên và quan trọng nhất để đi báo cáo kiểm toán chính xác là lập kế hoạch kiểm toán chu đáo. Việc lập kế hoạch kiểm toán không chỉ xuất phát từ yêu cầu chính của cuộc kiểm toán nhằm chuẩn bị những điều kiện cơ bản trong công tác kiểm toán, cho cuộc kiểm toán mà còn là nguyên tắc cơ bản trong công tác kiểm toán đã được quy định thành chuẩn mực và đòi hỏi các KTV phải tuân theo đầy đủ nhằm đảm bảo tiến hành công tác kiểm toán có hiệu quả và chất lượng. Trong đó việc đánh giá đúng đắn tính trọng yếu và rủi ro kiểm toán có vai trò đặc biệt quan trọng, là cơ sở để xây dựng các bước công việc kế tiếp và ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của toàn cuộc kiểm toán. Xuất phát từ những điểm trên, tôi đã đi sâu vào tìm hiểu đề tài: “Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán BCTC”.
Bài viết được chia thành hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc đánh giá tính trọng yếu và rủi ro trong lập kế hoạch kiểm toán BCTC
Chương 2: Thực trạng của đánh giá trọng yếu và rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán BCTC tại một số công ty kiểm toán Việt Nam
32 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4498 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán báo cáo tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Tháng 11 năm 2006 Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Có thể nói đây là mốc đánh dấu sự thay đổi lớn trong tiến trình phát triển nền kinh tế của Việt Nam. Bên cạnh sự kiện này, sự phát triển, mở rộng theo chiều hướng đa dạng hóa, đa phương hóa của nền kinh tế thị trường đã tạo ra nhiều cơ hội lớn cho các cá nhân, tổ chức kinh tế tại Việt Nam, đồng thời cũng phải đối mặt với những thử thách và cạnh tranh gay gắt.
Sự hình thành và lớn mạnh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước trong một môi trường kinh doanh tạo nên nhiều kênh thông tin tài chính khác nhau. Nhu cầu sử dụng thông tin tài chính ngày càng nhiều và đa dạng do đó đặt ra yêu cầu cung cấp những thông tin về tính chính xác và kịp thời ngày càng tăng. Trong xu thế phát triển tất yếu đó, dịch vụ kiểm toán là có uy tín nhất trong việc thẩm định thông tin tài chính của các doanh nghiệp. Những người quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp coi báo cáo kiểm toán là ý kiến cuối cùng trong việc thẩm định, xác minh tính trung thực, hợp lý của BCTC.
Thực tế cho thấy, yêu cầu đặt ra với dịch vụ kiểm toán là rất lớn song các công ty kiểm toán hiện nay đã làm việc thực sự có hiệu quả hay chưa? Có hay không những vụ kiện tụng của khách hàng đối với các công ty kiểm toán? Trong điều kiện môi trường với những rủi ro ngày càng tăng lên, KTV làm thế nào để đưa ra kết luận cuối cùng trung thực nhất? Một trong những đầu tiên và quan trọng nhất để đi báo cáo kiểm toán chính xác là lập kế hoạch kiểm toán chu đáo. Việc lập kế hoạch kiểm toán không chỉ xuất phát từ yêu cầu chính của cuộc kiểm toán nhằm chuẩn bị những điều kiện cơ bản trong công tác kiểm toán, cho cuộc kiểm toán mà còn là nguyên tắc cơ bản trong công tác kiểm toán đã được quy định thành chuẩn mực và đòi hỏi các KTV phải tuân theo đầy đủ nhằm đảm bảo tiến hành công tác kiểm toán có hiệu quả và chất lượng. Trong đó việc đánh giá đúng đắn tính trọng yếu và rủi ro kiểm toán có vai trò đặc biệt quan trọng, là cơ sở để xây dựng các bước công việc kế tiếp và ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của toàn cuộc kiểm toán. Xuất phát từ những điểm trên, tôi đã đi sâu vào tìm hiểu đề tài: “Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán BCTC”.
Bài viết được chia thành hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc đánh giá tính trọng yếu và rủi ro trong lập kế hoạch kiểm toán BCTC
Chương 2: Thực trạng của đánh giá trọng yếu và rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán BCTC tại một số công ty kiểm toán Việt Nam
Chương 1 Cơ sở lý luận của việc đánh giá tính trọng yếu và rủi ro trong lập kế hoạch kiểm toán BCTC
1.1 Khái quát chung về lập kế hoạch kiểm toán BCTC
1.1.1 Khái niệm lập kế hoạch kiểm toán BCTC
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300: Kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải lập kế hoạch kiểm toán để đảm bảo cuộc kiểm toán được tiến hành một cách có hiệu quả.
Kế hoạch chiến lược: Là định hướng cơ bản, nội dung trọng tâm và phương pháp tiếp cận chung của cuộc kiểm toán do cấp chỉ đạo vạch ra dựa trên hiểu biết về tình hình hoạt động và môi trường kinh doanh của đơn vị được kiểm toán.
Kế hoạch kiểm toán tổng thể: Là việc cụ thể hoá kế hoạch chiến lược và phương pháp tiếp cận chi tiết về nội dung, lịch trình và phạm vi dự kiến của các thủ tục kiểm toán. Mục tiêu của việc lập kế hoạch kiểm toán tổng thể là để có thể thực hiện công việc kiểm toán một cách có hiệu quả và theo đúng thời gian dự kiến.
1.1.2 Ý nghĩa của lập kế hoạch kiểm toán BCTC
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên của một cuộc kiểm toán có vai trò quan trọng, chi phối tới chất lượng và hiệu quả chung của toàn bộ cuộc kiểm toán. Ý nghĩa của giai đoạn này được thể hiện qua một số điểm sau:
Kế hoạch kiểm toán giúp kiểm toán viên thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán có giá trị, hạn chế được sai sót, giảm thiểu trách nhiệm pháp lý, nâng cao hiệu quả công việc và giữ được uy tín nghề nghiệp.
Giúp kiểm toán viên phối hợp với nhau và với các bộ phận liên quan.
Là căn cứ tránh những bất đồng với khách hàng.
Là căn cứ để kiểm soát và đánh giá chất lượng công việc kiểm toán đã và đang thực hiện.
1.2 Vai trò của việc đánh giá tính trọng yếu và rủi ro trong lập kế hoạch kiểm toán
Bảng 1:Trình tự các bước trong lập kế hoạch kiểm toán
Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán
Lập kế hoạch kiểm toán toàn diện và soạn thảo chương trình kiểm toán
Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát
Đánh giá trọng yếu, rủi ro kiểm toán
Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng
Thu thập thông tin cơ sở
Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro: Sau khi thu thập những thông tin mang tính khách quan về khách hàng, trong bước này, kiểm toán viên sẽ căn cứ vào các thông tin đã thu thập được để đánh giá, nhận xét nhằm đưa ra một chiến lược, kế hoạch kiểm toán phù hợp.
1.3 Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro trong lập kế hoạch kiểm toán BCTC
1.3.1 Khái niệm trọng yếu
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Trọng yếu” chỉ một sự vật, hiện tượng then chốt, thiết yếu. Sự vật, hiện tượng hay địa danh đi kèm với trọng yếu đều mang ý nghĩa quan trọng. Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, trọng yếu mang một ý nghĩa cụ thể riêng.
Trong lĩnh vực đầu tư, vấn đề trọng yếu được xác định ngay từ đầu khi quyết định ngành nghề nào cần được đầu tư, những khâu công việc nào là then chốt nhằm đảm bảo hiệu quả của vốn đầu tư.
Trong lĩnh vực kế toán, khái niệm “trọng yếu” được nhắc đến là một trong các nguyên tắc kế toán chung được chấp nhận. Nguyên tắc trọng yếu yêu cầu chú trọng đến những vấn đề mang tính thận trọng, quyết định bản chất và nội dung của sự vật, sự kiện kinh tế phát sinh, không quan tâm đến những yếu tố có ít tác dụng trong Báo cáo tài chính.
Trong lĩnh vực kiểm toán, khái niệm trọng yếu thường xuyên được nhắc đến, được định nghĩa trong rất nhiều các tài liệu về kiểm toán, đặc biệt là kiểm toán BCTC.
Văn bản chỉ đạo kiểm toán Quốc tế số 25 (IAG 25), do Liên đoàn kế toán Quốc tế (IFAC) soạn thảo và công bố, định nghĩa: “Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ, bản chất của sai phạm (kể cả bỏ sót) thông tin tài chính, hoặc là đơn lẻ, hoặc là từng nhóm, mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì sẽ không chính xác hoặc là sẽ rút ra những kết luận sai lầm”.
Chuẩn mực kiểm toán Quốc tế số 320 (VSA 320) về tính trọng yếu trong kiểm toán đã định nghĩa: “ Thông tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót hoặc sai sót của thông tin đó có thể ảnh hưởng tới quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC. Tính trọng yếu phụ thuộc vào mức độ quan trọng của các khoản mục hay sai sót được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ sót hoặc sai sót đó. Vì thế tính trọng yếu là một ngưỡng hoặc một điểm định tính cơ bản mà một thông tin hữu ích cần phải có”.
Trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 (VSA 320): “Tính trọng yếu trong kiểm toán”, trọng yếu được định nghĩa như sau: “Là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin (một số liệu kế toán) trong BCTC. Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hoặc thiếu tính chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng BCTC. Mức trọng yếu tùy thuộc vào tầm quan trọng và tính chất của thông tin hay của sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Mức độ trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là nội dung của thông tin cần phải có. Tính trọng yếu của thông tin phải xem xét trên cả phương diện định lượng và định tính”.
Trong cuộc sống và một số lĩnh vực, thông thường khái niệm trọng yếu được hiểu một cách tương đồng với khái niệm trọng tâm, dùng để thể hiện sự quan trọng, thiết yếu. Trọng tâm của một kế hoạch đầu tư hay một chiến lược kinh doanh sẽ bao gồm những vấn đề trọng yếu cần ưu tiên giải quyết. Tuy nhiên về bản chất, hai khái niệm này không hoàn toàn tương đồng với nhau, Trọng yếu là khái niệm liên quan đến bản chất của sự vật, hiện tượng nhiều hơn và mang tính cố hữu nhiều hơn khái niệm trọng tâm. Trong lĩnh vực kiểm toán, khái niệm trọng yếu và trọng tâm kiểm toán thể hiện sự phân biệt khá rõ ràng. Khái niệm trọng tâm kiểm toán thường liên quan đến công việc thực tế của KTV, đó là những bước công việc cần thiết và quan trọng mà KTV cần phải chú trọng trong suốt quá trình tiến hành cuộc kiểm toán. Trong khi đó khái niệm trọng yếu thường liên quan trực tiếp đến từng khoản mục, từng phần hành kế toán, các thông tin tài chính và bản chất cụ thể của từng khoản mục, phần hành, thông tin đó. Một khoản mục được đánh giá là trọng yếu khi bản thân nó chứa đựng những sai phạm gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyết định của người sử dụng BCTC.
Khái niệm “Trọng yếu” bao hàm hai mặt liên quan đến nhận thức đối tượng: Quy mô hay tầm cỡ (mặt lượng) và tính hệ trọng (mặt chất) của sai phạm được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Khi xem xét đối tượng cần quan tâm tới quy mô và tính chất của đối tượng. Cũng từ đây cho ta một sự phân biệt giữa tính trọng yếu và mức trọng yếu. Thông thường tính trọng yếu được đề cập sẽ gắn liền với sai phạm. Khi đánh giá tính trọng yếu của một sai phạm tức là đánh giá sai phạm đó có trọng yếu hay không. Đánh giá tính trọng yếu đối với sai phạm của nội dung kiểm toán cũng được đánh giá trên hai mặt: Quy mô và tính chất. Còn mức trọng yếu là một yếu tố định lượng, đó là một ngưỡng (sai lệch tối đa có thể chấp nhận được) mà nếu sai phạm vượt quá ngưỡng đó thì sẽ làm người đọc hiểu sai về tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán, ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng BCTC. Mức trọng yếu được xác định bởi KTV và nó sẽ thay đổi tùy thuộc vào từng doanh nghiệp khách hàng cụ thể.
Rõ ràng, khái niệm “Trọng yếu” đã đặt ra yêu cầu xác định nội dung kiểm toán trên cơ sở không bỏ sót các nghiệp vụ có quy mô lớn và có tính hệ trọng. Vi phạm nguyên tắc này sẽ tạo ra rủi ro kiểm toán.
1.3.2 Khái niệm rủi ro
Theo định nghĩa chung nhất, rủi ro là khái niệm chỉ khả năng mà một sự kiện không thuận lợi nào đó sẽ xuất hiện. Rủi ro được nhắc đến như một sự ám chỉ về một điều không chắc chắn, một hậu quả với những tình huống không thể lường trước được, nó có thể xảy ra, nếu xảy ra có thể không như chúng ta mong đợi, hoặc mang lại kết quả không tốt đẹp. Rủi ro ứng với sai lệch giữa dự kiến với thực tế. Trong lịch sử đã có nhiều quan điểm tranh luận về rủi ro. Theo quan điểm về rủi ro của Pháp, người ta đơn thuần coi rủi ro chỉ liên quan đến các thiệt hại – rủi ro không đối xứng. Quan điểm của Mỹ thì cho rằng rủi ro liên quan đến cả thiệt hại và may mắn – rủi ro đối xứng. Còn sau đây là một số quan điểm được chọn lọc từ cuốn sách “Bảo hiểm quốc tế, nguyên tắc và thực hành” do Học viện Hoàng gia Anh xuất bản năm 1993:
Rủi ro là khả năng xảy ra một số sự kiện không may;
Rủi ro là sự kết hợp các nguy cơ;
Rủi ro là sự không thể đoán trước một tình huống, một khuynh hướng dẫn đến kết quả thực tế khác với kết quả dự toán;
Rủi ro là sự không chắc chắn về tổn thất;
Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất;
Những định nghĩa trên là các quan điểm khác nhau, tuy nhiên nghiên cứu các quan điểm này cho thấy giữa chúng có mối liên hệ logic với nhau.
Theo định nghĩa của nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán quốc tế IAG 25, Trọng yếu và rủi ro kiểm toán, “rủi ro kiểm toán là những rủi ro mà kiểm toán viên có thể mắc phải khi đưa ra những nhận xét không xác đáng về các thông tin tài chính và đó là các sai sót nghiêm trọng”.
Những nhận xét không xác đáng chủ yếu theo hướng kiểm toán viên sẽ kết luận là các BCTC được trình bày trung thực và hợp lý, do đó công bố một ý kiến chấp nhận hoàn toàn trong khi chúng bị sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán gắn liền với rủi ro kinh doanh, rủi ro mà kiểm toán viên sẽ phải chịu thiệt hại vì mối quan hệ với khách hàng, đặc biệt trong trường hợp các báo cáo kiểm toán cung cấp cho khách hàng là sai. Do vậy để giới hạn rủi ro kinh doanh, kiểm toán viên phải kiểm soát chặt chẽ rủi ro kiểm toán.
1.3.3 Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán và ảnh hưởng của nó đến phương pháp kiểm toán trong lập kế hoạch kiểm toán BCTC
Trọng yếu và rủi ro có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, VSA 320 “Tính trọng yếu trong kiểm toán” đã quy định: “Khi tiến hành một cuộc kiểm toán, KTV phải quan tâm đến tính trọng yếu của thông tin và mối quan hệ của nó với rủi ro kiểm toán”.
Trong một cuộc kiểm toán, mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với nhau: mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược lại. Mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng phải thấp xuống vì khi giá trị của sai sót càng cao, mức độ ảnh hưởng càng lớn thì khả năng bỏ qua sai sót đó phải giảm xuống, do đó rủi ro kiểm toán sẽ thấp. Còn khi mức trọng yếu không cao, KTV có thể chấp nhận một mức rủi ro kiểm toán cao hơn mà không gây ra những ảnh hưởng lớn. Mối quan hệ này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định nội dung, phạm vi, thời gian của các thủ tục kiểm toán thích hợp.
Khi lập kế hoạch kiểm toán, nếu KTV xác định mức trọng yếu chấp nhận được là thấp thì rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên. Khi đó, KTV có thể:
Giảm mức độ rủi ro kiểm soát đã được đánh giá bằng cách mở rộng hoặc thực hiện thêm thử nghiệm kiểm soát để chứng minh cho việc giảm rủi ro kiểm soát; hoặc
Giảm rủi ro phát hiện bằng cách sửa đổi lại nội dung, lịch trình và phạm vi của những thủ tục kiểm tra chi tiết đã dự kiến.
1.3.4 Bản chất đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong lập kế hoạch kiểm toán BCTC
1.3.4.1 Bản chất đánh giá trọng yếu trong lập kế hoạch kiểm toán BCTC
Tính trọng yếu có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc lập kế hoạch kiểm toán BCTC. SAS 47 đã quy định: “KTV nên xem xét rủi ro kiểm toán và vấn đề trọng yếu trước khi lập kế hoạch”.
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV phải đánh giá mức độ trọng yếu để ước tính mức độ sai sót của BCTC có thể chấp nhận được, xác định phạm vi của cuộc kiểm toán và đánh giá ảnh hưởng của các sai sót lên BCTC để từ đó xác định bản chất, thời gian và phạm vi thực hiện các thử nghiệm kiểm toán.
ISA 320 “Tính trọng yếu trong kiểm toán” quy định: “Khi lập kế hoạch kiểm toán, KTV phải xem xét đến các nhân tố có thể làm phát sinh những sai sót trọng yếu trong BCTC. Đánh giá của KTV về mức trọng yếu liên quan đến số dư các tài khoản và các loại giao dịch chủ yếu sẽ giúp KTV xác định được các khoản mục cần được kiểm tra và quyết định nên áp dụng thủ tục chọn mẫu hay thủ tục phân tích. Việc đánh giá mức trọng yếu liên quan đến số dư các tài khoản và các loại giao dịch chủ yếu sẽ giúp KTV lựa chọn được những thủ tục kiểm toán thích hợp và việc kết hợp các thủ tục kiểm toán thích hợp đó với nhau sẽ làm giảm được rủi ro kiểm toán tới mức có thể chấp nhận được”.
VSA 300 “Lập kế hoạch kiểm toán” cũng quy định trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tổng thể. KTV phải “xác định những vùng kiểm toán trọng yếu và xác định mức độ trọng yếu cho từng mục tiêu kiểm toán”.
Ở thời điểm lập kế hoạch kiểm toán ban đầu, kết quả đánh giá mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán của KTV có thể khác với kết quả đánh giá ở các thời điểm khác nhau trong quá trình kiểm toán. Sự khác nhau này là do sự thay đổi tình hình thực tế hoặc sự thay đổi về sự hiểu biết của KTV về đơn vị được kiểm toán dựa trên kết quả kiểm toán đã thu thập được, như: trường hợp lập kế hoạch kiểm toán trước khi kết thúc năm tài chính, KTV đã đánh giá mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán căn cứ trên dự tính trước kết quả hoạt động và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu tình hình tài chính thực tế và kết quả hoạt động của doanh nghiệp có sự khác biệt đáng kể so với dự tính, thì việc đánh giá mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán sẽ có những thay đổi.
Như vậy, KTV cần có một sự hiểu biết đầy đủ về cách đánh giá và vận dụng tính trọng yếu. Việc đánh giá trọng yếu là một công việc xét đoán mang tính nghề nghiệp của KTV. Để có thể đánh giá tính trọng yếu, KTV cần nhận thức được cả hai mặt định lượng (giá trị, quy mô) và định tính (chất lượng) của thông tin mang tính trọng yếu.
Xét trên khía cạnh định lượng, thông tin được coi là trọng yếu khi sai lệch trên BCTC đạt đến một giá trị nhất định có thể làm thay đổi quyết định của người sử dụng BCTC.
Xét trên khía cạnh định tính, các sai phạm dù nhỏ nhưng có thể làm nảy sinh các vấn đề liên quan có tác động dây chuyền, ảnh hưởng nghiêm trọng đến mức độ hợp lý và mức độ tin cậy của BCTC. Sự phản ánh thông tin đúng đắn hay không xác đáng của đơn vị có thể làm cho người sử dụng BCTC hiểu sai về bản chất thông tin của đơn vị.
Khi xem xét tính trọng yếu cần quan tâm tới vấn đề trọng yếu ở mức tổng thể BCTC và trong mối quan hệ với các số dư tài khoản trên BCTC. Việc xét đoán tính trọng yếu có thể chịu tác động bởi các yếu tố như các yêu cầu của pháp luật, các quy định dưới luật, tác động của các bên quan tâm về các vấn đề liên quan đến số dư, khoản mục cá biệt của BCTC, và các mối liên hệ giữa các khoản mục đó. Những yếu tố này tạo ra mức trọng yếu khác nhau tùy thuộc vào đối tượng được kiểm toán. Do đó đánh giá mức trọng yếu là vấn đề rất khó và phụ thuộc vào sự xét đoán nghề nghiệp của mỗi KTV trên cả quy mô (mặt lượng) và tính hệ trọng (mặt chất) của sai phạm.
Về quy mô, tính trọng yếu được xem xét trên hai góc độ: quy mô tuyệt đối và quy mô tương đối. Quy mô tuyệt đối là một con số tuyệt đối thể hiện mức quan trọng mà không cần nhắc thêm bất kỳ một yếu tố nào khác. Trong thực tế rất khó ấn định một con số cụ thể cho những nội dung kiểm toán, nhất là khi nội dung đó có những sai phạm tiềm ẩn. Có thể quan niệm “một triệu USD hoặc một con số lớn hơn thì luôn coi là con số trọng yếu mà không cần quan tâm tới yếu tố nào khác”. Tuy nhiên một sai số quy mô nhất định có thể là trọng yếu đối với một công ty nhỏ, trong khi cũng cùng sai số đó sẽ không trọng yếu với một công ty lớn hơn. Vì thế, quy mô tuyệt đối thường chỉ sử dụng trong quá trình xem xét, phát hiện, ít được sử dụng trong đánh giá. Quy mô tương đối là mối tương quan giữa đối tượng cần đánh giá với một só gốc. Số gốc được xác định tùy thuộc vào những tình huống cụ thể.
Bên cạnh việc xem xét riêng biệt quy mô quy mô tuyệt đối và quy mô tương đối còn phải cân nhắc cả ảnh hưởng lũy kế của đối tượng đang xem xét: có những sai phạm nếu xét riêng biệt, chúng không đủ mức trọng yếu do quy mô nhỏ. Tuy nhiên nếu cộng dồn tất cả những sai phạm đó sẽ thấy sự liên quan và tính hệ thống của sai phạm, khi đó sẽ thấy tính trọng yếu của chúng. Quy mô trọng yếu được xác định tùy thuộc vào đối tượng kiểm toán cụ thể (Báo cáo tài chính hay từng khoản mục, chu trình) và khách thể kiểm toán (có quy mô khác nhau)…khi đó quy mô của các khoản mục, nghiệp vụ không chỉ được đánh giá bằng con số tuyệt đối mà phải đặt trong tương quan với toàn bộ đối tượng kiểm toán. Mặt khác, việc đánh giá tùy thuộc vào điều kiện cụ thể để xem xét riêng biệt hay cộng dồn các khoản mục, nghiệp vụ.
Về mặt chất, khái niệm trọng yếu gắn với tính hệ trọng của vấn đề xem xét. Xem xét mặt định tính chỉ cần thiết khi nó ảnh hưởng đến bản chất của khoản mục hay vấn đề đang được đánh giá. Muốn đánh giá đúng về trọng yếu, KTV cần xem xét đến bản chất của khoản mục, nghiệp vụ và sai phạm đối với khoản mục, nghiệp vụ. Với cùng một quy mô tiền tệ, các gian lận thường được được chú trọng hơn sai sót bởi các gian lận thường làm người ta nghĩ tới tính trung thực và độ tin cậy của Ban Giám đốc và những người có liên quan. Do đó, một hành vi gian lận luôn được coi là trọng yếu bất kể quy mô của gian lận là bao nhiêu.
1.3.4.2 Bản chất đánh giá rủi ro kiểm toán trong lập kế hoạch kiểm toán BCTC
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV cần đánh giá tổng thể rủi ro kiểm toán căn cứ vào hiểu biết của KTV về đặc điểm kinh doanh của khách hàng cũng như tìm hiểu về ngành nghề, quản lý môi trường kiểm soát và hoạt động. Sự đánh giá như vậy cung cấp thông tin sơ bộ về chiến lược chung đối với hợp đồng kiểm toán, nhân sự cần thiết cho nhóm kiểm toán, thời gian kiểm toán và khuôn khổ đánh giá rủi ro kiểm toán cũng như mức trọng yếu áp dụng ở từng giai đoạn từng loại nghiệp vụ và từng số dư tài khoản và cuối cùng là thiết kế các thủ tục kiểm toán thích hợp cho các khoản mục trên BCTC.
1.3.4.3 Vai trò của đánh giá trọng yế