Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng đường lối, chiến lược phát triển kinh tế là yếu tố đầu tiên quyết định sự thành bại trong quá trình phát triển kinh tế của một đất nước. Trong đó, việc xây dựng một cơ cấu đầu tư theo ngành hợp lý là một trong những vấn đề hết sức quan trọng.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ năm 1986 đến nay, rõ nhất là từ năm 1990 cơ cấu đầu tư theo ngành nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực phù hợp với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn. Những chuyển biến đó đã góp phần tạo đà cho nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định.
Tuy nhiên, những tiến bộ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó cũng mới chỉ là bước đầu và nhìn chung sự chuyển dịch cơ cấu còn chậm. Cho đến nay, nước ta vẫn là nước nông nghiệp, dân cư sống ở nông thôn và lao động nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Để đạt được mục tiêu đến năm 2020: "Đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế ngành hợp lý với tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm dưới 10%, công nghiệp 35 - 40%, dịch vụ chiếm 50 - 60% trong tổng GDP". Mà Đại hội VIII đã đề ra thì còn nhiều vấn đề phải được tiếp tục nghiên cứu và có giải pháp sát thực.
46 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2361 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số đánh giá về cơ cấu đầu tư theo ngành tại Việt Nam từ năm 2000 cho đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng đường lối, chiến lược phát triển kinh tế là yếu tố đầu tiên quyết định sự thành bại trong quá trình phát triển kinh tế của một đất nước. Trong đó, việc xây dựng một cơ cấu đầu tư theo ngành hợp lý là một trong những vấn đề hết sức quan trọng.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ năm 1986 đến nay, rõ nhất là từ năm 1990 cơ cấu đầu tư theo ngành nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực phù hợp với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn. Những chuyển biến đó đã góp phần tạo đà cho nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định.
Tuy nhiên, những tiến bộ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó cũng mới chỉ là bước đầu và nhìn chung sự chuyển dịch cơ cấu còn chậm. Cho đến nay, nước ta vẫn là nước nông nghiệp, dân cư sống ở nông thôn và lao động nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Để đạt được mục tiêu đến năm 2020: "Đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế ngành hợp lý với tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm dưới 10%, công nghiệp 35 - 40%, dịch vụ chiếm 50 - 60% trong tổng GDP". Mà Đại hội VIII đã đề ra thì còn nhiều vấn đề phải được tiếp tục nghiên cứu và có giải pháp sát thực.
Nhằm để đánh giá những hợp lí và bất hợp lí trong chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo ngành của nước ta giai đoạn từ năm 2000 cho đến nay, từ đó chỉ ra những vấn đề phải được tiếp tục nghiên cứu và có giải pháp sát thực. Với lý do đó, em chọn đề tài: " Một số đánh giá về cơ cấu đầu tư theo ngành tại Việt Nam từ năm 2000 cho đến nay ". Do trình độ và thời gian có hạn, bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cô trong Khoa để bài viết sau được hoàn chỉnh hơn
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về cơ cấu đầu tư
Cơ cấu đầu tư, cơ cấu đầu tư hợp lí
Cơ cấu đầu tư:
Khái niệm cơ cấu đầu tư
Cơ cấu đầu tư là cơ cấu các yếu tố cấu thành đầu tư như cơ cấu nguồn vốn, cơ cấu huy động vốn và sử dụng vốn…quan hệ hữu cơ, tương tác qua lại giữa các bộ phận trong không gian và thời gian, vận động theo hướng hình thành một cơ cấu hợp lí nhằm tạo ra tiềm lực lớn hơn về mọi mặt kinh tế - xã hội.
Cơ cấu đầu tư này luôn thay đổi trong từng giai đoạn phù hợp với sự phát triển của kinh tế - xã hội.
Đặc điểm của cơ cấu đầu tư
Cơ cấu đầu tư mang tính khách quan
Trong nền kinh tế cơ cấu đầu tư được thực hiện theo các chiến lược đã được định trước.nhưng không vì thế mà cơ cấu đầu tư mất đi tính khách quan của nó, mọi sự vật hiện tượng đều hoạt động tuân theo quy luật khách quan. Và trong quá trình sản xuất cơ cấu đâu tư không ngừng vận động, một cơ cấu đã lỗi thời, hoạt động không hiệu quả kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế sẽ được thay thế bằng cơ câu đâu tư hợp lý hơn để phù hợp với những điều kiện khách quan.
Lực lượng sản xuất là động lực phát triển của xã hội. Nhu cầu xã hội ngày càng cao, muốn đáp ứng đầy đủ nhu cầu xã hội thì trước hết phải phát triển LLSX. Sự phát triển của LLSX sẽ làm thay đổi quy mô sản xuất, thay đổi công nghệ, thiết bị, hình thành các nghành nghề mới, biến đổi lao động từ giản đơn thành lao động phức tạp, từ ngành này sang ngành khác. Sự phát triển đó phá vỡ cân đối cũ, yêu cầu hình thành một cơ cấu đầu tư mới với một vị trí, tỷ trọng vốn trong các nghành và khu vực lãnh thổ phù hợp hơn thích ứng với nhu cầu phát triển của xã hội.
Vai trò của yếu tố chủ quan: Cơ cấu đầu tư mang tính khách quan nhưng những yếu tố chủ quan cũng tác động nhằm thúc đẩy hoặc kìm hãm sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Những yếu tố chủ quan gồm: các chiến lược, các chính sách, các đòn bẩy kinh tế, các biện pháp…nhằm tác động, điều chỉnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Những yếu tố chủ quan này nếu được nhận thức một cách sâu sắc, được phân tích, đánh giá, dự báo về xu hướng phát triển của nền kinh tế kỹ lưỡng, qua đó sẽ điều chỉnh cơ cấu đầu tư hợp lý hơn, nếu như những quan điểm là nóng vội, bảo thủ thì những nhận định, dự báo đó là sai lầm,hoặc thiếu nhạy bén dẫn tới cơ cấu đầu tư thiếu hiệu quả sẽ tạo ra hậu quả vô cùng to lớn.
Cơ cấu đầu tư mang tính lịch sử và xã hội nhất định
Những bộ phận cấu thành hoạt động hữu cơ được xác lập mối quan hệ hữu cơ tương tác qua lại với nhau theo không gian và thời gian. sự tồn tại về quy mô, số lượng có thể chung cho mọi nên sản xuất nhưng khác nhau về nội dung và cách thức thực hiện các quan hệ đó. Ngay trong các hình thái kinh tế xã hội giống nhau nhưng tồn lại ở các nước khác nhau vẫn có sự khác nhau trong việc hình thành cơ cấu đầu tư. Do đặc điêm riêng của lịch sử phát triển các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội …những xu thế thay đổi cơ cấu chung được thể hiện qua hình thái đặc thù trong từng giai đoạn lịch sử phát triển của mỗi nước. vì vậy cơ cấu đầu tư luôn thay đổi trong từng giai đoạn để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế , xã hội.
Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu đầu tư
Nhóm nhân tố nội bộ nên kinh tế
- Quan điểm chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vùng và chế độ, năng lực quản lý trong mỗi giai đoạn nhất định.
Cơ cấu đầu tư là biểu hiện tóm tắt nội dung và phương tiện của chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Mặc dù cơ cấu đầu tư vừa mang tính khách quan vừa mang tính lịch sử nhưng các tính chất đó lại chịu sự tác động và chi phối của nhà nước thông qua các công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua các định hướng phát triển, Nhà nước không chỉ nhằm khuyến khích mọi lực lượng sản xuất của xã hội, đạt được mục tiêu đề ra mà còn đưa ra các dự án để thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia, nếu không đạt được thì Nhà nước trực tiếp tổ chức đầu tư, đảm bảo sự cân đối giữa các sản phẩm, các ngành lĩnh vực trong nền kinh tế.
Cơ chế quản lý của Nhà nước trong từng thời kỳ lại có những thay đổi nhất định để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước do đó nó tác động trực tiếp đến quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu đầu tư.
- Nhân tố thị trường và nhu cầu của xã hội.
Thị trường và nhu cầu của xã hội là người đặt hàng cho tất cả các ngành nghề, lĩnh vực kinh tế trong toàn bộ nền kinh tế. Nếu như xã hội không có nhu cầu thì tất nhiên không có bất kỳ một quá trình sản xuất nào. Cũng như vậy không có thị trường thì không có kinh tế hàng hoá.
Thị trường và nhu cầu xã hội không chỉ quy định về số lượng mà cả về chất lượng các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, nên nó có tác động trực tiếp đến quy mô, trình độ phát triển của các cơ sở kinh tế, đến xu hướng phát triển và phân công lao động xã hội, đến vị trí, tỷ trọng của các nghành, các khu vực, các thành phần kinh tế trong cơ cấu đầu tư.
Việc xác định cơ cấu đầu tư cho mỗi quốc gia, mỗi khu vực kinh tế phải tính đến xu thế tiêu dùng, xu thế hợp tác, cạnh tranh của các sản phẩm trong nước, trong khu vực và trên thế giới.
- Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học công nghệ.
Lực lượng sản xuất là động lực phát triển của xã hội. Nhu cầu xã hội ngày càng cao, muốn đáp ứng đầy đủ nhu cầu xã hội thì trước hết phải phát triển LLSX. Sự phát triển của LLSX sẽ làm thay đổi quy mô sản xuất, thay đổi công nghệ, thiết bị, hình thành các nghành nghề mới, biến đổi lao động từ giản đơn thành lao động phức tạp, từ ngành này sang ngành khác. Sự phát triển đó phá vỡ cân đối cũ, yêu cầu hình thành một cơ cấu đầu tư mới với một vị trí, tỷ trọng vốn trong các nghành và khu vực lãnh thổ phù hợp hơn thích ứng với nhu cầu phát triển của xã hội.
- Vị trí địa lý kinh tế, điều kiện về các nguồn lợi tự nhiên.
Vị trí địa lý đóng vai trò quan trọng trong việc phân bố đầu tư và chuyển dịch cơ cấu đầu tư. Các nhân tố này tạo nên lợi thế so sánh cho các vùng bởi vậy nó chi phối một phần cơ cấu đầu tư theo vùng và lãnh thổ bởi cơ cấu đầu tư đặt ra cho từng vùng, từng khu vực phải phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng đó, giúp các vùng phát huy được tối đa lợi thế thì mới trở thành cơ cấu đầu tư hợp lý và có hiệu quả.
1.3.2 Các nhân tố bên ngoài
Ngoài các nhân tố tác động ở trong nội tại nền kinh tế, cơ cấu đầu tư còn chịu tác động của nhiều nhân tố bên ngoài. Đó chính là:
- Xu thế chính trị, xã hội và kinh tế của khu vực và thế giới.
Do hoạt động của nền kinh tế mở, và xu hướng toàn cầu hóa hiện nay. Nền kinh tế của các quốc gia bị ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới. Do đó, trong việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư cũng sẽ bi ảnh hưởng bởi những ảnh hưởng của tình hình kinh tế, xã hội của thế giới.
-Sự phát triển ngày càng nhanh chóng của khoa học và công nghệ.
Khoa học – công nghệ ngày càng phát triển nhanh chóng, nó tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất. Nếu không nhận thức đúng đắn về sự phát triển của khoa học- công nghệ thì sẽ bị tụt hậu so với các nước trên thế giới. Vì khoa học- công nghệ tham gia trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh nên việc đầu tư vào khoa học – công nghệ là nhân tố quan trọng trong cơ cấu đầu tư .
-Xu hướng toàn cầu hóa và quốc tế hóa
Xu hướng toàn cầu hóa và quốc tế hóa ngày càng mở rộng. Đây cũng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến luồng vốn đầu tư, cơ cấu đầu tư có nhân tố nước ngoài. Nhân tố này sẽ thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư nhanh chóng hơn. Tuy đây là cơ hội lớn cho quá trình phát triển, nhưng đây cũng là thách thức lớn. Vì vậy, Việt Nam cần có những bước đi đúng đắn để hòa nhập vào nền kinh tế thế giới.
Sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư
Chuyển dịch cơ cấu đầu tư là sự thay đổi của cơ cấu đầu tư từ mức độ này sang mức độ khác, phối hợp với môi trường và mục tiêu phát triển. Đây không chỉ là sự thay đổi về vị trí ưu tiên mà còn là sự thay đổi về chất trong nội bộ cơ cấu và chính sách áp dụng. Sự thay đổi đó có thể là sự thay đổi về quy mô, phân bố nguồn lực hay số lượng, chất lượng các ngành trong quá trình phát triển hoặc cũng có thể là sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế do những biến động trong nền kinh tế như sự xuất hiện hoặc biến mất của một số ngành, tốc độ tăng trưởng của các yếu tố cấu thành cơ cấu đầu tư không đồng đều, khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng...
Cơ cấu đầu tư hợp lí
Khái niệm
Cơ cấu đầu tư hợp lý là cơ cấu đầu tư phù hợp với các quy luật khách quan, Các điều kiện kinh tế xã hội của từng cơ sở, ngành, vùng và của toàn bộ nền kinh tế . Có tác dụng tích cực trong việc đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hợp lý hơn, khai thác ngày càng hợp lý các nguồn lực trong nước để đáp ứng nhu cầu hội nhập, phù hợp với xu hướng của kinh tế , chính trị của thế giới và trong khu vực.
Đặc điểm
Để chuyển dịch cơ cấu đầu tư thành cơ cấu đầu tư hợp lí phải tận dụng các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và các tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu đầu tư hợp lí gắn với những đặc điểm sau:
Cơ cấu đầu tư hợp lí là cơ cấu gắn với sự phát triển của kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển mạnh các ngành kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng vốn tri thức của con người Việt Nam với những tri thức mới nhất của nhân loại.
Cơ cấu đầu tư hợp lí là cơ cấu coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, trong từng dự án kinh tế - xã hội. Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo cả ngành và lĩnh vực. Giảm chi phí trung gian, tăng mạnh tỉ lệ giá trị quốc gia, giá trị gia tăng, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành, lĩnh vực, nhất là các ngành, lĩnh vực cơ bản có sức cạnh tranh cao.
Trong nền kinh tế hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng phát triển thì việc lựa chọn cơ cấu đầu tư hợp lý đóng vai trò rất quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tăng cường khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu.
Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta hiện nay:
Do yêu cầu tất yếu của sự nghiệp CNH- HDH
Phát triển lực lượng sản xuất- cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội- trên cơ sở thực hiện CNH-HĐH nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành tựu khoa học hiện đại
Cải tiến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng máy móc, tức là phải cơ khí hóa nền kinh tế quốc dân. Đó là bước chuyển đổi căn bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp
Đồng thời phải hiện đại hóa các ngành để nhằm nâng cao năng suất lao động cũng như chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Đi liền với cơ khí hóa là điện khí hóa, tự động hóa sản xuất từng bước và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Sự nghiệp CNH-HDH đòi hỏi phải xây dựng và phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp, là “ đòn neo” để cải tạo, phát triển kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế khu vực nông- lâm – ngư nghiệp.
Sử dụng kĩ thuật công nghệ cao sẽ làm tăng năng suất lao động xã hội, chất lượng ,đời sống xã hội nâng cao. Đồng thời sản phẩm tốt dẫn đến cạnh trnah hàng hóa, nền kinh tế thị trường phát triển. Do đó ngành dịch vụ phải được quan tâm chú trọng đặc biệt
Do yêu cầu của việc phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
Qua quá trình hình thành và phát triển các ngành kinh tế(CN-NN-DV) đặc biệt những ngành có hàm lượng khoa học cao, sự xuất hiện các vùng sản xuất chuyên canh tập trung không chỉ là biểu hiện của lực lượng sản xuất, phát triển cơ sở vật chất kỉ thuật trong tiến trình CNH-HDH mà còn là cơ cấu kinh tế thay đổi hợp lí.
Nghĩa là trong nền kinh tế thị trường như nước ta hiện nay, đòi hỏi các ngành kinh tế trọng yếu CN-NN-DV cần phải có phương hướng chuyển dịch hợp lý và hiện đại thông qua việc áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến.
Sự phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp sẽ tạo ra tư liệu sản xuất cho ngành nông nghiệp để ngành nông nghiệp ngành càng sản xuất được nhiều sản phẩm đạt chất lượng tốt mà lực lượng sản xuất tập trung cho ngành này càng ngày càng giảm hơn.
Mạng lưới dịch vụ với tư cách một ngành kinh tế phát triển có thể phục vụ tốt hơn cho sự phát triển mạnh mẽ cảu các ngành công nghiệp và nông nghiệp.
Đồng bộ các ngành kinh tế then chốt có xu hướng phát triển mạnh mẽ và chất và phân phối một cách hợp lí về lượng sẽ tạo điều kiện để các thành phần kinh tế, các vùng kinh tế cũng phát triển. Do vậy, nền kinh tế quốc dân tăng trưởng vững mạnh, chính trị xã hội ổn định lâu dài, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Do yêu cầu tất yếu của nâng cao sức cạnh tranh chủ động hội nhập kinh tế khu vực- quốc tế
Mở cửa nền kinh tế là nhu cầu cấp bách đối với nền kinh tế nước ta. Trong việc mở cửa, hội nhập phải đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên là trọng điểm. Như vây, kinh tế trong nước mới được phát triển nhanh, thu nhập đời sống của nhân dân mới được nâng cao.
Mở rộng quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước khác trở thành một tất yếu kinh tế, tạo khả năng để vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lí nâng cao tỷ trọng kinh tế ngành công nghiệp mũi nhọn.
Muốn xây dựng nền kinh tế mở đòi hỏi tất yếu phải điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập toàn cầu.
Như vậy để đạt mục tiêu đến năm 2020 là nước CNH-HĐH, đời sống nhân dân lao động tăng cao, việc dịch chuyển ngành kinh tế là tất yếu.
Cơ cấu đầu tư theo ngành
Cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế
Khái niệm cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế
Cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế là cơ cấu thực hiện đầu tư cho từng ngành kinh tế quốc dân cũng như trong từng tiểu ngành, thể hiện việc thực hiện chính sách ưu tiên phát triển, chính sách đầu tư đối với từng ngành trong một thời kỳ nhất định.
Phân loại cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế
Có nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu cơ cấu đầu tư theo ngành. Trước hết, có thể xem xét cơ cấu đầu tư theo hai nhóm ngành: sản xuất sản phẩm xã hội và nhóm ngành kết cấu hạ tầng. Mục đích là nghiên cứu tính hợp lý của đầu tư cho từng nhóm ngành. Thứ hai, có thể nghiên cứu cơ cấu đầu tư theo ba nhóm ngành: công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Mục đích là đánh giá, phân tích tình hình đầu tư, thực hiện đường lối CNH-HĐH của Đảng. Thứ ba, xem xét cơ cấu đầu tư theo hai khối ngành: khối ngành chủ đạo và khối ngành còn lại.
Ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, cơ cấu ngành thường thay đổi nhanh.Thông thường chúng được phân chia thành 3 nhóm ngành là: công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.
Cơ cấu đầu tư hợp lí theo ngành
Để có thể đưa ra những giải pháp đầu tư phù hợp nhằm đổi mới cơ cấu ngành trước hết chúng ta xem xét cơ cấu ngành chịu ảnh hưởng bởi những nhân tố nào. Những nhân tố tác động mạnh nhất đến cơ cấu ngành:
Nhu cầu về các loại sản phẩm dịch vụ
Điều kiện phát triển khoa học công nghệ
Các lợi thế so sánh của từng ngành
Chính sách kinh tế đối ngoại
Những nhân tố trên chính là cơ sở để định hướng đầu tư cho từng ngành
Để có được một cơ cấu đầu tư theo ngành hợp lí thì phải đảm bảo được các yêu cầu cơ bản sau:
Sự cân đối trong phát triển kinh tế
Tạo điều kiện huy động có hiệu quả các nguồn lực
Tạo tốc độ phát triển cao cho từng ngành và trên toàn bộ nền kinh tế
Phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của nước đó
Đối với Việt Nam hiện nay một cơ cấu đầu tư theo ngành hợp lí là một cơ cấu:
Nếu xét theo hai nhóm ngành: Nhóm sản xuất sản phẩm xã hội và nhóm ngành kết cấu hạ tầng. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phải đi trước một bước, nhưng cần có tỉ lệ hợp lí vì nếu quá tập trung cho cơ sở hạ tầng, không chú ý đúng mức cho đầu tư sản xuất kinh doanh thì sẽ khó hoặc không có tăng trưởng.
Nếu xét theo ba nhóm ngành:công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ thì phải ưu tiên đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ, chú ý đầu tư phát triển nông nghiệp hợp lí vì nước ta hiện nay nông dân chiếm tỉ trọng lớn và nông nghiệp nông thôn có vị trí rất quan trọng trong tiến trình phát triển
Nếu xét theo hai nhóm ngành: khối ngành chủ đạo và khối ngành còn lại. Đầu tư phải đảm bảo tương quan hợp lí giưa hai khối ngành này để nền kinh tế vừa có những sản phẩm chủ đạo, tạo thế và lực cho phát triển lâu dài, đồng thời đảm bảo sự phát triển tổng hợp, nhằm đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nhanh, bền vững và hiểu quả.
Nói một cách cụ thể : Đối với Việt Nam hiện nay chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế hợp lí tiến bộ là thay đổi trong đầu tư để :
Tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng tăng cao trong tổng giá trị sản phẩm xã hội.
Tỷ trọng khu vực dịch vụ ngày càng phát triển.
Tỷ trọng của ngành nông- lâm- ngư nghiệp chiếm tỷ lệ thấp hơn trong tổng giá trị sản phẩm xã hội.
Chương II: Thực trạng cơ cấu đầu tư theo ngành tại Việt Nam từ năm 2000 cho đến nay
Thực trạng cơ cấu đầu tư theo ngành ở Việt Nam từ năm 2000 cho đến nay
Kinh nghiệm cũng như thực tế của nhiều nước cho thấy nếu có chính sách đầu tư hợp lí sẽ tạo đà cho việc phát triển nền kinh tế. Chính sách đầu tư bao gồm cả việc tạo nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn. Tỷ trọng phân bổ đầu tư vào các ngành khác nhau sẽ mang lại hiệu quả khác nhau. Vốn đầu tư cũng như tỉ trọng vốn đầu tư của các ngành có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các ngành trong toàn bộ nền kinh tế.
Bảng: cơ cấu vốn đầu tư phát triển theo ngành của Việt Nam(%)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
Ngành nông nghiệp
13.8
9.6
8.8
8.5
7.9
7.5
7.4
6.5
6.4
6.26
Ngành công nghiệp
39.3
42.4
42.3
41.2
42.7
42.6
42.2
43.5
41.5
40.63
Ngành dịch vụ
46.9
48.0
48.9
50.3
49.4
49.9
50.4
50.0
52.1
53.11
Tổng số
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2008, kinh tế 2009-2010 VN và thế giới
Qua bảng trên ta thấy cơ cấu vốn đầu tư vào các ngành trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2009 có sự chuyển biến rõ nét. Vốn đầu tư vào ngành nông nghiệp giảm dần từ 13,8% năm 2000 xuống còn 6,26% năm 2009. Ngành công nghiệp thì vốn đầu tư được tập trung nhiều h