Đề án Phát triển chế biến và xuất khẩu thủy sản Nghệ An giai đoạn 2006-2010

Nền kinh tế của Việt Nam nói chung, kinh tế thủy sản nói riêng đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Đây cũng là cơ hội rất lớn cho hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu ra thị trường thế giới. Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, hàng thủy sản Việt nam tham gia vào một sân chơi bình đẳng hơn. Tuy nhiên, quá trình này cũng đặt Ngành thuỷ sản trước những thách thức không nhỏ phải cạnh tranh gay gắt, các hàng rào thương mại như các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm ngày càng khắt khe, các vụ kiện chống bán phá giá dễ xẩy ra hơn do chính sách bảo hộ của các nước lớn. Trước bối cảnh đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An có Nghị quyết 01/ NQ - TU ngày 26/12/2005 về Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, trong đó có Đề án Phát triển Chế biến và xuất khẩu thủy sản thuộc chương trình phát triển kinh tế biển và ven biển. Để thực hiện thắng lợi những mục tiêu về phát triển kinh tế thủy sản mà Nghị quyết đề ra cần có chương trình phát triển chế biến và xuất khẩu thủy sản tới năm 2010 phù hợp với thực tiễn phát triển của Ngành trong thời kỳ mới nhằm đảm bảo sự phát triển chế biến và xuất khẩu thủy sản gắn với khả năng và nguồn cung cấp nguyên liệu, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm và thị hiếu của các thị trường, đưa sản xuất kinh doanh phát triển một cách có hiệu quả và bền vững. Những căn cứ để xây dựng đề án: - Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2006-2010; - Nghị quyết số 01/NQ-TU ngày 26/ 12/ 2005 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An khóa XVI, về chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI; - Quyết định số 436/ QĐ-UBND ngày 03/ 02/ 2006 của UBND tỉnh Nghệ An về việc ban hành kế hoạch triển khai các chương trình, đề án trọng điểm thực hiện Nghị quyết 01/ NQ-TU của ban thường vụ Tỉnh ủy khóa XVI; - Kế hoạch phát triển kinh tế thủy sản Nghệ An giai đoạn 2006-2010 của Ngành Thủy sản Nghệ An.

doc34 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2368 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phát triển chế biến và xuất khẩu thủy sản Nghệ An giai đoạn 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN NGHỆ AN GIAI ĐOẠN 2006 - 2010 ( Ban hành kèm theo Quyết định số: 82 /2006/ QĐ - UBND ngày 22 tháng 8 năm 2006 của UBND tỉnh Nghệ An ) MỞ ĐẦU Nền kinh tế của Việt Nam nói chung, kinh tế thủy sản nói riêng đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Đây cũng là cơ hội rất lớn cho hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu ra thị trường thế giới. Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, hàng thủy sản Việt nam tham gia vào một sân chơi bình đẳng hơn. Tuy nhiên, quá trình này cũng đặt Ngành thuỷ sản trước những thách thức không nhỏ phải cạnh tranh gay gắt, các hàng rào thương mại như các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm ngày càng khắt khe, các vụ kiện chống bán phá giá dễ xẩy ra hơn do chính sách bảo hộ của các nước lớn. Trước bối cảnh đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An có Nghị quyết 01/ NQ - TU ngày 26/12/2005 về Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, trong đó có Đề án Phát triển Chế biến và xuất khẩu thủy sản thuộc chương trình phát triển kinh tế biển và ven biển. Để thực hiện thắng lợi những mục tiêu về phát triển kinh tế thủy sản mà Nghị quyết đề ra cần có chương trình phát triển chế biến và xuất khẩu thủy sản tới năm 2010 phù hợp với thực tiễn phát triển của Ngành trong thời kỳ mới nhằm đảm bảo sự phát triển chế biến và xuất khẩu thủy sản gắn với khả năng và nguồn cung cấp nguyên liệu, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm và thị hiếu của các thị trường, đưa sản xuất kinh doanh phát triển một cách có hiệu quả và bền vững. Những căn cứ để xây dựng đề án: - Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2006-2010; - Nghị quyết số 01/NQ-TU ngày 26/ 12/ 2005 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An khóa XVI, về chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI; - Quyết định số 436/ QĐ-UBND ngày 03/ 02/ 2006 của UBND tỉnh Nghệ An về việc ban hành kế hoạch triển khai các chương trình, đề án trọng điểm thực hiện Nghị quyết 01/ NQ-TU của ban thường vụ Tỉnh ủy khóa XVI; - Kế hoạch phát triển kinh tế thủy sản Nghệ An giai đoạn 2006-2010 của Ngành Thủy sản Nghệ An. Bản đề án này bao gồm các nội dung chính sau: Phần I: THỰC TRẠNG VỀ SẢN XUẤT, CHẾ BIẾN XUẤT KHẨU THỦY SẢN NGHỆ AN HIỆN NAY. Phần II: MỤC TIÊU VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN ĐẾN 2010 . Phần III: TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHẦN I THỰC TRẠNG VỀ SẢN XUẤT CHẾ BIẾN, XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA NGHỆ AN HIỆN NAY A. THỰC TRẠNG I. TÌNH HÌNH CUNG CẤP NGUYÊN LIỆU THỦY SẢN PHỤC VỤ CB-XK HIỆN NAY Nguồn nguyên liệu cung cấp cho chế biến sản phẩm thủy sản trong những năm gần đây ở tỉnh ta được lấy từ khai thác, nuôi trồng. Tỷ trọng nguyên liệu đưa vào chế biến còn thấp (Nằm trong khoảng từ 37%- 49 % của sản lượng khai thác được); Nghề nuôi tôm của tỉnh ta chỉ có một vụ, thời gian thu hoạch ngắn; Vì vậy, dù sản lượng khai thác và nuôi trồng trong tỉnh hàng năm tương đối lớn, nhưng do cơ cấu, mùa vụ chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất nên nhiều doanh nghiệp còn phải mua thêm nguyên liệu từ các tỉnh bạn. 1. Hiện trạng cung cấp nguyên liệu từ NTTS. Được sự quan tâm, đầu tư của Nhà nước thông qua chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản nên nghề nuôi trồng thuỷ sản có sự phát triển vượt bậc về mọi mặt, đối tượng nuôi ngày một đa dạng; diện tích, năng suất nuôi trồng thủy sản không ngừng tăng lên qua các năm. Tốc độ tăng trưởng sản lượng nuôi trồng trong những năm gần đây khá cao (bình quân hàng năm giai đoạn 2000 - 2005 đạt 17,3 %/năm), trong đó nổi bật là sự phát triển vượt bậc của nghề nuôi tôm Sú. (Xem phụ lục 1: Kết quả đạt được của nghề nuôi thủy sản giai đoạn 2001-2005). Năm 2005, sản lượng thủy sản nuôi đạt 18.000 tấn. Trong đó tập trung vào phát triển nuôi các đối tượng có giá trị xuất khẩu và có khả năng về thị trường như: tôm sú, cá rô phi đơn tính, cá giò.....Cụ thể: 1.1. Nhóm sản phẩm tôm: Tôm sú là đối tượng nuôi chủ lực phục vụ xuất khẩu và nghề nuôi tôm sú phát triển rất nhanh. Tính đến năm 2005 diện tích nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh ( TC&BTC) là 800 ha, sản lượng đạt 1.500 tấn. Năng suất nuôi tôm bình quân toàn tỉnh đạt gần 1tấn/ha; năng suất tôm thâm canh đạt 1,9 tấn/ha. Tôm thẻ chân trắng đã du nhập vào nuôi trong tỉnh nhưng mới ở mức khảo nghiệm, do vậy loài tôm này chưa có sản luợng cung cấp cho chế biến xuất khẩu (CBXK). 1.2. Nhóm cá nước mặn: Đã bước đầu quan tâm nhưng sản lượng chưa nhiều, chủ yếu tiêu thụ nội địa. Đối tượng nuôi chủ yếu là cá giò, cá mú, cá vược..vv. Năm 2005 có 30 lồng nuôi biển nhưng do ảnh hưởng của thiên tai (Bão lụt) nên phong trào nuôi biển phát triển chưa mạnh, chưa tương xứng với tiềm năng. Theo số liệu điều tra, diện tích có khả năng nuôi biển 1.300ha vì vậy nó có thể được xem là nguồn cung cấp nguyên liệu cho chế biến và xuất khẩu. Hiện nay tỉnh ta đang có chủ trương quan tâm khôi phục và phát triển nghề nuôi này. 1.3. Nhóm nhuyễn thể: Đối tượng nuôi hiện nay trong tỉnh ta chủ yếu là ngao. Năm 2005, diện tích nuôi ngao gần 100 ha, năng suất bình quân đạt 14 tấn/ha. Tuy nhiên nghề nuôi ngao vẫn trong tình trạng nuôi quảng canh, nhỏ lẻ, dựa vào nguồn giống tự nhiên là chính. Sản phẩm chủ yếu tiêu thụ nội địa. 1.4. Cá rô phi đơn tính: Cá rô phi đơn tính là đối tượng nuôi nước ngọt có tiềm năng phục vụ xuất khẩu. Từ năm 2003 tỉnh đã triển khai chương trình phát triển nuôi cá rô phi. Năm 2005, sản lượng cá rô phi xuất khẩu đạt 2.500 tấn tăng 277,7% so năm 2003. Tuy nhiên do kích cỡ cá nuôi nhỏ không đáp ứng yêu cầu của chế biến, xuất khẩu. Vì vậy chỉ dùng cho tiêu thụ nội địa. 1.5. Nhóm sản phẩm cua: Nghề nuôi cua đang được phát triển, nhưng mới chỉ ở quy mô nhỏ tại các huyện thị ven biển. Sản phẩm chủ yếu xuất sang thị trường Trung Quốc theo đường tiểu ngạch và tiêu thụ nội địa. Hiện nay chúng ta đã sản xuất nhân tạo được giống cua là điều kiện thuận lợi cho việc nuôi cua thương phẩm. Ghẹ biển là sản phẩm có thị trường tiêu thụ rộng, nhưng sản lượng khai thác còn hạn chế; trong khi ta chưa chủ động được giống và công nghệ nuôi nên chưa kích thích nghề nuôi ghẹ phát triển. 2. Hiện trạng cung cấp nguyên liệu từ khai thác ( Xem phụ lục2: Kết quả đạt được của nghề khai thác thủy sản giai đoạn 2001-2005). Đội tàu khai thác thuỷ sản của toàn tỉnh từ năm 2001 đến nay mặc dù có sự thay đổi đáng kể về số lượng và công suất máy. Cơ cấu đội tàu phát triển theo hướng giảm dần loại tàu thuyền có công suất nhỏ dưới 20 CV và tăng dần loại tàu có công suất từ 50 CV trở lên để khai thác có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, nghề khai thác chủ yếu đang ở ven bờ, công nghệ khai thác còn chậm đổi mới; Số lượng tàu to máy lớn tham gia đánh cá xa bờ không nhiều, hiệu quả khai thác còn thấp. Năm 2005 số lượng tàu thuyền có công suất trên 90 CV khai thác vùng khơi mới chỉ có 275 chiếc, chiếm 8,5% số lượng tàu thuyền hiện có. Nguồn lợi thủy sản ngày càng suy giảm, đặc biệt 5 năm gần đây; Nhiều chủng loại nguyên liệu có giá trị xuất khẩu cao như tôm he, cá nhỡ, ốc hương... rất khan hiếm. Chỉ tính riêng tôm he ở vùng vịnh Diễn Châu trước đây cung cấp hàng trăm tấn mỗi năm nhưng hiện nay trữ lượng loài tôm này quá ít ỏi. Sản lượng khai thác hải sản tăng không nhiều qua các năm (Năm 2001 sản lượng khai thác đạt 30.000 tấn, đến năm 2005 đạt 37.000 tấn, chỉ tăng bình quân 6%/ năm), chủ yếu bán tươi, chế biến nội địa; cung cấp cho chế biến hàng xuất khẩu còn ít. Hiện nay, bằng việc hướng dẫn và phối hợp giữa chế biến, xuất khẩu với khai thác hải sản, ngư dân đã chuyển dần từ việc khai thác theo số lượng sang những đối tượng có giá trị xuất khẩu. Trong đó phải kể đến việc chuyển hướng sang nghề chụp mực, rê mực, nghề câu cá hố... Trước tác động của giá nhiên liệu liên tục tăng trong thời gian qua, nhiều tàu thuyền đã chuyển nghề khai thác tốn ít nhiên liệu và lựa chọn đối tượng khai thác chất lượng cao và có giá trị xuất khẩu. Nhiều loại cá trước đây không xuất khẩu được nay nhờ có thị trường và đổi mới công nghệ chế biến, đổi mới quản lý an toàn vệ sinh mà trở thành đối tượng khai thác có hiệu quả như: Cá hố, cá Bánh đường, cá Lưỡng còm và các loại cá tạp thịt trắng khác ... 3. Bảo quản sau thu hoạch - Vấn đề bảo quản sau thu hoạch đã ngày càng được quan tâm, nhất là đối với các loại hải sản có giá trị xuất khẩu. Nhiều nơi ngư dân đã đầu tư trang bị dụng cụ bảo quản lạnh trên tàu khai thác hải sản xa bờ nhằm mục đích giữ tươi nguyên liệu khai thác được trong từng chuyến biển. Dịch vụ hậu cần nghề cá cũng phát triển, nhiều cơ sở sản xuất đá lạnh được xây dựng cung cấp hảng nghìn tấn đá lạnh hàng năm, cơ bản đáp ứng nhu cầu về bảo quản nguyên liệu của tàu khai thác. Tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu trong sản lượng khai thác đã tăng từ 6% năm 2001 lên 10% năm 2005. Tuy nhiên, ngoài các chủng loại nguyên liệu dùng để chế biến nước mắm và các loại mắm khác được bảo quản bằng muối thì hầu hết các tàu thuyền đánh cá đều dùng nước đá xay nhỏ để bảo quản sản phẩm, chưa có hệ thống thiết bị bảo quản lạnh hiện đại trên tàu nên thời gian bảo quản ngắn, chất lượng nguyên liệu còn hạn chế. Điều kiện về vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được chú trọng nên tác động không nhỏ đến chất lượng nguyên liệu. - Nguyên liệu thủy sản đến nhà máy chế biến qua hệ thống các đại lý thu gom trung gian nhiều nấc, nên ảnh hưởng không tốt đến chất lượng và yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm. Mặc dù đã được các cơ quan chức năng tuyên truyền, kiểm tra giám sát nhưng hiện tượng ngâm nước, dùng các hóa chất và phụ gia bảo quản không đúng quy định làm ảnh hưởng đến chất lượng nguyên vẫn còn.Vì vậy, công tác bảo quản sau thu hoạch cần được quan tâm hơn nữa, nhất là đối với các loại sản phẩm có giá trị kinh tế cao. II. VỀ CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN 1. Về chế biến nôi địa Các cơ sở chế biến nội địa không ngừng được đầu tư phát triển cả ở các HTX lẫn tư nhân. Hiện tại có 03 công ty Cổ phần thủy sản, gần 50 cơ sở chế biến tư nhân và nhiều doanh nghiệp tư nhân. Đã đầu tư mới và đưa vào hoạt động 4 cơ sở chế biến bột cá, với tổng công suất 4.000 tấn sản phẩm/năm (tương đương với 16.000 tấn nguyên liệu). Nghề chế biến thuỷ sản truyền thống được khôi phục và phát triển với chất lượng, mẫu mã ngày càng đẹp như nước mắm cao đạm, mắm tôm, mắm nêm, … Năm 2005 sản xuất được 15 triệu lít nước mắm; mắm các loại đạt 4.500 tấn; bột cá đạt 1.500 tấn; sản phẩm khô (mực khô, cá khô, ruốc khô) đạt hàng nghìn tấn. Bên cạnh đó, nhiều sản phẩm mới được chuyển giao công nghệ đưa vào sản xuất được thị trường chấp nhận như cá tẩm gia vị, mắm tôm chua nguyên con, cá hấp sấy ăn liền, chả cá, … Đặc biệt với sản phẩm cá phi lê sấy tẩm gia vị đã làm cho nguyên liệu cá khai thác tăng giá trị từ 500 đồng/kg năm 1999 lên 2.500 đồng/kg năm 2003. Ngày càng nhiều doanh nghiệp tư nhân làm ăn có hiệu quả và đầu tư lớn trong lĩnh vực chế biến thuỷ sản. Tuy nhiên các cơ sở chế biến chủ yếu dựa vào sức mình là chính, chưa có sự quan tâm đầu tư đúng mức của nhà nước về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. 2.Về chế biến xuất khẩu Ngành chế biến thủy sản ngày càng được nâng cao về công suất và trình độ công nghệ. Hiện nay có 02 công ty chế biến xuất khẩu thủy sản: công ty Xuất nhập khẩu thuỷ sản Nghệ An, Công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản nghệ An II. Ngoài ra còn nhiều cơ sở tư nhân ở các huyện thị ven biển tham gia hoạt động xuất khẩu theo đường tiểu nghạch. - Tổng sản phẩm xuất khẩu năm 2005 đạt 3.350 tấn, tăng 59,5% so với năm 2001. - Kim ngạch xuất khẩu năm 2005 đạt 16 triệu USD; Trong đó xuất chính ngạch chiếm 5%; xuất tiểu ngạch đạt chiếm 95%.( Xem phụ lục 3: Kết quả đạt được của nghành chế biến và xuất khẩu thủy sản giai đoạn 2001-2005). Các cơ sở chế biến đã từng bước được nâng cấp, mở rộng và đầu tư theo chiều sâu, làm đa dạng hóa sản phẩm, gia tăng tỷ trọng sản phẩm có giá trị cao, đảm bảo chất lượng và cải tiến mẫu mã sản phẩm. Nhà máy chế biến 38A đã được nâng cấp hoàn thiện, trang thiết bị tương đối hiện đại cho phép sản xuất các sản phẩm đông lạnh chất lượng cao.Trước đây chủ yếu sử dụng công nghệ đông tiếp xúc, tạo sản phẩm block với thời gian cấp đông kéo dài từ 4-6h/mẻ, nay cơ sở đã nâng cấp và đầu tư mới dây chuyền IQF làm đông nhanh với thời gian chỉ còn dưới 2h/mẻ. Đã áp dụng chương trình quản lý chất lượng theo HACCP, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu hàng vào thị trường EU, Mỹ và các thị trường khó tính khác. Nhà máy 38B thuộc Công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Nghệ An II bước đầu đã được đầu tư để từng bước cải tiến, nâng cấp đồng bộ nhằm đảm bảo sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tốt. Nhà máy đang áp dụng chương trình quản lý chất lượng theo HACCP, cố gắng phấn đấu đủ điều kiện được cấp Code xuất khẩu vào thị trường EU. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu chính ngạch trong thời gian gần đây chững lại, nguyên nhân chủ yếu là máy móc thiết bị, nhà xưởng của các công ty chế biến xuất nhập khẩu chưa được cải tiến, nâng cấp đồng bộ, nguồn tài chính eo hẹp, năng lực cán bộ còn hạn chế; khả năng tiếp cận thị trường, trình độ công nhân còn thấp. Bên cạnh do đặc thù về điều kiện tự nhiên và tính mùa vụ rõ rệt trong khai thác, nuôi thủy sản nên tình trạng thiếu hụt nguyên liệu thường xuyên xảy ra. Do đó vài năm gần đây các doanh nghiệp này làm ăn sa sút, làm mất đi vị thế đầu đàn của mình. Nhiều cơ sở chế biến tư nhân mới ra đời như Công ty Phương Mai và nhiều hộ dân khác đã tham gia thu mua, chế biến nội địa và xuất khẩu tiểu nghạch. Cơ cấu sản phẩm chế biến ngày một đa dạng và phong phú hơn. Nhiều mặt hàng mới đã xuất hiện đáp ứng các yêu cầu tiêu dùng ở các thị trường khác nhau, trong đó thị trường trong nước và thị trường Trung quốc chiếm tỷ trọng lớn. Các mặt hàng tươi sống như cua, ghẹ, nhuyễn thể cũng tăng lên đáng kể. Sản xuất hàng khô của các cơ sở này chưa được quan tâm, chưa có điều kiện đổi mới công nghệ sản xuất, do vậy sản phẩm có tính cạnh tranh chưa cao. 3. Về phát triển thị trường Những kết quả đạt được trong chế biến xuất khẩu thủy sản những năm qua không thể tách rời với việc tập trung chỉ đạo công tác phát triển thị trường. Các cơ sở dần chuyển từ bán hàng và tiếp thị thụ động sang bán hàng và tiếp thị chủ động. a. Thị trường nội địa: Trong những năm gần đây các sản phẩm chế biến thuỷ sản của các đơn vị không những cung cấp cho thị trường trong tỉnh mà còn cung cấp cho các tỉnh lân cận cũng như khu vực miền Bắc, như sản phẩm nước mắm đã có mặt ở các thị trường Hà Nội, Hải Phòng.....vv. Một số sản phẩm đã giải quyết được nhu cầu thị trường trong tỉnh như: Ruốc, mắm chua, cá tẩm gia vị....trước đây chủ yếu nhập từ các tỉnh phía Nam ra. Nhìn chung các cơ sở đã bước đầu chú trọng đến chất lượng sản phẩm, mẫu mã bao bì kích thích thị hiếu người tiêu dùng, cũng như xây dựng thương hiệu cho sản phẩm như thương hiệu nước mắm Vạn Phần, nước mắm Cửa Hội... Tham gia các hội chợ hàng Việt Nam chất lượng cao nhằm quảng bá sản phẩm của mình. b. Thị trường xuất khẩu: Hàng thủy sản Việt Nam đã có mặt tại 105 nước và vùng lãnh thổ, trong đó các thị trường lớn như Nhật bản, Mỹ, EU chiếm thị phần quan trọng. Xuất khẩu thủy sản Nghệ An cuối những năm 90 của thế kỷ 20 cùng trong xu thế chung ấy. Vào thời điểm đó, Công ty XNK thủy sản Nghệ An đã có Code EU và có hàng hóa thâm nhập vào các thị trường EU, Mỹ, Nhật bản, Hàn quốc, Arập - Sêut...với kim ngạch xuất khẩu tăng hàng năm. Những năm gần đây, do khó khăn nhiều mặt các công ty XNK thủy sản Nghệ An chỉ còn là các cơ sở gia công, xuất ủy thác cho các đơn vị lớn trong nước nên vấn đề thị trường nước ngoài không được quan tâm đúng mức. Riêng hàng thủy sản tươi sống; hàng thủy sản khô ở thị trường Trung quốc vẫn được duy trì và phát triển. 4. Về thu hút lao động: Trong những năm qua ngành chế biến đã thu hút được khá đông số lượng lao động ở các địa phương, đặc biệt là ở các địa phương vùng biển. Tuy nhiên chất lượng lao động nhìn chung còn quá thấp. Lao động phổ thông chiếm tỷ lệ trên 95% tổng lao động thuỷ sản của toàn tỉnh; Lao động có trình độ từ trung cấp, cao đẳng, đại học chiếm tỷ lệ thấp (dưới 5%), đội ngũ công nhân có trình độ tay nghề cao chiếm tỷ lệ không nhiều trong tổng số lao động làm việc trong ngành chế biến thuỷ sản, do đó hạn chế đến khả năng tiếp thu các tiến bộ khoa học công nghệ chế biến, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các đơn vị. III. VỀ ĐÀO TẠO. Thời gian qua NAFIQAVED, VASEP đã thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo về GMP, SSOP, HACCP... cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý chất lượng sản phẩm cho hai công ty XNK thủy sản. Các công ty CBXK đã tự tổ chức đào tạo về kiến thức an toàn vệ sinh thực phẩm, quy trình công nghệ mới nhằm nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân. Trung tâm Khuyến ngư hàng năm đã tổ chức các lớp tập huấn về kỹ thuật chế biến thủy sản, về kiến thức ATVSTPcho các cơ sở thu mua, chế biến thủy sản tư nhân và hộ dân. Tuy nhiên, nhìn chung công tác đào tạo còn chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao phục vụ cho nâng cao năng lực hội nhập đẩy nhanh tốc độ phát triển chế biến và xuất khẩu thủy sản. Việc đào tạo cán bộ quản lý chất lượng ATVSTP một cách bài bản cũng mới chỉ dừng ở các công ty XNK thủy sản; các công ty CBTS nội địa chưa được quan tâm nhiều. IV. VỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ Ngoài các hoạt động khoa học từ nguồn kinh phí nhà nước, các doanh nghiệp đã đầu tư đổi mới công nghệ áp dụng kỹ thuật mới trong sản xuất từ sản xuất nguyên liệu đến chế biến, bao gói, bảo quản sản phẩm để nâng cao chất lượng và độ an toàn của sản phẩm, hạ giá thành và đáp ứng yêu cầu thị hiếu của khách hàng. Đối với chế biến sản phẩm xuất khẩu: Đã và đang thực hiện đổi mới từng phần công nghệ như công nghệ đóng gói chân không, công nghệ Sashimi, công nghệ sản xuất các mặt hàng có giá trị gia tăng, công nghệ đông rời IQF, … tuy vậy tốc độ phát triển công nghệ tại các đơn vị chế biến thuỷ sản xuất khẩu tỉnh nhà vẫn còn chậm, chưa theo kịp với tốc độ phát triển công nghệ chung của các công ty chế biến thuỷ sản trong nước. Đối với chế biến sản phẩm nội tiêu: Chủ yếu sử dụng công nghệ chế biến truyền thống, bên cạnh đó có một số công nghệ mới như công nghệ sản xuất nước mắm ngắn ngày bằng Enzim, sản xuất cá tẩm gia vị, tôm nõn, mắm đâm,… tuy nhiên quy mô sản xuất nhỏ, lượng hàng cung cấp ra thị trường còn ít. V. VIỆC SẮP XẾP VÀ ĐỔI MỚI DOANH NGHIÊP NHÀ NƯỚC Các doanh nghiệp đã thực hiện cổ phần hóa nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh đang trong tình trạng khó khăn. Đây cũng là tình trạng chung của các doanh nghiệp CBXK thủy sản khu vực các tỉnh phía bắc hiện nay. a. Các doanh nghiệp cổ phần: Các doanh nghiệp trong thời gian gần đây đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển sự phát triển của ngành nói chung, chủng loại sản phẩm ngày càng đa dạng, chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng cao, thị trường tiêu thụ ngày một mở rộng, tuy nhiên bên cạnh đó còn nhiều mặt hạn chế, trình độ tổ chức sản xuất, quản lý chưa cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh trong thời gian vừa qua còn quá thấp thậm chí còn thua lỗ nặng nề. Hai công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản hiện nay thì chỉ có công ty XNK Thuỷ sản Nghệ An đã đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sang thị trường EU và Mỹ; Còn công ty XNK Thuỷ sản Nghệ An II đang quá trình tiếp cận các thị trường này. Các công ty cổ phần và các cơ sở chế biến thuỷ sản khác hoạt động trong lĩnh vực chế biến thuỷ sản nội địa và tham gia xuất khẩu tiểu ngạch hiện có còn gặp nhiều khó khăn như trình độ tay nghề của người lao động, vốn sản xuất kinh doanh, mặt bằng nhà xưởng, trình độ công nghệ chế biến, … nên trong những năm gần đây tốc độ phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu của các đơn vị này đang còn thấp. b. Các loại hình tổ chức sản xuất khác: Bên cạnh các công ty cổ phần hoạt động trong lĩnh vực chế biến thuỷ sản nội địa thì chế biến thuỷ sản trong nhân dân chủ yếu là kinh tế hộ gia đình chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng sản phẩm. Ngày càng nhiều doanh nghiệp tư nhân làm ăn có hiệu quả và đầu tư lớn trong lĩnh vực chế biến thuỷ sản như doanh nghiệp tư nhân Phương Mai; doanh nghiệp của anh Thâm (Quỳnh L
Luận văn liên quan