Kể từ sau đại chiến thế giới thứ hai, nền kinh tế thế giới có những bước tiến vượt bậc. Xu thế toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, nó thôi thúc mọi quốc gia, mọi khu vực tham gia vào cuộc tranh đua quyết liệt vì sự phát triển. Trong cuộc đua ấy, sự tụt hậu về kinh tế sẽ đẩy đất nước ra khỏi quỹ đạo phát triển. Tuy nhiên không phải quỗc gia nào cũng được chuẩn bị kỹ lưỡng để tham gia vào cuộc đua này, một số ít quốc gia sẽ nhanh chóng vươn lên trở thành giàu có và kéo theo một bộ phận dân cư cũng trở thành giàu có bỏ lại một số quốc gia tụt hậu đằng sau với đại bộ phận dân cư phải sống trong nghèo khổ. Thực tế chứng minh , theo thống kê Việt Nam năm 1996, hơn 30 năm qua, nền kinh tế thế giới có tốc độ tăng trưởng rất cao, GNP/người tăng 3 lần, GNP toàn thế giới tăng 6 lần từ 4000 tỷ(năm 1960) lên 23000 tỷ (năm 1994). Tuy nhiên hố ngăn cách giàu nghèo cũng có xu hướng gia tăng. Khoảng ba phần tư dân số của các nước kém phát triển có mức thu nhập âm. Chênh lệch giữa các nước phát triển và các nước thế giới thứ ba về thu nhập tăng hơn 3 lần. Thu nhập của 20% dân số nghèo nhất thế giới chiếm 1,4% tổng thu nhập toàn thế giới còn 20% người giàu nhất lại chiếm tới 85% thu nhập thế giới quả là một sự chênh lệch quá lớn.
Trong vài thập kỷ gần đây, vấn đề tăng trưởng kinh tế gắn với sự tiến bộ và CBXH được đặt ra mang tính chất toàn cầu bởi vấn đề này không chỉ cần thiết đối với các nước nghèo mà còn đối với tất cả những nước phát triển. Đặc biệt đối với nước ta, đây là giải pháp cần thiết, tất yếu trong sự nghiệp cải cách, đổi mới nhằm khắc phục tình trạng suy thoái kinh tế , sức ỳ và sự trì trệ xã hội do những hạn chế của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp ở nước ta.
33 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2651 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với việc nâng cao đời sống vật chất và phúc lợi xã hội cho nhân dân trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Kể từ sau đại chiến thế giới thứ hai, nền kinh tế thế giới có những bước tiến vượt bậc. Xu thế toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, nó thôi thúc mọi quốc gia, mọi khu vực tham gia vào cuộc tranh đua quyết liệt vì sự phát triển. Trong cuộc đua ấy, sự tụt hậu về kinh tế sẽ đẩy đất nước ra khỏi quỹ đạo phát triển. Tuy nhiên không phải quỗc gia nào cũng được chuẩn bị kỹ lưỡng để tham gia vào cuộc đua này, một số ít quốc gia sẽ nhanh chóng vươn lên trở thành giàu có và kéo theo một bộ phận dân cư cũng trở thành giàu có bỏ lại một số quốc gia tụt hậu đằng sau với đại bộ phận dân cư phải sống trong nghèo khổ. Thực tế chứng minh , theo thống kê Việt Nam năm 1996, hơn 30 năm qua, nền kinh tế thế giới có tốc độ tăng trưởng rất cao, GNP/người tăng 3 lần, GNP toàn thế giới tăng 6 lần từ 4000 tỷ(năm 1960) lên 23000 tỷ (năm 1994). Tuy nhiên hố ngăn cách giàu nghèo cũng có xu hướng gia tăng. Khoảng ba phần tư dân số của các nước kém phát triển có mức thu nhập âm. Chênh lệch giữa các nước phát triển và các nước thế giới thứ ba về thu nhập tăng hơn 3 lần. Thu nhập của 20% dân số nghèo nhất thế giới chiếm 1,4% tổng thu nhập toàn thế giới còn 20% người giàu nhất lại chiếm tới 85% thu nhập thế giới quả là một sự chênh lệch quá lớn.
Trong vài thập kỷ gần đây, vấn đề tăng trưởng kinh tế gắn với sự tiến bộ và CBXH được đặt ra mang tính chất toàn cầu bởi vấn đề này không chỉ cần thiết đối với các nước nghèo mà còn đối với tất cả những nước phát triển. Đặc biệt đối với nước ta, đây là giải pháp cần thiết, tất yếu trong sự nghiệp cải cách, đổi mới nhằm khắc phục tình trạng suy thoái kinh tế , sức ỳ và sự trì trệ xã hội do những hạn chế của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp ở nước ta. Là nhà hoạch định kinh tế trong tương lai, tìm hiểu về vấn đề này là rất thiết thực , vì vậy em chọn đề tài: “ Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với việc nâng cao đời sống vật chất và PLXH cho nhân dân trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam”. Do khả năng còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót , em mong cô giúp đỡ để bài viết này của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô !
NỘI DUNG
Chương I : NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN.
I/ MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI VIỆC NÂNG CAO ĐỜI SỐNG VÀ PLXH .
Khái niệm tăng trưởng kinh tế , phát triển kinh tế và mối quan hệ.
1.1 Khái niệm tăng trưởng kinh tế .
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng hay tăng thêm về sản lượng(thu nhập) tính cho toàn bộ nền kinh tế hay bình quân đầu người trong một thời kỳ nhất định (1 năm).
Tăng trưởng kinh tế được xem xét trên 2 góc độ:
-Tăng thêm tuyệt đối: là sự thay đổi về quy mô.
Y: Sản lượng (thu nhập , đầu ra) của nền kinh tế .
ΔY:Mức tăng của thu nhập(sản lượng).
ΔY=Yt-Yt-1.
-Tăng tương đối: là sự thay đổi về tốc độ.
g: Tốc độ (tỉ lệ) tăng trưởng của sản lượng(thu nhập ).
g = ΔY/ Yt-1 (%).
1.2 Khái niệm phát triển kinh tế .
-1950-1960: Phát triển đồng nghĩa tăng trưởng kinh tế mà tiết kiệm và đầu tư là động lực phát triển kinh tế.
-1970-nay: Mở rộng quan niệm phát triển kinh tế .
+Các nhà kinh tế Pháp định nghĩa như sau:
Phát triển kinh tế là một quá trình mà một xã hội đạt tới việc thoả mãn nhu cầu mà xã hội đó cho là cơ bản.
+Thông qua báo cáo của WB:
Phát triển kinh tế là sự tăng trưởng bền vững về các tiêu chuẩn sống vao gồm tiêu dùng vật chất, giáo dục , sức khỏe và bảo vệ môi trường.
Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu của hiện tại mà không làm thương tổn khả năng đáp ứng các nhu cầu tương lai.
+P.Todako:
Phát triển cần được hiểu như một quá trình nhiều mặt có liên quan đến những thay đổi trong cơ cấu , trong thái độ và thể chế cũng như việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế , giảm bớt mức độ bất bình đẳng và xoá bỏ chế độ nghèo đói.
+Giáo trình:
Phát triển kinh tế là một quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế bao gồm sự gia tăng về sản lượng hay thu nhập và những biến đổi tiến bộ về cơ cấu kinh tế và xã hội.
1.3 Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế .
Tăng trưởng kinh tế chỉ phản ánh thu nhập và phản ánh sự thay đổi về lượng (được đo lường bằng sự thay đổi về quy mô hay tốc độ).
Phát triển kinh tế phản ánh cả thu nhập lẫn cơ cấu KT-XH , phúc lợi cho con người. Phát triển kinh tế bao hàm cả sự thay đổi về lượng và về chất . Nó còn đề cập những vấn đề xã hội và kinh tế , mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng cũng như việc xem xét yếu tố con người.
Kinh tế tăng trưởng sẽ nâng cao thu nhập làm cho thu nhập bình quân đầu người tăng(tốc độ tăng trưởng của thu nhập cao hơn tăng trưởng dân số).Do đó làm cho tiêu dùng và tiết kiệm tăng.Tiêu dùng tăng, đối với cá nhân sẽ làm tiêu dùng vật chất tăng còn đối với xã hội sẽ làm cho PLXH tăng.Tiết kiệm tăng sẽ làm tăng khả năng đầu tư cho các ngành , từ đó làm cho sản lượng (đầu ra) của ngành tăng dẫn tới sự thay đổi cơ cấu ngành. Đến lượt nó, sự thay đổi tiêu dùng vật chất, phúc lợi cho con người , cơ cấu ngành tác động trở lại tăng trưởng kinh tế .
Như vậy, tăng trưởng kinh tế chưa phải là phát triển kinh tế nhưng tăng trưởng là điều kiện cần thiết( phương tiện ) cho phát triển kinh tế. Tăng trưởng là điều kiện cần nhưng chưa đủ.
2) Các chỉ tiêu phản ánh.
2.1 Các chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng kinh tế .
- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP):
Tổng sản phẩm quốc nội là toàn bộ sản phẩm và dịch vụ mới tạo ra trong năm bằng các yếu tố sản xuất trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP):
Tổng sản phẩm quốc dân là toàn bộ sản phẩm và dịch vụ cuối cùng mà tất cả công dân một nước tạo ra và có thu nhập trong năm, không phân biệt sản xuất được thực hiện ở trong nước hay ngoài nước .
- GDP/người:
+Theo phương pháp quy đổi ngoại tệ trực tiếp:
GDP(đô la)/ P P: quy mô dân số
GDP: quy mô thu nhập
+Theo ngang giá sức mua :
GDP thực tế bình quân đầu người đã được điều chỉnh theo ngang giá sức mua(1 $ sẽ mua được bao nhiêu GDP của nước đó so với 1 $ sẽ mua được bao nhiêu GDP tại Mĩ ).
2.2 Các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển xã hội.
Để phản ánh sự phát triển xã hội người ta sử dụng các chỉ tiêu như sau: tuổi thọ bình quân, tỉ lệ biết chữ , tỉ lệ chết yểu, lượng tiêu dùng Calo/người /ngày, chi tiêu cho giáo dục , % dân số được hưởng các phương tiện vệ sinh, hệ số Gini v.v...
-Chỉ số phát triển con người (HDI):
Là chỉ số để tính trung bình các thành tựu trong phát triển con người, đó là những thành tựu về những năng lực cơ bản nhất của con người.
Các bộ phận cấu thành bao gồm:
*Tuổi thọ bình quân.
*Trình độ văn hóa-giáo dục.
*Thu nhập thực tế bình quân đầu người tính theo ngang giá sức mua(PPP).
-Chỉ số nghèo khổ (HPI).
Là thước đo để đánh giá nghèo đói đa chiều , chỉ số tổng hợp về sự thiệt thòi của con người được đánh giá trên các khía cạnh : cuộc sống lâu dài, khoẻ mạnh, tri thức , sự bảo đảm về kinh tế và sự hội nhập xã hội.
Các bộ phận cấu thành bao gồm:
+ Đối với những nước đang phát triển (HPI 1):
*Tỉ lệ người dự kiến không sống đến 40 tuổi.
*Tỉ lệ mù chữ .
*Tỉ lệ người không được tiếp cận với các dịch vụ y tế , nước sạch.
*Tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng.
+ Đối với những nước phát triển (HPI 2):
*Tỉ lệ người dự kiến không sống đến 60 tuổi.
*Tỉ lệ những người chưa đạt được yêu cầu chuẩn về đọc và viết.
*Chỉ số nghèo về thu nhập.
*Sự thiệt thòi trong hòa nhập xã hội.
3) Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với việc nâng cao đời sống vật chất và PLXH .
3.1 Đặt vấn đề về sự hạn chế của tăng trưởng kinh tế .
Sau chiến tranh thế giới II vào 1960s các quốc gia đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tăng trưởng kinh tế (đồng nhất tăng trưởng kinh tế với phát triển kinh tế ). Họ cho rằng tăng trưởng kinh tế là mục tiêu cơ bản của mọi xã hội. Kết quả là nhiều nước đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao, nhưng sự tăng trưởng cao đó mang lại rất ít lợi ích cho người nghèo . Thể hiện là mức sống của hàng trăm triệu người ở châu Phi, châu Á, Trung Đông dường như không tăng thậm chí còn giảm đi; tỉ lệ thất nghiệp và bán thất nghiệp tăng cả ở nông thôn và thành thị ; phân phối bất bình đẳng trong thu nhập tăng dẫn đến tình trạng nghèo tuyệt đối còn phổ biến.
Những nguyên nhân đó là: Thứ nhất, trong một số trường hợp Chính phủ muốn tăng thêm sức mạnh quân sự , hoặc danh tiếng của đất nước và danh tiếng của các tập đoàn cai trị mà đã đầu tư vào hệ thống quân sự , hoặc các dự án to lớn trong rừng rậm, trên sa mạc , đây là những đầu tư đưa lại ít ích lợi trực tiếp cho những người dân(tăng trưởng cao nhờ tăng đầu tư vào những dự án quân sự như trường hợp của ấn Độ , Pakixtan ; những dự án để xây dựng những thành phố hiện đại mang tính thí điểm như thành phố Thượng Hải của Trung Quốc. Thứ hai, do các nguồn lực khan hiếm để tạo ra sự tăng trưởng tiếp theo, do vậy một bộ phận lớn thu nhập được dùng để tái đầu tư. Nếu quá trình này tiếp tục trong một thời gian dài thì không những không nâng cao được đời sống nhân dân mà trái lại còn làm cho mọi tiêu dùng giảm sút, mặc dù vẫn tạo ra được sự tăng trưởng kinh tế . Thứ ba, khi thu nhập và tổng quỹ tiêu dùng tăng lên nhưng những người giàu có lại nhận được toàn bộ hoặc phần lớn phần tăng thêm này, dẫn đến tình trạng người giàu sẽ giàu thêm, còn người nghèo lại nghèo đi.
3.2 Sự chuyển hướng trong nhận thức (sau năm 1970)
Những nước phát triển :
Nhấn mạnh trọng tâm vào chất lượng cuộc sống, đặc biệt quan tâm đến môi trường.
Những nước đang phát triển:
Mục tiêu chính của hoạt động kinh tế là xóa bỏ nạn nghèo đói phổ biến và sự bất bình đẳng ngày càng tăng trong phân phối thu nhập. Đây là những vấn đề cốt lõi của phát triển kinh tế .
3.3 Quan hệ khách quan giữa tăng trưởng kinh tế và PLXH .
Chính sách tăng trưởng kinh tế và chính sách PLXH ngoài những mục tiêu riêng còn có mục tiêu chung là nhằm phát triển con người , đảm bảo công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện trước tiên để cải thiện chính sách phúc lợi , khắc phục tình trạng đói nghèo của một quốc gia. Nguyên nhân đầu tiên của đói nghèo là kinh tế không tăng trưởng . Trong các xã hội tiền TBCN, kinh tế tăng trưởng rất chậm, vì vậy tình trạng đói nghèo rất phổ biến .
PLXH tất yếu phải dựa trên sự phát triển kinh tế . Phát triển kinh tế tạo ra cơ sở vật chất để giải quyết vấn đề phúc lợi . Kinh tế phát triển sẽ nâng cao đời sống của từng cá nhân và toàn xã hội , tạo điều kiện cho cá nhân tham gia tích cực vào các hoạt động của cộng đồng, trong đó có hoạt động PLXH . Kinh tế phát triển, Nhà nước sẽ có nguồn thu để thực hiện các chương trình PLXH . Do đó , phát triển kinh tế là điều kiện và tiền đề để phát triển và đa dạng hóa các hoạt động PLXH . Chính phủ các nước thường dành một tỉ lệ nhất định của GNP để chi cho PLXH nên thu nhập quốc dân càng lớn thì khả năng ngân sách chi cho PLXH càng lớn. Nói cách khác , sự quan tâm và mức chi phí dành cho PLXH tỉ lệ thuận với phát triển kinh tế . Điều đó có nghĩa là kinh tế phát triển càng mạnh thì chi tiêu cho PLXH càng tăng . Chỉ khi tạo ra được một khối lượng vật chất đáng kể thì mới có thể thực hiện và đáp ứng được các nhu cầu xã hội ngày một tăng và đa dạng, có thể điều chỉnh , hoàn thiện và thay đổi các chính sách PLXH .
Thực tế cho thấy , về tổng thể , hệ thống PLXH của các nước có nền kinh tế phát triển tốt hơn hẳn so với hệ thống PLXH của các nước kinh tế kém phát triển . Người ta có thể phê phán hệ thống PLXH của một nước kinh tế phát triển nhưng điều đó chỉ muốn nói là PLXH của nước đó chưa tương xứng với tiềm lực kinh tế có thể đáp ứng được . Ngược lại người ta thường khen hệ thống PLXH của một nước đang phát triển nào đó là muốn nói rằng PLXH của nước đó tốt so với điều kiện nền kinh tế nước đó có thể đáp ứng. Một tỉ lệ nhỏ GNP của các nước giàu cũng lớn hơn rất nhiều tỉ lệ cao GNP của các nước nghèo vì GNP của hai nhóm nước quá chênh lệch. Không ai dám khẳng định rằng chế độ PLXH của một nước nghèo về tổng thể lại hơn được chế độ PLXH của một nước giàu mặc dù có thể phê phán nước giàu hơn về mặt nào đó. Để phản ánh PLXH của một nước , bao giờ người ta cũng nhìn đến khả năng kinh tế của nước đó rồi đưa ra những đánh giá mức độ tương xứng. Như vậy tăng trưởng kinh tế là nhân tố khách quan quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến PLXH .
Tăng trưởng kinh tế là một trong những nhân tố quyết định nhất để đảm bảo phát triển và hoàn thiện các chế độ PLXH . Tăng trưởng kinh tế tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội , cơ sở để nâng cao mức sống người dân , ổn định chính sách hiện tại , đảm bảo cuộc sống tương lai. Nhờ tăng trưởng kinh tế , Nhà nước mới có điều kiện xây dựng những cơ sở phúc lợi như nhà dưỡng lão, trại trẻ mồ côi, cơ sở phúc lợi danh cho người tàn tật , các khu vui chơi giải trí, các bệnh viện mới và hiện đại , mở mang hệ thống giáo dục , y tế ...
Nhưng phải chăng cứ có tăng trưởng kinh tế thì PLXH sẽ được cải thiện? Tăng trưởng kinh tế không tự nó giải quyết được các vấn đề PLXH mặc dù Nhà nước vẫn chú ý đến việc giải quyết việc giải quyết các vấn đề PLXH như xây dựng mạng lưới y tế đến tận cơ sở , phòng bệnh , chữa bệnh cho nhân dân, chăm lo đời sống cho các gia đình bộ đội, thương binh , liệt sĩ, mở mang giáo dục, ... nhằm ổn định xã hội.
Thực tế những năm gần đây, Nhà nước đã ban hành một số chính sách PLXH trên tinh thần đổi mới và cố gắng thực hiện đồng thời cả chính sách tăng trưởng kinh tế và PLXH . Các chính sách PLXH không tồn tại độc lập mà nằm trong tổng thể hệ thống chính sách của Nhà nước nên Nhà nước có vai trò to lớn trong việc quản lí, thực hiện các chính sách PLXH, tạo ra sự liên kết , thống nhất giữa các chính sách kinh tế và PLXH để định hướng và thúc đẩy phát triển kinh tế phục vụ các mục tiêu PLXH , từ việc đảm bảo lợi ích của các tầng lớp nhân dân đến việc phát triển con người và hoàn thiện cơ cấu xã hội .
II/ SỰ LỰA CHỌN GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI VIỆC NÂNG CAO ĐỜI SỐNG , PLXH TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA CÁC NƯỚC.
1) Quan điểm tăng trưởng trước , bình đẳng sau.
Quan điểm này nhấn mạnh vào tăng trưởng kinh tế , coi tăng trưởng kinh tế là đầu tàu để kéo theo sự biến đổi về cơ cấu kinh tế và xã hội . Thực tế cho thấy, những nước theo quan điểm này đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao , không ngừng tăng thu nhập cho nền kinh tế song cũng cho thấy những hạn chế cơ bản của việc lựa chọn này(nguồn tài nguyên bị kiệt quệ và môi trường sinh thái bị huỷ hoại nặng nề, cùng với tăng trưởng là những bất bình đẳng về kinh tế và chính trị xuất hiện tạo ra những mâu thuẫn và xung đột gay gắt, phá huỷ và hạ thấp một số giá trị truyền thống tốt đẹp như nền giáo dục gia đình, các giá trị tinh thần , thuần phong mĩ tục , các chuẩn mực dân tộc , sự tăng trưởng và phát triển nhanh chóng đưa đến những diễn biến khó lường trước làm đời sống KT-XH bị đảo lộn , mất ổn định, v.v...)
Điển hình theo quan điểm này là Braxin. Braxin phát triển nhanh nhưng PLXH với con người lại không được giải quyết tốt. Braxin là một nước lớn, giàu tài nguyên và đã có những tiến bộ đáng kể trong việc tạo ra một nền kinh tế hiện đại. Một vài ngành công nghiệp và thành phố có thể sánh được với các nước phát triển. Ngoài sự nổi tiếng về một số ngành công nghiệp và đô thị , Braxin cũng tạo được những tiến bộ quan trọng trong nông nghiệp , như sự phát triển của đậu tương , một loại cây xuất khẩu chính bên cạnh cà phê và các sản phẩm truyền thống khác. Nhưng sự tăng trưởng kinh tế của Braxin là không vững chắc và không đồng đều. Tất cả những người dân Braxin ở phía Đông-Bắc hầu như không được hưởng thụ lợi ích từ tăng trưởng . Ngay cả những thành phố lớn , hiện đại ở phía Nam cũng có những khu ổ chuột đáng kinh sợ , đôi khi liền kề ngay với những khu kiến trúc mới, xa hoa. Nguyên nhân là ở Braxin quyền sở hữu tài sản được tập trung cao, không có cải cách ruộng đất, giáo dục chịu tác động nhiều của các yếu tố kinh tế thị trường, trong công nghiệp và nông nghiệp đều nhấn mạnh đến các cơ sở sản xuất có quy mô lớn, khuyến khích công nghiệp sử dụng nhiều vốn. Kết quả là mức độ bất bình đẳng của Braxin là rất cao và có ít tiến bộ trong việc giảm bớt nghèo khổ mặc dù mức tăng trưởng kinh tế nhanh.
2) Quan điểm ưu tiên công bằng hơn tăng trưởng .
2.1 Phân phối trước , tăng trưởng sau.
Đây là quan điểm chủ đạo của các nước đi theo CNXH sau thế chiến thứ hai. Họ cho rằng , việc tập trung tài sản vào một nhóm người là trở ngại cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Bất bình đẳng không chỉ là sự tha hoá phát triển mà còn là trở ngại cho sự phát triển . Vì vậy phân phối lại là điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng , cụ thể là đoạt từ người giàu chia cho người nghèo . Cơ chế phân phối được xác lập sao cho đảm bảo thu nhập phụ thuộc vào đóng góp lao động . Tuy nhiên, nền tảng của sự phân phối là chủ nghĩa bình quân . Do vậy mặc dù nó là nguồn cổ vũ lớn lao với nhân dân nhưng nó đã không có cơ sở vững chắc để tồn tại.
2.2 Lấy con người làm trung tâm (D.Korten) .
Theo ông , hầu hết các mô hình phát triển đều lấy tăng trưởng làm trọng tâm và ông phê phán các mô hình đó. Ông cho rằng, phát triển lấy con người làm trung tâm là một tiến trình qua đó các thành viên của xã hội tăng được khả năng của cá nhân và định chế của mình để huy động và quản lí các nguồn lực nhằm tạo ra thành quả bền vững , cải thiện chất lượng cuộc sống của họ sao cho phù hợp hơn. Ông khẳng định quan điểm làm trung tâm, ủng hộ tính chất bền vững của cuộc sống và môi trường hơn là tăng sản lượng của nền kinh tế .
3) Quan điểm tăng trưởng kinh tế đi liền với công bằng.
Đây là sự lựa chọn trung gian giữa hai quan điểm trên. Quan điểm này vừa nhấn mạnh về số lượng , vừa chú ý về chất lượng của sự phát triển. Tăng trưởng kinh tế phải gắn với việc giảm thiểu nghèo đói và công bằng xã hội, tăng trưởng kinh tế phải bền vững để phù hợp với các mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô.
Theo quan điểm này điển hình là Hàn Quốc. Hàn Quốc có mức độ tăng trưởng kinh tế cao với những biện pháp rõ ràng để giảm bớt nghèo khổ và thoả mãn những nhu cầu cơ bản. Ở Hàn Quốc, tài sản đặc biệt là đất đai đã được phân phối tương đối bình đẳng trước khi bắt đầu có sự tăng trưởng nhanh. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh bắt đầu từ 1960s đã rất quan tâm đến việc hiện đại hóa những công ty nhỏ và vừa. Quyền sở hữu của người nước ngoài được hạn chế ở mức thấp nhất. Tăng nhanh sản xuất để xuất khẩu đã thu hút nhiều lao động. Hệ thống giáo dục bảo đảm cho tất cả trẻ em, trình độ phổ cập ngày được nâng cao và lựa chọn nghiêm ngặt những người có khả năng tốt nhất để tiếp tục học tập ở mức cao hơn. Do đó đã góp phần giảm bớt nhanh chóng sự nghèo khổ, đồng thời hỗ trợ cho sự công bằng và tăng trưởng .
III/ KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ MỘT SỐ NƯỚC.
Quá trình thực hiện tăng trưởng kinh tế và giảm bất bình đẳng ở Hàn Quốc , Malaixia cho ta một số kinh nghiệm như sau:
1) Tăng trưởng nhanh với phân phối công bằng, nâng cao mức sống cho mọi tầng lớp dân cư đặc biệt là người nghèo nói chung và khu vực nông thôn nói riêng.
ChÝnh ®êng lèi ph¸t triÓn ®óng ®¾n ®· ®a c¸c níc nµy trë thµnh c¸c quèc gia cã tèc ®é t¨ng trëng kinh tÕ cao (8% / n¨m) ®îc xÕp vµo c¸c quèc gia cã tØ lÖ tiÕt kiÖm/ GDP lín . C¸c ngµnh c«ng nghiÖp cÇn sö dông nhiÒu lao ®éng thu hót ®îc lîng lao ®éng nhµn rçi ë khu vùc n«ng th«n, gi¶i quyÕt ®îc t×nh tr¹ng thÊt nghiÖp trµn lan khi tiÕn hµnh c«ng nghiÖp ho¸. H¬n n÷a, tiÒn l¬ng trung b×nh t¨ng rÊt cao (Malaixia 10%/n¨m , Hµn Quèc 6%/n¨m). §iÒu nµy ®a hä trë thµnh c¸c níc cã thu nhËp b×nh qu©n ®Çu ngêi vµ tiÒn l¬ng cao nhÊt khu vùc, tØ lÖ thÊt nghiÖp thÊp chøng tá hä tho¸t khái sù ®ãi khæ , tiÕn tíi t¹o ®ñ viÖc lµm cã thu nhËp cao cho ngêi lao ®éng vµ dÇn xo¸ bá kho¶ng c¸ch trong ph©n phèi thu nhËp .
2) Chú trọng phát triển nông nghiệp và đảm bảo PLXH cho người dân.
Về cơ bản giải quyết bất bình đẳng giữa thành thị và nông thôn , giữa vùng kém phát triển và vùng phát triển , không chỉ cần sự nỗ lực của chính phủ mà phải có thời gian dài để đưa các vùng này vượt qua sự khác biệt về kinh tế –xã hội , tập trung vốn đầu tư để ưu tiên phát triển kịp thời các vùng k