Trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, lượng sản xuất phát triển chưa cao và còn có nhiều trình độ khác nhau. Do đó, trong nền kinh tế tồn tại ba hình thức sơ hữu tư liệu sản xuất, đó là: sơ hữu toàn dân, sơ hữu tập thể, sơ hữu tư nhân. Dựa trên ba hinh thức sơ hữu đó đã hình thành 5 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế, hình thức sơ hữu tư liệu sản xuất không tồn tại biệt lập mà đan xen, tác động lẫn nhau, thậm chí còn mâu thuẫn với nhau vì trong đó tồn tại hai quan hệ sản xuất đối lập nhau: quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, hình thức thể hiện là sơ hữu toàn dân, sơ hữu tập thể và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thức thể hiện là sơ hữu tư nhân. Các chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Vì vậy, để phát triển nền kinh tế, Đảng và Nhà nước đã xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù, nền kinh tế đã có định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng nó vẫn mắc phải những khiếm khuyết của cơ chế thị trường, trong đó vấn đề về phân phối thu nhập là một vấn đề đáng quan tâm. Đây là vấn đề quan trọng liên quan đến các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội
16 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2174 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề án Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Lý luận, thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 2
Nội dung:
l. Những lý luận chung 3
1. Nền kinh tế nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 3
2. Phân phối thu nhập trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 5
3. Mối quan hệ giữa nền kinh tế nhiều
thành phần và phân phối thu nhập cho cá nhân
trong cộng đồng 9
ll. Thực trạng phân phối thu nhập quốc dân
ở Việt Nam 11
lll. Giải pháp cho phân phối thu nhập ở
Việt Nam 13
1. Những phương hướng cơ bản 13
2. Nhiệm vụ cụ thể đặt ra hiện nay 14
Phần kết 15
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, lượng sản xuất phát triển chưa cao và còn có nhiều trình độ khác nhau. Do đó, trong nền kinh tế tồn tại ba hình thức sơ hữu tư liệu sản xuất, đó là: sơ hữu toàn dân, sơ hữu tập thể, sơ hữu tư nhân. Dựa trên ba hinh thức sơ hữu đó đã hình thành 5 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế, hình thức sơ hữu tư liệu sản xuất không tồn tại biệt lập mà đan xen, tác động lẫn nhau, thậm chí còn mâu thuẫn với nhau vì trong đó tồn tại hai quan hệ sản xuất đối lập nhau: quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, hình thức thể hiện là sơ hữu toàn dân, sơ hữu tập thể và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thức thể hiện là sơ hữu tư nhân. Các chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Vì vậy, để phát triển nền kinh tế, Đảng và Nhà nước đã xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù, nền kinh tế đã có định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng nó vẫn mắc phải những khiếm khuyết của cơ chế thị trường, trong đó vấn đề về phân phối thu nhập là một vấn đề đáng quan tâm. Đây là vấn đề quan trọng liên quan đến các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội…
Sau khi học bộ môn kinh tế chính trị, em đã chon viết đề án: “Phân phối thu nhập trong nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Lý luận, thực trạng và giải pháp.”
Đề án này em trình bày theo phương pháp diễn dịch: nêu ra vấn đề – giải thích, lý luận về vấn đề – nhận xét, kết luận về vấn đề đó.
Đây là đề án khoa học đầu tiên của em nên không thể tránh khỏi những sai sót. Em mong được sự góp ý và chỉ bảo của cô. Em xin cảm ơn!
NỘI DUNG
l.Những lý luận chung :
1. Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là một tất yếu khách quan .
Nền kinh tế nhiều thành phần có nhiều hình thức quan hệ sản xuất , phù hợp với trình độ thấp kém và không đồng đều của lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Sự phù hợp này sẽ thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở nước ta.
Nền kinh tế nhiều thành phần thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.
Nó cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong nước như: vốn, lao động, tài nguyên, kinh nghiệm tổ chức quản lý, khoa học và công nghệ mới trên thế giới….
Nền kinh tế nhiều thành phần tạo điều kiện và mở rộng các hinh thức quá độ, trong đó có hình thức kinh tế tư bản nhà nước, nó như những cầu nối, trạm trung gian cần thiết để đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa.
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tạo điều kiện khắc phục tình trạng độc quyền, tạo quan hệ cạnh tranh, thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, phát triển lượng sản xuất.
Qua sự phân tích trên cho thấy cơ cấu kinh tế nhiều thành phần có vai trò rất quan trọng trong thời kỳ quá độ len chủ nghĩa xã hội. Dựa vào những nguyên lý chung và điều kiện cụ thể ở Việt Nam, Đảng Cộng sản đã xác định: nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam có 5 thành phần: thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư bản nhà nước, thành phần kinh tế tư nhân và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp, tập đoàn Nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước, các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế. Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chấ quan và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn, cùng kinh doanh, tự quản lý theo nguyên tắc tập trung, bình đẳng, cùng có lợi. Kinh tế tập thể với nhiều hinh thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác dựa trên sơ hữu của các thành viên và sở hữu tập thể; phân phối theo lao động; theo mức đóng góp các nguồn lực và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế cá thể là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình. Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên, thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình. Hiện nay, ở nước ta, các hình thức kinh tế này đa số hoạt động dưới hình thức kinh tế hộ gia đình, do truyền thống giúp đỡ nhau của những người trong gia đình. Các hình thức kinh tế này đang là một bộ phận đông đảo, có tiềm năng to lớn, có vị trí quan trọng, lâu dài. Nó góp phần tạo ra một khối lượng lớn của cải và
tạo ra nhiều việc làm cho những người lao động phổ thông. Do đó, cần phải có biện pháp khuyến khích, hỗ trợ cho các hình thức nay phát triển.Nhà nước phải giúp các chủ thể kinh tế trong thành phần kinh tế này về kỹ thuật, giúp đỡ đào tạo người lao động trong các cơ sở này, tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất vay vốn để phát triển sản xuất giúp đỡ cho nhiều người có việc làm.
Kinh tế tư bản tư nhân là hình thức kinh tế mà sản xuất, kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa có vai trò đáng kể về phương diện lượng sản xuất, xã hội hóa sản xuất cũng như về phương diện giải quyết các vấn đề xã hội. Kinh tế tư bản tư nhân giúp thúc đẩy phát triển lượng sản xuất, tạo ra rất nhiều việc làm cho xã hội. Kinh tế tư bản tư nhân đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm các doanh nghiệp có thể có 100% vốn đầu tư nước ngoài (một thành viên hoặc nhiều thành viên) hoặc có thể liên kết, liên doanh với doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân của nước ta. Trong 5 năm (1996 – 2000), các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, trên 22%
kim ngạch xuất khẩu và đóng gop trên 10% GDP của cả nước.
2. Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
a. Bản chất và vị trí của phân phối:
• Phân phối là một khâu của quá trình tái sản xuất:
Quá trình tái sản xuất xã hội, theo nghĩa rộng bao gồm bốn khâu: sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng. Các khâu này có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Quy mô, tính chất của sản xuất quyết định phân phối, nếu phân phối hợp lý, thỏa mãn được lợi ích, nhu cầu của các chủ thể kinh tế thì nó sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu nhưng nếu phân phối không thỏa đáng thì nó sẽ kìm hãm sản xuất. Các mối quan hệ giữa các khâu khác cũng hoạt động tương tự như vậy.
Phân phối bao gồm: phân phối cho tiêu dùng sản xuất, phân phối thu nhập quốc dân. Sự phân phối cho tiêu dùng sản xuất là tiền đề, điều kiện và là một yếu tố của sản xuất, nó quyết định quy mô, cơ cấu và tốc độ phát triển của sản xuất. Phân phối thu nhập là kết quả của sản xuất, do sản xuất quyết định. Tuy phân phối thu nhập là sản phẩm của sản xuất nhưng phân phối thu nhập cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sản xuất.
• Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất:
Quan hệ phân phối do quan hệ sản xuất quyết định. Do vậy, mỗi phương thức sản xuất đều có một quy luật phân phối của cải vật chất thích ứng với nó. Quan hệ sản xuất như thế nào thì quan hệ sơ hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ trao đổi hoạt động cho nhau.
Sự biến đổi tính chất, trình độ lượng sản xuất và quan hệ sản xuất kéo theo sự biến đổi của quan hệ phân phối. Quan hệ phân phối có tác động trở lại đối với quan hệ sơ hữu và do đó đối với sản xuất: có thể làm tăng hoặc giảm quy mô sở hữu, hoặc cũng có thể làm biến đổi tính chất của quan hệ sơ hữu. Mỗi quan hệ sản xuất lại có một quan hệ sơ hữu phù hợp với trình độ, tính chất của nó. Do quan hệ sản xuất có tính lịch sử nên kéo theo
quan hệ phân phối cũng có tính lịch sử. Quan hệ phân phối vừa có tính đồng nhất, vừa có tính lịch sử. Trong bất cứ xã hội nào, sản phẩm lao động cũng được phân chia thành ba bộ phận: nột bộ phận cho tiêu dùng sản xuất tức là dành cho tái sản xuất, một bộ phận để dự trữ và một bộ phận cho tiêu dùng chung của xã hội và tiêu dùng cá nhân.
b. Các hình thức phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Trong mục tiêu và phương hướng phát triển của đất nước 5 năm 2006 – 2010, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X nêu rõ: “thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.”
Phân phối theo lao động là phân phối trong cac đơn vị kinh tế dựa trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu
sản xuất (thành phần kinh tế nhà nước) hoặc các hợp tác xã cổ phần mà phần góp vốn của các thành viên bằng nhau. Các thành phần kinh tế này đều dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ở các trình độ khác nhau. Người lao động làm chủ những tư liệu sản xuất, nên tất yếu cũng làm chủ phân phối thu nhập. Phân phối theo lao động là hinh thức phân phối thu nhập căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động của tưng người đã đóng góp cho xã hội. Theo quy luật đó, người làm nhiều thì hưởng nhiều, người làm ít thì hưởng ít, người có sức lao động mà không làm thì không hưởng.
Phân phối theo lao động la hình thức phân phối công bằng nhất trong lịch sử. Đây là một hình thức phân phối phù hợp trong thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, theo C.Mác thì nó chỉ là bình đẳng trong khuôn khổ “pháp quyền tư sản” nhưng nó là hình thức phân phối bình đẳng nhất hiện nay vì trong nó không co chế đô người bóc lột người
, người lao động được hưởng thành quả đúng với công sức mình bỏ ra. Sự bình đẳng đó còn thiếu sót ở chỗ: với một khối lượng công việc ngang nhau, thời gian làm việc như nhau nhưng người có trình độ, chất lươngj lao động cao hơn người kia thì sẽ lĩnh nhiều hơn người kia, người nay vẫn giàu hơn người kia, trong xã hội vẫn có phân hòa giàu nghèo. Nếu tình trạng này càng kéo dài thì sự phân cực giàu nghèo càng xa. Như vậy, xã hội xã hội chủ nghĩa sẽ trở nên giống như xã hội tư bản chủ nghĩa.
Ngoài hình thức phân phối theo lao động còn tồn tại hình thức khác là: phân phối theo mức góp vốn cổ phần và các nguồn lực khác. Trong các đơn vị kinh tế tập thể bậc thấp có sự kết hợp giữa phân phối theo vốn và phân phối theo lao động. Trong cac thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ thì thu nhập phụ thuộc vào sở hữu tư liệu sản xuất, vốn đầu tư cho sản xuất và tài năng sản xuất kinh doanh của chính những người lao động. Trong thành phần kinh tế tư bản tư nhân và tư bản nhà nước, việc phân phối ở đây dựa trên cơ sở sở hữu cổ phần, sở hữu sức lao động, sở hữu tư bản…. Trong thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, phân phối thu nhập tùy theo mức đống góp vốn, tư liệu sản xuất, trình độ cơ sở hạ tầng của nước sở tại.
Để nâng cao mức sống về vật chất và tinh thần của nhân dân, đặc biệt là các tầng lớp nhân dân lao động, sự phân phối thu nhập của mọi thành viên trong xã hội còn được thực hiện qua quỹ phúc lợi xã hội và tập thể. Sự phân phối này có ý nghĩa hết sức quan trong vì nó góp phần:
- Phát huy tính tích cực lao động cộng đồng của mọi thành viên trong xã hội.
- Nâng cao thêm mức sống toàn dân, đặc biệt đối với những người có thu nhập thấp, đời sống khó khăn, làm giảm sự chênh lệch quá đáng về thu nhập giữa các
thành viên trong cộng đồng.
- Giáo dục ý thức cộng đồng, xây dựng chế độ xã hội mới.
- Quỹ phúc lợi tập thể và xã hội là một bộ phận không thể thiếu trong quá trình phân phối thu nhập cho cá nhân trong cộng đồng.
3. Mối quan hệ giữa nền kinh tế nhiều thành phần và phân phối thu nhập cho cá nhân trong cộng đồng:
• Sự đa dạng về hình thức phân phối thu nhập là tất yếu khách quan do nền kinh tế nhiều thành phần quy định:
- Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế nhiều thành phần, do đó, tồn tại nhiều quan hệ sở hữu: công hữu, tư hữu và quan hệ sở hữu hỗn hợp của hai quan hệ sở hữu trên. Quan hệ sở hữu là quan hệ mang tính quyết định trong quan hệ sản xuất. Nó quyết định quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối của quan hệ sản xuất đó. Do vậy, với một nền kinh tế nhiều quan hệ sở hữu thì tất yếu phải có nhiều quan hệ phân phối phù hợp.
- Trong nền kinh tế nhiều thành phần, các chủ thể kinh tế thuộc các thành phần kinh tế khác nhau sẽ có cách thức tổ chức sản xuất và kinh doanh khác nhau. Các chủ thể có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh.
- Kỹ thuật – công nghệ, kinh nghiệm, cách thức tổ chức quản lý, sản xuất của mỗi thành phần kinh tế là khác nhau. Ví dụ như: thành phần kinh tế nhà nước (các doanh nghiệp, tập đoàn nhà nước) và thành phần kinh tế tập thể (các hợp tác xã sản xuất). Cả hai thành phần kinh tế này đều dựa trên quan hệ công hữu về tư liệu sản xuất nhưng trình độ tư liệu sản xuất, kỹ thuật sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước vẫn hơn cac hợp tác xã sản xuất. Trong thành phần kinh tế tư nhân cũng có sự khác biệt rõ rệt giữa kinh tế tư bản tư nhân, sở hữu một khối
lượng vốn khổng lồ được tích lũy bằng bóc lột giá trị thặng dư, nên có thể thay đổi tư liệu sản xuất dễ dàng hơn kinh tế cá thể, tiểu chủ vốn có một lượng vốn nhỏ hơn rất nhiều được tích lũy bởi lao động của cá nhân và gia đình. Tóm lại, sự khác biệt này là do sự khác nhau về nguồn lực: năng lực sở trường, tay nghề, của cải, tiền vốn, trình độ chuyên môn, trình độ quản lý… của các chủ thể kinh tế đóng góp cho sản xuất và kinh doanh.
Vì vậy, không thể tồn tại một hình thức phân phối thu nhập thống nhất cho cả nền kinh tế mà phải có nhiều hình thức phân phối thu nhập khác nhau mới có thể thích hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Phân phối thu nhập do nền kinh tế nhiều thành phần quy định nhưng nó không phải là một nhân tố thụ động chịu sự tác động của nền kinh tế nhiều thành phần, phân phối cũng có tác động trở lại nền kinh tế. Trong thời kỳ trước đổi mới (1986), chúng ta đã chủ quan áp đặt quan hệ phân phối bình quân theo kiểu cấp phát, hoạt động sản xuất và kinh doan của các doanh nghiệp nhà nước đều thực theo chỉ tiêu, kế hoạch từ trên xuống. Quan hệ phân phối này không phù hợp với trình độ phát triển của lượng sản xuất lúc đó nên nó đã kìm hãm sự phát triển của lượng sản xuất, kìm hãm tăng trưởng kinh tế. Quan hệ phân phối này đã làm cho nên kinh tế tụt dốc, rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Năm 1986, lạm phát đẫ đạt tới con số kỷ lục: 774.7%. Đến cuối năm, Đại hội Đảng Vl đã quyết định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, phân phối. Sau 10 năm phát triển nên kinh tế thị trường, vào năm 1996, nước ta đã có tỉ lệ tăng trưởng GDP cao hơn 2 lần tỉ lệ lạm phát: GDP tăng 9.3%, lạm phát là 4.5%.Thật vậy, phân phối thu nhập có tác động rất to lớn tới nền kinh tế, nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tăng trưởng của nền kinh tế.
ll. Thực trạng phân phối thu nhập quốc dân ở Việt Nam hiện nay:
Như đã phân tích ở trên, mỗi chế độ xã hội có chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu quyết định. Những quan hệ phân phối, các hình thức thu nhập là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều chế độ sở hữu. Do đó, tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập: phân phối theo lao động, hiệu quả kinh tế; phân phối theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.