Đề án Nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp Thực trạng và giải pháp huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ trương hàng đầu của Đảng nhằm xây dựng một nền móng kinh tế vững chắc, sãn sàng đi lên sản xuất lớn. Để thực hiện được thành công, chúng ta cần đảm bảo nguồn vốn cho nền kinh tế và cho từng doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam đang phải cành tranh hết sức khốc liệt để có thể tồn tại và có được chỗ đứng trên thương trường mà một trong những yếu tố quyết định cho sự thành công của doanh nghiệp là sử dụng đồng vốn hiệu quả nhất, làm thế nào huy động nguồn ngân quỹ với chi phí thấp và phương tiện thanh toán nhanh nhất….Vấn đề này đối với các doanh nghiệp nhà nước lại càng khó khăn hơn khi mà việc huy động và sử dụng vốn vẫn mang tính bao cấp. Do vậy, để có thể tồn tại và phát triển xứng đáng với vai trò đầu tàu của nền kinh tế, các DNNN phải sử dụng hợp lí nguồn lực sẵn có, cải tiến máy móc thiết bị để không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành….Và trên hết là việc huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước. Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên, nhóm sinh viên đầu tư xin nghiên cứu đề tài: “ Nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp. Thực trạng và giải pháp huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay”.

doc43 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 4609 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp Thực trạng và giải pháp huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Chương I : Nguồn vốn trong doanh nghiệp I. Khái niệm,bản chất và vai trò của nguồn vốn. 1. Khái niệm về vốn và nguồn vốn 2. Bản chất, vai trò của của nguồn vốn 2.1. Bản chất của nguồn vốn 2.2 .Vai trò của nguồn vốn II – Nguồn vốn trong doanh nghiệp 1. Nguồn vốn chủ sở hữu 2. Nguồn vốn nợ 3. Điều kiện và động lực để thúc đẩy hiệu quả các nguồn vốn đầu tư: Chương II. Thực trạng vấn đề huy động và sử dụng vốn của DNNN Việt Nam hiện nay I. Doanh nghiệp nhà nước . 1. Khái niệm của doanh nghiệp nhà nước 2.Vai trò của doanh nghiệp nhà nước . II. Vốn đầu tư phát triển trong DNNN 1. Khái niệm 2. Nội dung của vốn đầu tư phát triển trong DNNN 2.1. Theo mục đích sử dụng 2.2 Theo nguồn gốc sở hữu về vốn III . Thực trạng vấn đề huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN Việt Nam 1. Theo mục đích sử dụng 1.1 Vốn đầu tư xây dựng cơ bản 1.2 Vốn lưu động bổ sung 1.3 Các loại vốn khác 2. Theo nguồn gốc sở hữu vốn 2.1 Thực trạng huy động vốn chủ sở hữu ở các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. a) Vốn ngân sách nhà nước b) Vốn góp liên doanh, liên kết, vốn cổ phần hóa 2.2 Thực trạng huy động và sử dụng vốn nợ ở các doanh nghiệp nhà nước hiện nay Chương III . Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển trong các DNNN hiện nay. I. Nguyên nhân làm giảm hiệu quả huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước. 1. Ở tầm vĩ mô. 2. Ở tầm vi mô. II. Một số giải pháp nhằm nầng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN. 1. Ở tầm vĩ mô . 2. Ở tầm vi mô LỜI MỞ ĐẦU Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ trương hàng đầu của Đảng nhằm xây dựng một nền móng kinh tế vững chắc, sãn sàng đi lên sản xuất lớn. Để thực hiện được thành công, chúng ta cần đảm bảo nguồn vốn cho nền kinh tế và cho từng doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam đang phải cành tranh hết sức khốc liệt để có thể tồn tại và có được chỗ đứng trên thương trường mà một trong những yếu tố quyết định cho sự thành công của doanh nghiệp là sử dụng đồng vốn hiệu quả nhất, làm thế nào huy động nguồn ngân quỹ với chi phí thấp và phương tiện thanh toán nhanh nhất….Vấn đề này đối với các doanh nghiệp nhà nước lại càng khó khăn hơn khi mà việc huy động và sử dụng vốn vẫn mang tính bao cấp. Do vậy, để có thể tồn tại và phát triển xứng đáng với vai trò đầu tàu của nền kinh tế, các DNNN phải sử dụng hợp lí nguồn lực sẵn có, cải tiến máy móc thiết bị để không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành….Và trên hết là việc huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước. Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên, nhóm sinh viên đầu tư xin nghiên cứu đề tài: “ Nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp. Thực trạng và giải pháp huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay”. Chúng em xin chân thành cảm ơn TS. Từ Quang Phương đã giúp đỡ chúng em hoàn thành đề án này. Chương I : Nguồn vốn trong doanh nghiệp I. Khái niêm,bản chất và vai trò của nguồn vốn đầu tư 1. Khái niệm về vốn và nguồn vốn Vốn(C) là biểu hiện bằng tiền của tất cả các nguồn lực đã bỏ ra để đầu tư. Các nguồn lực có thể là của cải vật chất tài nguyên thiên nhiên là sức lao động và tất cả các tài sản vật chất khác. Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích luỹ được thể hiện dưới dạng giá trị được chuyển hoá thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Đây là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội. 2. Bản chất, vai trò của của nguồn vốn đầu tư 2.1. Bản chất của nguồn vốn Xét về bản chất ,nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội .Điều này được kinh tế học cổ điển ,kinh tế học chính trị Mac –Lênin và kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm “của cải của các dân tộc ” Adam Smith,một đị diện điển hình của kinh tế cổ điển đã khẳng định:Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn .Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết kiệm .Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa ,nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên”. Sang thế kỷ XIX,khi nghiên cứu về vấn đề cân đối kinh tế kinh tế ,về các mối quan hệ giữa các khu vưc của nền sản xuất xã hội,về các vấn đề có liên quan trực tiếp đến tích luỹ,C.Mac đã chứng minh rằng : Trong một nền kinh tế với hai khu vực ,khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng .Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm (c+v+m) trong đó c là phần tiêu hao vật chất ,(v+m) là phần giá trị mới sáng tạo ra .Khi đó, điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm bảo (v+m)của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất (c) của khu vực II. Tức là : ( v + m)I > (c)II Hay nói cách khác: (c + v + m)I > cII + cI Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế ( của cả hai khu vực) mà còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo. Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo: (c + v + m)II < (v + m)I + (v + m)II Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thỏa mãn, nền kinh tế mới có thể dành một phần thu nhập để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng. Như vậy, để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô cho đầu tư, một mặt phải tăng cường sản xuất ở khu vực I, đồng thời phải sử dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt khác, phải tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm trong sinh hoạt ở cả hai khu vực. Với phân tích như trên, chúng ta thấy rằng theo quan điểm của Mác, con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong sản xuất và trong tiêu dùng. Hay nói cách khác, nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng do sự gia tăng sản xuất và tích luỹ của nền kinh tế. Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư lại tiếp tục được nhà kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng ‘ Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi xuất và tiền tệ’ của mình, John Maynard keynes đã chứng minh được rằng: Đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng: Tức là: Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư Tiết kiệm = Thu nhập – Tiêu dùng Như vậy: Đầu tư = Tiết kiệm Hay: (I) = (S) Theo Keynes, sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ tính chất song phương của các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất và bên kia là người tiêu dùng. Thu nhập chính là mức chênh lệch giữa doanh thu từ bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ và tổng chi phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm sản xuất ra phải được bán cho người tiêu dùng hoặc cho các nhà sản xuất khác. Mặt khác đầu tư hiện hành chính bằng phần tăng thêm năng lực sản xuất mới trong kỳ. Vì vậy, xét về tổng thể phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng mà người ta gọi là tiết kiệm không thể khác với phần gia tăng năng lực sản xuất mà người ta gọi là đầu tư. Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng. Trong đó, phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân và tiết kiệm của chính phủ. Điểm cần lưu ý là tiết kiệm và đầu tư xét trên góc độ toàn nền kinh tế không nhất thiết được tiến hành cùng bởi một cá nhân hoặc doanh nghiệp nào. Có thể có cá nhân, doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó có tích luỹ nhưng không trực tiếp tham gia đầu tư. Trong khi đó, có một số cá nhân, doanh nghiệp lại thực hiện đầu tư khi chưa hoặc tích luỹ chưa đủ. Khi đó, thị trường vốn sẽ tham gia giải quyết vấn đề bằng việc điều tiết khoản vốn từ nguồn dư thừa hoặc tạm thời dư thừa sang cho người có nhu cầu sử dụng. Ví dụ, nhà đầu tư có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu ( nếu đáp ứng được một số điều kiện nhất định và tuân thủ quy trình thủ tục nhất định ) để huy động vốn thực hiện một dự án đầu tư nào đó từ các doanh nghiệp, hộ gia đình hay các cá nhân - người dư thừa hay tạm thời dư thừa vốn. Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế không phải bao giờ cũng được thiết lập. Phần tích luỹ của nền kinh tế có thể lớn hơn nhu cầu đầu tư tại nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển sang nước khác để thực hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích luỹ của nền kinh tế có thể ít hơn nhu cầu đầu tư, khi đó nền kinh tế phải huy động tiết kiệm từ nước ngoài. Trong trường hợp này, mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài khoản vãng lai. CA = S – I Trong đó : CA là tài khoản vãng lai (current account) Như vậy, trong nền kinh tế mở, nếu nhu cầu đầu tư lớn hơn tích luỹ nội bộ của nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn đầu tư từ nước ngoài. Khi đó, đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành một trong những nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích luỹ của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư tài khoản vãng lai thì quốc gia đó có thể đầu tư vốn nước ngoài hoặc cho nước ngoài vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế. 2.2 .Vai trò của nguồn vốn đầu tư: Để thực hiện hoạt động đầu tư phát triển thì phải có vốn. Vốn là chìa khoá để thực hiện mọi mục tiêu của doanh nghiệp. Vốn có tầm quan trọng đối với hoạt động kinh tế như máu trong cỏ thể người. Kế thừa những tư tưởng của những nhà kinh tế cổ điển, Mac đã trình bày những quan điểm của mình vè vai trò của vốn qua các học thuyết : tích luỹ , tuần hoàn và chu chuyển, tái sản xuất tư bản xã hội, học thuyết địa tô... Đặc biệt Mac đã chỉ ra nguồn gốc của vốn tích luỹ là lao động thặng dư do người lao động tạo ra, và nguồn vốn đó khi đem vào việc mở rộng và phàt triển sản xuất thì nó vận động như thế nào. Khi nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, Mac đã tìm thấy quy luật vận động tư bản (vốn) mà quy luật này nếu ta trừu tượng những biểu hiện cụ thể về mặt xã hội thì sẽ thấy bổ ích rằng công thức: T – H –(SLĐ-TLSX) ...SX...H’...T’ Công thức đó đã chỉ ra rằng bất kì một doanh nghiệp nào muốn thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh cũng đều phải trải qua 3 giai đoạn: Mua-Sản xuất-Bán hàng. Và điều quan trọng cho mỗi người sản xuất, mỗi doanh nghiệp phải biết tìm cách cấu trúc một cách khôn ngoan các yếu tố của tiền vốn ,đầu tư nhằm tạo ra nhiều của cải nhất cho mỗi cá nhân , mỗi doanh nghiệp và của cả xã hội. Công thức đó cũng chỉ ra rằng trong dòng chảy liên tục của vốn đầu tư nếu như hình thái nào trong ba hình thái trên chưa đi vào chu trinh vận động liên tục của các hoạt động sản xuất kinh doanh thì đồng vốn đó vẫn ở dạng tiềm năng, chứ nó chưa đem lại lợi ích thiết thực cho mỗi các cá nhân, mỗi doanh nghiệp và toàn xã hội. Tích luỹ vốn (tư bản) theo Mac là: “Sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản, hay chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư bản...”. Từ những phân tích trên Mac đã chỉ ra bản chất của quá trình tích luỹ vốn trong các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa: “Một khi kết hợp được sức lao động và đất đai tức là hai nguồn gốc đầu tiên của cải, thì tư bản có một sức bành chướng cho phép nó tăng những yếu tố tích luỹ của nó lên quá những giới hạn mà bề ngoài hình như do lượng của bản thân tư bản quyết định, nghĩa là do giá trị và khối lượng của những tư liệu sản xuất (trong đó tư bản tồn tại) đã được sản xuất ra quyết định”. Yêu cầu khách quan của tích luỹ vốn đã được Mac khẳng định do những nguyên nhân sau :”Cùng với sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì quy mô tối thiểu mà một tư bản cá biệt phải có để có thể kinh doanh trong điều kiện bình thường cũng tăng lên.” Từ đó Mac khẳng định :” Sự cạnh tranh bắt buộc nhà tư bản nếu muốn duy trì tư bản củ mình thì phải làm cho tư bản ngày càng tăng thêm mẫi lên và không thể nào tiếp tục làm cho tư bản đó ngày càng tăng lên được nếu không có sự tích luỹ ngày càng nhiều thêm”. Mac còn chỉ ra rằng những nhân tố quy định quy mô của tích luỹ : khối lượng giá trị thặng dư (lơị nhuận) năng suất lao động xã hội và quy mô vốn ban đầu (lượng tư bản ứng trước)... Như vậy, cùng với lao động, vốn (tư bản) là một trong các yếu tố đầu vào sản xuất ra hàng hoá, dịch vụ.Công nghệ sản xuất hiện có quyết định mức sản lượng được sản xuất ra từ một lượng tư bản và lao động nhất định. Hàm này cho biết các nhân tố sản xuất quyết định mức sản lượng được sản xuất ra như thế nào. Nếu kí hiệu Y là sản lượng thì ta có hàm sản xuất như sau: Y = F(K,L) Phương trình này nói rằng sản lượng là một hàm của khối lượng tư bản và lao động. Tức là hàng hoá, dịch vụ được tạo ra phu thuộc vào lượng tư bản sẵn có. Nhiều tư bản cho phép sản xuất nhiều sản phẩm hơn. * Vốn là yếu tố quan trọng đồi với sự phát triển và tăng trưởng kinh tế Trên thị trường vốn Ta có đẳng nhất thức nền kinh tế quốc dân như sau: Y – C – G = I Dưới hình thức này, đồng nhất thức của tài khoản kinh tế quốc dân phản ánh tiết kiệm bằng đầu tư. Chúng ta có thể tách tiết kiệm quốc dân thành hai phần, nhằm phân biệt tiết kiệm của hộ gia đình và tiết kiệm của chính phủ: (Y-C-T)+(T-G)=I Trong đó T là thuế Biểu thức (Y-C-T) là tiết kiệm tư nhân. Biểu thức (T-G) là tiết kiệm chính phủ Nếu chi tiêu nhiều hơn thu, chính phủ bị thâm hụt ngân sách thì tiết kiệm công cộng mang dấu âm. Tiết kiệm quốc dân bằng tiết kiệm chính phủ cộng tiết kiệm tư nhân. Trên thị trường tài chính Lãi suất vừa là chi phí đi vay vừa là lợi ích đi vay. Chính vì thế nó đóng vai trò điều chỉnh cân bằng trên thị trường vốn, đồng thời nó cho thấy vai trò của tiết kiệm đối với tăng trưởng kinh tế S(r) = I(r) Ta có sơ đồ thị trường vốn:  Nhìn vào sơ đồ ta thấy, bất kì sự thay đổi nào ảnh hưởng đến cung vốn sẽ ảnh hưởng đến lãi suất và thông qua đó ảnh hưởng đến đầu tư. Nếu chính phủ thực hiện chính sáh tài khoá thắt chặt làm tiết kiệm chính phủ tăng, đương cung vốn dích sang phải dẫn tới lãi suất giảm, đầu tư tăng làm sản lượng tăng. Như vậy, sự cắt giảm tiêu dùng sẽ giải phóng nguồn lực cho đầu tư. Một nghiên cứu khác cũng khẳng định vai trò của vốn đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế, đó là hệ số ICOR Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy : muốn giữ tốc độ tăng truởng ở mức trung bình thì tỉ lệ đầu tư phải đạt được ở mức từ 15( đến 20( so vớI GDp tuỳ thuộc vào ICOR của từng nước. Vốn đầu tư ICOR = -------------------------------- GDP do vốn tạo ra Từ đó suy ra: Vốn đầu tư Mửc tăng GDP = ------------------------ ICOR Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. II. Nguồn vốn trong doanh nghiệp 1. Nguồn vốn chủ sở hữu a. Vốn ban đầu: Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định, do các cổ đông_ chủ sở hữu góp. Khi nói đến nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó, vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo vốn của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của nhà nước. Chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước chính là nhà nước. Hiện nay, cơ chế quản lí tài chính nói chung và quản lí vốn của doanh nghiệp nhà nước nói riêng đang có những thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế. Đối với doanh nghiệp, theo luật doanh nghiệp chủ sở hữu phải có số vốn cần thiết để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp. Trong thực tế, vốn tự có của chủ doanh nghiệp bao giờ cũng lớn hơn rất nhiều vốn pháp định, nhất là sau một thời gian hoạt động và mở rộng hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn với công ty cổ phần, vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố quyết định để hình thành công ty. Mỗi một cổ đông đóng góp là một chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị cổ phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên, các công ty cổ phần cũng có một số dạng tương đối khác nhau do đó, cách thức huy động vốn của các công ty này cũng khác nhau. b. Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia: Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tài trợ bằng lợi nhuận không chia- nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì doanh nghiệp giảm đước chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Để có được lợi nhuận để lại thì trước tiên doanh nghiệp phải đang hoạt động, có lợi nhuận và được phép tiếp tục đầu tư. Đối với doanh nghiệp nhà nước việc tái đầu tư còn phụ thuộc vào chính sách tái đầu tư của nhà nước. Đối với công ty cổ phần việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố nhạy cảm. Đó là mối quan hệ giữa việc chi trả cổ tức và giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư. Khi công ty để lại lợi nhuận, tức là cổ đông không được nhận cổ tức, bù lại họ có quyền sở hữu số cổ phần tăng lên của công ty. Như vậy, giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài, nhưng mặt khác dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kì trước mắt (ngắn hạn) do cổ đôg chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cố tức thấp, hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể bị giảm sút. Khi giải quyết vấn đề này cần lưu ý một số yếu tố có liên quan như: - Tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ. - Mức chia lãi trên một cổ phiếu của các năm trước. - Sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của công ty, tâm lý và đánh giá của công chúng về cổ phiếu đó. - Hiệu quả của việc tái đầu tư. c. Phát hành cổ phiếu: Là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp và là nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng của doanh nghiệp. ♦ Cổ phiếu thường. Cổ phiếu thường( còn gọi là cổ phiếu thông thường)là loại cổ phiếu thông dụng nhất, đồng thời là chứng khoán quan trọng nhất đước trao đổi, mua bán trên thị trường chứng khoán. Sau khi phát hành phần lớn cổ phiếu nằm trong tay các nhà đầu tư- các cổ đông. Những cổ phiếu này gọi là những cổ phiếu đang lưu hành trên thị trường. Công ty phát hành có thể mua lại những cổ phiếu của mình và giữ chúng nhằm mục đích nào đó, chúng được gọi là cổ phiếu ngân quỹ. Việc mua bán những cổ phiếu này phụ thuộc vào một sổ yếu tố như: Tình hình biến động vốn và khả năng đầu tư. Tình hình biến động thị giá chứng khoán trên thị trường. Chính sách đối với việc sáp nhập hoặc thôn tính công ty. Tình hình trên thị trường chứng khoán và quy định của uỷ ban chứng khoán nhà nước. ♦ Cổ phiếu ưu tiên. Được hiểu là loại cổ phiếu phát có kèm theo một số điều kiện ưu tiên cho nhà đầu tư sở hữu nó. Thường chỉ chiểm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp việc sủ dụng cổ phiếu ưu tiên là thích hợp. Cổ phiếu ưu tiên có đắc điểm là nó thường có cổ tức cổ định. Người chủ sở hữu cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thông thường. Nếu số lãi chỉ đủ để trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không được nhận cổ tức của kỳ đó. Các cổ phiếu ưu đãi có thể được chính công ty phát hành thu lại khi công ty cần thiết Một vấn đề rất quan trọng cần đề cập khi phát hành cổ phiếu ưu tiên là thuế. Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập công ty,cổ tức được lây từ lợi nhuân sau thuế. Đó là hạn chế của cổ phiếu ưu tiên. Ngoài ra vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp có thể được bổ sung từ phần chênh lệch đánh giá lại tài sản cố định, chênh lệch tỷ giá. ♦Chứng khoán có thể chuyển đổi Ở một số nước, các công ty có thể phát hành những chứng khoán kèm theo những điều kiện có thể chuyển đổi được. Nói chung, sự chuyển đổi và lựa chọn
Luận văn liên quan