Việt Nam là vùng đất nhiều sông hồ, đầm phá, kênh rạch chi chít và bờ biển dài với vùng biển dồi dào nguồn lợi. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi,nguồn lợi sinh vật phong phú, đa dạng như vậy, thuỷ sản Việt Nam đã hình thành và ngày càng phát triển.
Trong điều kiện kinh tế hội nhập quốc tế, nhât là khi Việt Nam mới gia nhập WTO ngành thuỷ sản Việt Nam có những cơ hội và thách thức không nhỏ. Đó vừa là điều kiện vừa là rào cản đối với sự phát triển của ngành thuỷ sản Việt Nam. Đứng trước những cơ hội và thách thức như vậy, vấn đề đặt ra cho ngành thuỷ sản Việt Nam là phải biết tận dụng cơ hội, hạn chế thách thức, biến thách thức thành cơ hội và ngày càng khắc phục được những hạn chế đang tồn tại trong ngành thuỷ sản, lấy thành tựu làm tiền đề, bàn đạp cho sự phát triển.
Cùng với xu hướng thị trường thuỷ sản trong nước cũng như nước ngoài ngày càng tăng, thuỷ sản Việt Nam đã và đang cố gắng từng ngày đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân trong nước và ngoài nước. Xuất hiện trên thị trường nhiều mặt hàng nội địa mới từ các nguồn nguyên liệu mới có (ví dụ như cá tra, cá ba sa, một số loài cá biển và hải sản. . ). Đã có sự gần nhau đáng kể về thị hiếu và an toàn vệ sinh giữa thuỷ sản xuất khẩu và thuỷ sản nội địa. Năm 2006, vừa qua, thuỷ sản Việt Nam đã có một dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển ngành thuỷ sản, đó là xuất khẩu thuỷ sản đã vượt quá ngưỡng 3 tỷ đô la giá trị xuất khẩu. Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam khá vững chắc ở vị trí 1 trong 10 nước có giá trị xuất khẩu hàng đầu thế giới và nằm trong 4 ngành hàng có giá trị xuất khẩu hơn 3 tỷ đô la năm 2006.
86 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2095 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phương hướng và giải pháp cho hoạt động tiêu thụ thuỷ sản của Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam là vùng đất nhiều sông hồ, đầm phá, kênh rạch chi chít và bờ biển dài với vùng biển dồi dào nguồn lợi. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi,nguồn lợi sinh vật phong phú, đa dạng như vậy, thuỷ sản Việt Nam đã hình thành và ngày càng phát triển.
Trong điều kiện kinh tế hội nhập quốc tế, nhât là khi Việt Nam mới gia nhập WTO ngành thuỷ sản Việt Nam có những cơ hội và thách thức không nhỏ. Đó vừa là điều kiện vừa là rào cản đối với sự phát triển của ngành thuỷ sản Việt Nam. Đứng trước những cơ hội và thách thức như vậy, vấn đề đặt ra cho ngành thuỷ sản Việt Nam là phải biết tận dụng cơ hội, hạn chế thách thức, biến thách thức thành cơ hội và ngày càng khắc phục được những hạn chế đang tồn tại trong ngành thuỷ sản, lấy thành tựu làm tiền đề, bàn đạp cho sự phát triển.
Cùng với xu hướng thị trường thuỷ sản trong nước cũng như nước ngoài ngày càng tăng, thuỷ sản Việt Nam đã và đang cố gắng từng ngày đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân trong nước và ngoài nước. Xuất hiện trên thị trường nhiều mặt hàng nội địa mới từ các nguồn nguyên liệu mới có (ví dụ như cá tra, cá ba sa, một số loài cá biển và hải sản.. . ). Đã có sự gần nhau đáng kể về thị hiếu và an toàn vệ sinh giữa thuỷ sản xuất khẩu và thuỷ sản nội địa. Năm 2006, vừa qua, thuỷ sản Việt Nam đã có một dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển ngành thuỷ sản, đó là xuất khẩu thuỷ sản đã vượt quá ngưỡng 3 tỷ đô la giá trị xuất khẩu. Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam khá vững chắc ở vị trí 1 trong 10 nước có giá trị xuất khẩu hàng đầu thế giới và nằm trong 4 ngành hàng có giá trị xuất khẩu hơn 3 tỷ đô la năm 2006.
Để có thể giữ vững và phát triển thị trường thuỷ sản, ngành thuỷ sản nói chung và doanh nghiệp thuỷ sản nói riêng, phải đặt ra các mục tiêu cụ thể, có các giải pháp phát triển rõ ràng. Bên cạnh đó, các chính sách của nhà nước phải được lựa chọn và đề ra phù hợp với tình hình thuỷ hải sản hiện nay.
CHƯƠNG I: NHỮNG LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ TIÊU THỤ
SẢN PHẨM NGÀNH THUỶ SẢN
I. Vai trò và đặc điểm của tiêu thụ sản phẩm ngành thuỷ sản
1. Vai trò của tiêu thụ sản phẩm
Tiêu thụ sản phẩm (TTSP) là một khâu quan trọng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó là quá trình thực hiện giá trị của sản phẩm, là giai đoạn làm cho sản phẩm ra khỏi quá trình sản xuất bước vào lưu thông, đưa sản phẩm từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực tiêu dùng. Biểu hiện giai đoạn TTSP trong quá trình sản xuất kinh doanh theo sơ đồ sau:
Tổ chức tốt và có hiệu quả việc TTSP sẽ có tác dụng mạnh mẽ đến quá trình sản xuất. Tiêu thụ trước hết và kịp thời những sản phẩm làm ra là một tín hiệu tốt cho cơ sở sản xuất kinh doanh bổ sung, điều chỉnh kế hoạch sản xuất cho quá trình tiếp theo. Giá trị sản phẩm được thực hiện cho phép cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng hợp lí nguồn sản xuất, tránh ứ đọng vốn và nhanh chóng thực hiện quá trình tái sản xuất. Thực hiện tiêu thụ nhanh chóng và kịp thời sản phẩm làm ra còn rút ngắn được thời gian lưu kho, lưu thông và chu kì sản xuất kinh doanh của sản phẩm. Như vậy, TTSP là cơ sở thông tin về thị trường cho người sản xuất. Ngược lại sản phẩm không được tiêu thụ là tín hệu xấu đòi hỏi các cơ sở sản xuất kinh doanh thuỷ sản phải tìm ra nguyên nhân (về lưu thông hay về sản xuất) để có biện pháp kịp thời cho phù hợp với yêu cầu của thị trường.
Đối với lĩnh vực tiêu dùng, tiêu thụ tốt sản phẩm sẽ đáp ứng kịp thời, có tác dụng điều chỉnh và hướng dẫn tiêu dùng mới, dặc biệt đối với những sản phẩm mới. Trong nền kinh tế thị trường, sản xuất phải hướng tới tiêu dùng và lấy tiêu dùng làm mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh. TTSP đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong đầu mối này. Thông qua TTSP mà nắm bắt thị hiếu người tiêu dùng về số lượng, mẫu mã, chủng loại, mặt hàng. TTSP là một hoạt động nằm trong lĩnh vực lưu thông có nhiệm vụ chuyển tải những kết quả của lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực tiêu dùng, vì vậy, TTSP kịp thời và nhanh chóng là tiền dề quan trọng thực hiện phân phối sản phẩm và kết thúc quá trình sản xuất kinh doanh thuỷ sản.
Có thể nói rằng, TTSP quyết định đến sự tồn tại và phát triển ngành thuỷ sản.
2. Đặc điểm TTSP thủy sản
Những đặc điểm TTSP của cơ sở sản xuất kinh doanh thuỷ sản gắn liền với với những đặc điểm sản xuất thuỷ sản, với sản phẩm thuỷ sản và thị trường thuỷ sản. Những đặc điểm đó là:
- Sản phẩm thuỷ sản và thị trường thuỷ sản mang tính chất vùng và khu vực. Đặc điểm này xuất phát từ đặc điểm của sản xuất thuỷ sản gắn chặt với điều kiện tự nhiên mang tính chất vùng và khu vực. Lợi thế so sánh và lợi thế tuyệt đối các vùng là yếu tố rất quan trọng trong việc lựa chọn hướng sản xuất kinh doanh của cơ sở sản xuất và tổ chức hợp lý quá trình TTSP. Đối với những sản phẩm chỉ thích ứng với một vùng, thậm chí tiểu vùng và lợi thế tuyệt đối được coi như là những đặc điểm mà ở vùng khác, khu vực khác không có, có thể có những hình thức và phương pháp tiêu thụ đặc biệt. Đối với những loại sản phẩm khá phổ biến mà vùng nào cũng có thì phải có hình thức tiêu thụ thích hợp.
- Tính chất mùa vụ của sản xuất thuỷ sản có tác động mạnh mẽ đến cung cầu thị trường thuỷ sản và giá cả sản phẩm thuỷ sản. Sự khan hiếm dẫn đến giá cả cao vào đầu mùa vụ, cuối vụ và sự dư thừa làm cho giá cả giảm vào chính vụ là một biểu hiện của đặc điểm này. Việc chế biến, bảo quản và dự trữ sản phẩm để đảm bảo cung cầu tương đối ổn định là một yêu cầu cần được chú ý trong quá trình tổ chức TTSP.
- Sản phẩm thuỷ sản rất đa đạng, phong phú và ngày càng trở thành nhu cầu hàng ngày của mỗi người, với thị trường rất rộng lớn nên việc tổ chức TTSP phải hết sức linh hoạt. Sản phẩm cồng kềnh, tươi sống, khó bảo quản, chuyên chở xa, vì vậy, cần tổ chức các chợ nông thôn, các cửa hàng lưu động và nhiều hình thức linh hoạt, thuận tiện cho người tiêu dùng, hoặc sơ chế trước khi đưa vào tiêu thụ, đồng thời phải sử dụng các phương tiện chuyên dùng riêng khi vận chuyển, bảo quản.
- Một bộ phận hàng thuỷ sản được tiêu dùng nội bộ hoặc với tư cách là tư liệu sản xuất, vì vậy, phải tính đến những nhu cầu đó một cách cụ thể để tổ chức tốt việc tiêu thụ đối với thuỷ sản được coi là hàng hoá vượt ra phạm vi tiêu dùng của gia đình, của cơ sở sản xuất kinh doanh.
II. Nội dung hoạt động tiêu thụ sản phẩm của cơ sở sản xuất kinh doanh thuỷ sản
1. Nội dung hoạt động TTSP của cơ sở sản xuất kinh doanh thuỷ sản
1.1 Nghiên cứu và dự báo thị trường
Thị trường là lĩnh vực cụ thể của lưu thông hàng hoá, là tổng hợp những điều kiện (kinh tế, kĩ thuật, tâm lý, xã hội, tự nhiên) để thực hiện giá trị hàng hóa, phản ánh quan hệ giữa người và người trong lĩnh vực trao đổi mua bán sản phẩm hàng hoá và dịch vụ.
Thị trường sản phẩm thuỷ sản có thể hiểu theo nghĩa hẹp hơn, đó là “ vị trí địa lí” hay thường gọi là chợ thuỷ sản, thông qua đó người bán và người mua trực tiếp gặp nhau, trao đổi để mua bán sản phẩm.
Thị trường sản phẩm thuỷ sản đều chứa đựng một tổng cung và một tổng cầu về một loại sản phẩm, hàng hoá thuỷ sản nào đó và bất cứ thị trường sản phẩm thuỷ sản nào hoạt động cũng thực hiện sự trao đổi ngang giá trị do các sản phẩm làm ra, nó gắn sản xuất với tiêu dùng. Mọi sự trao đổi trên thị trường sản phẩm thuỷ sản đều chịu sự tác động, chi phối của các quy luật kinh tế hàng hoá nói chung như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.
Trên thị trường sản phẩm thuỷ sản, số lượng hàng hoá bán ra thì biểu hiện thành cung, còn số lượng hàng hoá mua vào thì biểu hiện thành cầu. Tương quan về lượng giữa cung và cầu sản phẩm thuỷ sản phản ánh giá cả của thị trường sản phẩm thuỷ sản. Giá cả thị trường tăng thì cung tăng và cầu giảm, giá cả thị trường giảm thì cung giảm và cầu tăng. Giá cả thị trường là yếu tố duy nhất quyết định dung lượng cung, cầu sản phẩm thuỷ sản trên thị trường.
Quan hệ cung cầu và giá cả của sản phẩm hàng hoá thuỷ sản tạo thành cái nôi kinh tế của thị trường sản phẩm thuỷ sản, hay nói cách khác, đó là những yếu tố cấu thành thi trường sản phẩm thuỷ sản. Quan hệ cung cầu trên thị trường sản phẩm thuỷ sản là quan hệ giữa khối lượng sản phẩm hàng hoá thuỷ sản cung ứng cho thị trường và nhu cầu có khả năng thanh toán của thị trường. Nhưng cung và cầu vận động nhờ vào sự tác động mang tính “xúc tác” là giá cả của hàng hoá. Vì vây, nghiên cứu cung cầu sản phẩm thuỷ sản trên thị trường phải đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với giá cả của sản phẩm hàng hoá trên thuỷ sản.
Thị trường sản phẩm thuỷ sản nói chung có vai trò vô cùng quan trọng đối với sản xuất kinh doanh của ngành và cơ sở sản xuất kinh doanh thuỷ sản. thị trường sản phẩm thuỷ sản là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Nắm bắt thị trường, nghiên cứu đầy đủ và dự báo chính xác thị trường tiêu thụ giúp cho cơ sở sản xuất kinh doanh thuỷ sản có kế hoạch và chiến lược đúng đắn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Vì vậy, nghiên cứu và dự báo thị trường và nội dung quan trọng trước tiên, là việc thường xuyên phải được tiến hành trong hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ sở sản xuất kinh doanh.
- Nghiên cứu thị trường: Nghiên cứu thị trường nhằm xác định khả năng tiêu thụ sản phẩm của cơ sở sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó nâng cao khả năng thích ứng với thị trường của sản phẩm của cơ sở sản xuất kinh doanh từ đó tiến hành tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của cơ sở sản xuất kinh doanh có hiệu quả theo yêu cầu của thị trường. Nghiên cứu thị trường bao gồm việc: Nghiên cứu khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường của cơ sở sản xuất kinh doanh; Nghiên cứu các đối tượng tiêu dùng sản phẩm của cơ sở sản xuất kinh doanh về cơ cấu, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời gian và địa điểm; Nghiên cứu cả những đối thủ cạnh tranh của mình nghĩa là nghiên cứu không chỉ nhóm người mua mà cả nhóm người bán. Việc nghiên cứu cả nhóm người bán tức là cả các đối thủ cạnh tranh của cơ sở sản xuất kinh doanh cho phép tìm ra khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường của cơ sở sản xuất kinh doanh trong điều kiện có nhiều người bán và nhiều người mua tức là thị trường không hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo.
Để nghiên cứu thị trường, có thể thông qua sự biến đổi giá cả của thị trường thông qua phương pháp tiếp thị của cán bộ, nhân viên của cơ sở sản xuất kinh doanh, tổ chức các hội nghị khách hàng, những cuộc điều tra hay thăm dò ý kiến khách hàng… Khi nghiên cứu đối tượng khách hàng cần nghiên cứu phân loại khách hàng về mức thu nhập của các loại khách hàng về giới tính, độ tuổi… xem xét số lượng, chất lượng, giá cả mà mỗi loại khách hàng ưa dùng để từ đó có đối sách thích ứng với từng loại. Khi nghiên cứu đối thủ cạnh tranh cần chú ý đến tiềm năng kinh tế, kỹ thuật và khả nâng thâm nhập vùng thị trường của từng đối thủ cạnh tranh.
- Dự báo thị trường: trên cơ sở nghiên cứu nắm bắt thị trường để có những giải pháp thích hợp với việc tiêu thụ sản phẩm của cơ sở sản xuất kinh doanh. Việc dự báo đúng đắn thị trường giúp cho cơ sở sản xuất kinh doanh vạch ra hướng chiến lược và triển vọng của mình tham gia vào thị trường, từ đó có những quyết định đúng đắn đối với việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Về mặt thời gian dự báo thị trường, cơ sở sản xuất kinh doanh có thể dự báo dài hạn và ngắn hạn. Dự báo dài hạn và trung hạn giúp cho cơ sở sản xuất kinh doanh vạch ra chiến lược lâu dài của mình trong lĩnh vực tiêu thụ sản phẩm và cả trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Nội dung dự báo bao gồm: Dự báo khả năng và triển vọng về cung cầu sản phẩm đang sản xuất và những sản phẩm mới mà cơ sở sản xuất kinh doanh có thể sản xuất; Dự báo về khách hàng để lựa chọn khách hàng chủ lực, thường xuyên của cơ sở sản xuất kinh doanh, có thể xuất hiện những loại khách hàng mới, dự báo về cơ cấu và chủng loại sản phẩm có triển vọng, dự báo về thời gian, không gian tiêu thụ sản phẩm và dự báo về xu thế biến động của giá cả.
Việc nghiên cứu thị trường và dự báo thị trường một cách cụ thể, tỉ mỉ với những phương pháp thích hợp giúp cho cơ sở sản xuất kinh doanh có những bổ sung và quyết định đúng đắn trong việc sản xuất kinh doanh của mình. Giúp trả lời được các câu hỏi như: Việc tham gia vào thị trường tiêu thụ sản phẩm đưa lại lợi ích gì cho cơ sở sản xuất kinh doanh? Thị trường nào là chính? Để cải tiến và nâng cao hiệu quả tiêu thụ sản phẩm, cơ sở sản xuất kinh doanh nên tiến hành như thế nào? Bắt đầu từ đâu? Thu hẹp hay mở rộng khả năng sản xuất của cơ sở sản xuất kinh doanh…?
1.2 Xác định giá cả tiêu thụ
Giá cả là một phạm trù của kinh tế hàng hóa. Với chức năng là thước đo giá trị, giá cả như là tín hiệu của nhà sản xuất, người tiêu dùng và là thông tin quan trọng thể hiện sự biến động cung cầu trên thị trường. Giá cả trở thành công cụ quan trọng điều khiển quan hệ cung cầu, vì vậy giá cả vừa có tác dụng kích thích sản xuất, vừa hạn chế đối với người sản xuất và tiêu dùng, mặt khác giá cả còn là một công cụ để phân phối lại lợi nhuận của cơ sở sản xuất kinh doanh.
Việc xác định hợp lý giá cả của cơ sở sản xuất kinh doanh bảo đảm cho cơ sở sản xuất kinh doanh bảo tồn được vốn sản xuất và có lãi. Giá tiêu thụ sản phẩm của cơ sở sản xuất kinh doanh được quyết định bởi tổng chi phí sản xuất và lưu thông sản phẩm.
Giá bán sản phẩm có thể tăng do 3 nguyên nhân:
- Tăng chi phí sản xuất: tăng cầu quá mức và tăng tiền quá mức (lạm phát). Trong trường hợp các chi phí sản xuất tăng lên như chi phí lao động, thuế, chi phí trung gian, chi phí hành chính… thì để đảm bảo giữ nguyên lợi nhuận, người sản xuất buộc phải tăng giá. Về nguyên tắc để đảm bảo lợi nhuận, các chi phí sản xuất phải được chuyển vào giá bán. Song trong điều kiện có cạnh tranh không phải bất cứ sự tăng chi phí nào cũng đều làm tăng giá cả sản phẩm.
- Ảnh hưởng của cầu làm tăng giá. Sự tăng cầu một sản phẩm nào đó dẫn đến làm tăng năng lực sản xuất sản phẩm đó. Nếu cầu vượt quá khả năng sản xuất thì người bán có thể tăng giá. Song do cạnh tranh nên không thể tăng giá liên tục.
- Phát hành tiền quá mức cũng làm cho giá sản phẩm tăng lên. Đây là trường hợp nền kinh tế lâm vào thị trường lạm phát.
Khi xem xét và quyết định mức giá bán ra của sản phẩm, cơ sở sản xuất kinh doanh cần phải lưu ý đến các yếu tố trên đây trong cơ chế hoạt động của giá cả và quy định mức giá nào đảm bảo bù đắp chi phí sản xuất và đảm bảo cho cơ sở sản xuất kinh doanh có lãi. Vì vậy phải linh hoạt điều chỉnh mức giá kịp thời nhằm nhanh chóng tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra. Lựa chọn thời điểm bán hàng và tiêu thụ sản phẩm cũng là yếu tố quan trọng. Lựa chọn thời điểm bán hàng có lợi nhất (được giá) là đảm bảo luân chuyển nhanh vốn của cơ sở sản xuất kinh doanh.
1.3. Tổ chức mạng lưới tiêu thụ sản phẩm
Là việc đưa sản phẩm thủy sản của cơ sở sản xuất kinh doanh đến người tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường khách hàng, người tiêu dùng là đối tượng phục vụ của sản xuất vì vậy phải lựa chọn phương pháp nào để đưa sản phẩm đến người tiêu dùng nhanh, thuận lợi nhất. Việc đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng có thể theo sơ đồ sau:
Như vậy có hai phương thức tiêu thụ sản phẩm chủ yếu
+ Sản phẩm có thể trực tiếp từ người sản xuất (cơ sở sản xuất kinh doanh) đến người tiêu dùng dưới hình thức bán lẻ ở các kiốt ngay trong cơ sở sản xuất kinh doanh, bán ở các chợ (nông thôn, thành thị) hoặc dưới hình thức bán trực tiếp đến người tiêu dùng (bán rong). Đây là hình thức được thực hiện chủ yếu ở các dạng biến động thủy sản và các hộ nông dân (có khối lượng hàng hóa không lớn).
+ Sản phẩm có thể đến người tiêu dùng qua khâu tổ chức trung gian là chức năng thương nghiệp: các đại lý, các công ty thương nghiệp và tư thương… Ở đây, các cơ sở sản xuất kinh doanh bán buôn thủy sản cho các tổ chức thương nghiệp để họ thực hiện bán lẻ thủy sản cho người tiêu dùng.
Hệ thống cơ sở hạ tầng TTSP thuỷ sản của Việt Nam đang từng bước phát triển. Các chợ sản phẩm thuỷ sản đã hình thành và hoạt động sôi động. Các chợ cá thường đi cùng với các bến hoặc cảng cá. Nói chung các chợ cá nằm trên đất liền, tuy nhên gần đây, trên toàn quốc đã có 4 cảng cá và chợ cá ở vùng khơi mới hình thành. Việt Nam có chợ cá độc lập hoặc tổng hợp cho các sản phẩm thuỷ sản.
Chợ bán buôn nội địa : Trước năm 2002, cả nước chưa có trung tâm kinh doanh hay chợ bán buôn riêng biệt dành cho các sản phẩm thuỷ sản. Kinh doanh thuỷ sản thường được tiến hành ở bến cá hoặc rải rác ở chỗ những người kinh donh thuỷ sản. Các thành phần nghề cá không có đủ thông tin về sản lượng, khả năng tiếp cận và tiêu thụ sản phẩm, giá cung cấp thuỷ sản không phản ánh giá thị trường thực tế. Những người kinh doanh và tiêu dùng thuỷ sản không thể thoã mãn với các sản phẩm kinh doanh.
Chợ và cửa hàng bán lẻ: người tiêu dùng có thể tiếp cận với sản phẩm thuỷ sản ở các chợ khác nhau. Có thể mua được nhiều loại, dạng, số lượng và chất lượng thuỷ sản ở các chợ tuỳ thuộc vào phạm vi và quy mô của chợ. Các chợ thường tập trung nhiều nhất ở các thành phố và khu đô thị lớn nhằm cung cấp thực phẩm nói chung và thuỷ sản nói riêng cho người tiêu dùng.
1.4. Tổ chức thông tin quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của cơ sở sản xuất kinh doanh
Hướng dẫn người tiêu dùng sử dụng sản phẩm của mình, thu hút sự chú ý của khách hàng đối với sản phẩm của cơ sở sản xuất kinh doanh. Có thế sử dụng các thông tin đại chúng như đài, báo, tạp chí, áp phích, tờ rơi… Quảng cáo nói lên công dụng và tiện lợi về việc sử dụng sản phẩm của cơ sở sản xuất kinh doanh. Tùy theo từng loại sản phẩm và đối tượng tiêu dùng mà có hình thức quảng cáo thích hợp. Bao bì, đóng gói, mật mã và các nhãn mãn sản phẩm của cơ sở sản xuất kinh doanh cũng là một hình thức quảng cáo có hiệu quả. Tham gia các hội chợ thương mại là một hình thức tốt và có hiệu quả để giới thiệu sản phẩm và có thể qua hội chợ để ký hợp đồng tiêu thụ và thu hút khách hàng.
Đối với các loại thủy sản xuất khẩu cần tích cực và chủ động trong việc tham gia các hội chợ thương mại quốc tế
Tổ chức các cửa hàng giới thiệu sản phẩm ngay trong cơ sở sản xuất kinh doanh hay ở những thuận lợi vừa giới thiệu sản phẩm, vừa bán sản phẩm cũng là một hình thức quảng cáo tốt. Hoặc tham gia các hội chợ, triển lãm qua đó giới thiệu sản phẩm và ký hợp đồng tiêu thụ, tổ chức hội nghị khách hàng.
Đối với sản phẩm chế biến cần đăng ký sản phẩm của mình cả về quy cách, nhãn mác, giúp cho cơ sở sản xuất kinh doanh đảm bảo sở hữu công nghiệp về sản phẩm của mình. Tránh làm hàng giả và lợi dụng uy tín của những người khác.
2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
Đánh giá toàn diện hoạt động bán hàng cả về khối lượng, giá trị hàng hoá bán ra, chi phí bán hàng và kết quả hoạt động bán hàng. Đánh giá cả mặt định tính đến định lượng, sử dụng các chỉ tiêu tuyệt đối và tương đối.
* Đánh giá kết quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm
+ Khối lượng sản phẩm bán ra theo tổng số, chia các mặt hàng, khách hàng thời gian, khu vực bán.
+ Doanh số và doanh thu bán theo tổng, các mặt hàng, cho khách hàng theo thời gian và khu vực.
+ Số lượng (giá trị) hàng còn tồn kho, hàng đi trên đường chờ thanh toán.
+ Số khách hàng bán được,doanh số trên một khách hàng bình quân.
+ Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch bán hàng về khối lượng và giá trị
+ Tỷ phần thị trường của doanh nghiệp trong kỳ, tỷ phần tăng thêm (giảm đi) trong kỳ
* Chi phí bán hàng
+ Tổng chi phí bán hàng, các khoản mục chi phí bán hàng như chi khấu hao, chi tiền lương, chi lãi vay ngân hàng.
+ Chi phí trực tiếp và gián tiếp bán hàng, chi phí cố định, chi phí biến đổi.
+ Vốn lưu động bình quân sử dụng.
+ Số vòng quay của vốn lưu động,thời gian một vòng quay.
+ Chi phí hàng hoá tồn kho.
+ Chi phí hàng mất không thu hồi.
* Hiệu quả bán hàng
+ Lãi gộp, lãi thuần.
+ Mực lợi nhuận trên doanh thu, chi phí và vốn kinh doanh.
+ Đánh giá mức độ hài lòng của khách hàng về hàng hoá, về dịch vụ,về nhân viên phục vụ.
+ Những ý kiến không hài lòng của khách hàng
III. Những nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức tiêu thụ sản phẩm của cơ sở sản xuất kinh doanh thủy sản.
Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức tiêu thụ sản phẩm có thể phân theo các nhóm sau đây:
1. Nhóm nhân tố thị trường
Hiện nay các cơ sở sản xuất kinh doanh thủy sản tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của n